Thấy được tôi là kẻ chán ghét lẽ thật
Một ngày đầu năm nay, tôi phát hiện ra một người mới tin vừa gia nhập hội thánh không lâu đã bỏ hai buổi hội họp, nên tôi hỏi trưởng nhóm lý do chuyện này, nhưng chị ấy không trả lời. Về sau, người mới đó đi hội họp trở lại, nên tôi không chất vấn trưởng nhóm về lý do chuyện đó nữa. Tôi nghĩ: “Miễn là người mới này tham gia hội họp bình thường thì ổn cả rồi. Hiện giờ các bổn phận của mình nhiều việc quá, theo dõi đến tận chi tiết thì tốn sức và tốn thời gian lắm. Khi nào có thời gian, mình sẽ hỏi”. Nhưng sau đó, tôi quên bẵng đi chuyện này. Trong một cuộc họp khác, tôi để ý thấy người mới này bỏ về giữa chừng. Tôi hỏi trưởng nhóm lý do, nhưng chị ấy vẫn không trả lời tôi, và tôi cũng không hề tìm hiểu rốt ráo vấn đề. Tôi cũng chẳng tìm gặp người mới đó để hỏi xem chị ấy có tình trạng hay khó khăn gì không. Sau một thời gian, tôi đột nhiên nhận thấy người mới này không đi hội họp nhiều lần liên tiếp. Đến lúc này, tôi mới bắt đầu thấy lo, liền liên lạc với người mới đó, nhưng chị ấy chẳng trả lời. Tôi lo là người mới này sẽ rời bỏ hội thánh, nên đã hỏi chị trưởng nhóm để xem chị ấy có thể liên lạc với người mới này không. Nhưng chị trưởng nhóm bảo tôi rằng: “Người mới này chưa hề chấp nhận yêu cầu kết bạn của tôi, nên tôi chẳng thể liên lạc được”. Tôi cảm thấy hơi hối hận. Nếu tôi tìm hiểu vấn đề này sớm hơn, có lẽ tôi đã nghĩ ra cách khắc phục, nhưng giờ quá muộn rồi. Tôi có lỗi vì không theo sát chuyện này. Tôi đã tìm đọc những đoạn chat với người mới này, với hy vọng biết thêm về tình trạng của chị ấy. Hóa ra, sau khi nói vài lời hỏi thăm với chị ấy, tôi chẳng hề nói thêm gì với chị ấy nữa. Tôi chẳng biết chút gì về chị ấy. Tôi nhận ra hy vọng đưa được người mới này quay lại là quá mỏng manh. Xảy ra chuyện này là vì tôi đã qua loa tắc trách. Nhưng lúc đó, tôi chẳng nghiêm túc phản tỉnh về vấn đề này. Tôi chỉ nghĩ thoáng qua về nó, thừa nhận rằng mình hơi bất cẩn, có thế thôi.
Chẳng bao lâu, người phụ trách hỏi tôi về người mới này và về lý do chị ấy rời bỏ hội thánh. Nghe vậy, tôi thấy rất lo. Tôi nghĩ bụng: “Trời ạ, mình sắp bị vạch trần rồi”. Chắc chắn người phụ trách sẽ nói tôi qua loa trong bổn phận và không đáng tin cậy. Nếu bị tước bổn phận, tôi sẽ làm gì đây? Đích thị là thế, người phụ trách đã chỉ ra vấn đề của tôi sau khi xem đoạn chat, nói rằng tôi làm việc qua loa và không quan tâm, không cố gắng tìm hiểu về tình trạng của người mới này. Nghe vậy, tôi liền lên tiếng biện minh: “Người mới này không trả lời câu hỏi thăm của tôi, nên tôi đâu thể nói thêm được gì”. Người phụ trách mới xử lý tôi, nói rằng: “Đâu phải là anh không nói thêm được, anh không quan tâm chút nào về người mới này thì có”. Tôi lo rằng nếu thừa nhận mình đã qua loa thì tôi sẽ phải chịu trách nhiệm, nên vội giải thích ngay: “Trưởng nhóm chịu trách nhiệm chính cho người mới này. Tôi cứ tưởng trưởng nhóm đã liên lạc với chị ấy, nên tôi mới không hỏi han về tình trạng của chị ấy kịp thời. Tôi cũng đã hỏi trưởng nhóm, nhưng trưởng nhóm chẳng báo lại kịp thời cho tôi”. Tôi đưa cho người phụ trách xem những tin nhắn tôi đã gửi cho trưởng nhóm để chứng minh tôi thật sự đã quan tâm đến người mới đó. Tôi còn cho người phụ trách xem những tin nhắn tôi gửi cho người mới đó sau này để chứng minh chính tôi đã phát hiện ra chị ấy không đi hội họp và tôi đã cố liên lạc chị ấy kịp thời, nhưng chị ấy chẳng trả lời tôi. Tôi còn tìm ra lý do để nói rằng tôi không thể gọi điện cho người mới đó, và người truyền bá Phúc Âm cũng không cho tôi số điện thoại chị ấy. Suốt thời gian đó, tôi chỉ toàn nghĩ cách để trốn tránh trách nhiệm. Tôi đưa ra nhiều lý do khách quan, hy vọng người phụ trách sẽ nghĩ chuyện này có nguyên cớ cả và không phải là lỗi của tôi, hay ít nhất sẽ có người khác cùng chịu trách nhiệm với tôi. Người phụ trách nói là tôi không thừa nhận vấn đề của mình và trốn tránh trách nhiệm, rồi xử lý tôi thế này: “Người mới này đã đến tham gia vài buổi hội họp, chứng tỏ rõ ràng là chị ấy khao khát lẽ thật, nhưng anh chẳng hỏi về tình trạng và khó khăn của chị ấy kịp thời, giờ anh lại trốn tránh trách nhiệm bằng cách bảo là mình không có số chị ấy. Hơi vô lý đấy!”. Tôi nhận ra rằng người phụ trách đã thấy rõ các vấn đề của tôi và tôi không thể nào trốn tránh trách nhiệm được. Tôi lo lắng, nghĩ rằng: “Người phụ trách sẽ nghĩ gì về mình đây? Chị ấy sẽ nói mình không làm được công tác thực tế nào? Mình sẽ bị tước bổn phận sao?”. Tôi đã rất lo lắng, không thể nào bình tâm được. Sau đó, tôi xem lại mọi chuyện dẫn đến tình cảnh này, và nhận ra rằng tôi đã không trung thực trong chuyện này, cũng không tiếp nhận sự xử lý và tỉa sửa. Rõ ràng tôi đã không làm tròn bổn phận, đã qua loa tắc trách, thế mà tôi vẫn giở trò và viện cớ để biện minh cho mình. Tôi còn cố đổ lỗi cho người truyền bá Phúc Âm đã không cho tôi số điện thoại. Tôi đã không chịu thừa nhận sự thật là tôi qua loa trong bổn phận, cũng không chịu phản tỉnh. Nhìn vào hành vi của của mình, tôi thấy bứt rứt lắm. Dù tôi đọc lời Đức Chúa Trời mỗi ngày, nhưng khi gặp hoàn cảnh thực tế, khi bị xử lý, tôi vẫn sống theo tâm tính bại hoại và không tiếp nhận lẽ thật. Tôi cảm thấy sự bại hoại của mình quá sâu sắc rồi, và xác định rằng sẽ rất khó để tôi thay đổi, nên tôi cảm thấy hơi tiêu cực.
Sau đó, tôi đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời. “Mưu cầu lẽ thật mang tính tự nguyện; nếu ngươi yêu lẽ thật thì Đức Thánh Linh hoạt động. Với tình yêu lẽ thật là nền tảng của ngươi, xem xét và biết bản thân khi mọi thứ xảy đến với ngươi, và chủ động tìm kiếm các nguyên tắc của lẽ thật, và cuối cùng trở nên có thể thực hành theo các nguyên tắc đó – loạt hành vi và lối vào này đều là tự nguyện; không ai ép buộc ngươi làm cả, và không có một điều kiện bổ sung nào kèm theo. Khi đã làm những điều này, những gì ngươi thu được vào sau hết chính là lẽ thật, và những gì ngươi bước vào chính là thực tế của lẽ thật. … Dù lý do của ngươi là gì, hoặc liệu chúng có đủ tốt hay không, hoặc liệu chúng có khả thi rõ ràng hay không, thì cũng không quan trọng – nếu ngươi không mưu cầu lẽ thật, thì kết quả cuối cùng sẽ là Đức Chúa Trời đối xử với ngươi dựa trên việc ngươi đã không mưu cầu lẽ thật. Lý do của ngươi không hợp lệ; Đức Chúa Trời dứt khoát không đếm xỉa đến chúng. Ngài ‘không đếm xỉa’ đến chúng có nghĩa là gì? Có nghĩa là Ngài không quan tâm đến những lý do của ngươi. Hãy cứ rối lên tùy thích; cố gắng lý luận tùy thích – Đức Chúa Trời có quan tâm không? Liệu Đức Chúa Trời có trò chuyện với một người như vậy không? Ngài có tranh luận và trao đổi với ngươi không? Ngài có tham khảo ý kiến của ngươi không? Câu trả lời là gì? Không. Ngài tuyệt đối sẽ không làm thế. Lý do của ngươi không hợp lệ, dù nó nghe có vẻ hợp lý thế nào đi nữa. Con người không được hiểu sai ý muốn của Đức Chúa Trời, nghĩ rằng họ có thể đưa ra đủ loại lý do và cái cớ cho việc không mưu cầu lẽ thật. Đức Chúa Trời sẽ để ngươi tìm kiếm lẽ thật trong mọi hoàn cảnh và mọi vấn đề xảy đến với ngươi, cuối cùng để ngươi đạt được lối vào thực tế của lẽ thật và đạt được lẽ thật. Những hoàn cảnh cụ thể mà Đức Chúa Trời đã sắp đặt cho ngươi, những con người và sự kiện mà ngươi gặp phải, và môi trường mà bản thân ngươi đang ở chính là những bài học mà ngươi nên học khi mưu cầu lẽ thật. Ngươi nên cầu nguyện với Đức Chúa Trời và tìm kiếm lẽ thật để tìm ra giải pháp. Nếu ngươi luôn tìm cách viện cớ, lảng tránh, từ chối, chống đối, thì Đức Chúa Trời sẽ từ bỏ ngươi. Ngươi có bất trị, khó chịu, hoặc lý sự thì cũng sẽ vô ích; Đức Chúa Trời sẽ chẳng bận tâm đến ngươi” (“Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt”). Trong lời Đức Chúa Trời, tôi thấy rằng để giải quyết sự bại hoại và bước vào những thực tế của lẽ thật không khó. Điểm mấu chốt là người ta chọn lựa thế nào và liệu họ có tìm kiếm và thực hành lẽ thật không. Dù hoàn cảnh có thế nào, dù có bị tỉa sửa và xử lý, hay là gặp thất bại và trở ngại, người ta phải có thể phản tỉnh bản thân và tích cực tìm kiếm lẽ thật. Một khi hiểu ra được một chút, thì đưa nó vào thực hành và hành động dựa trên các nguyên tắc của lẽ thật. Làm như thế, ta sẽ thấy mình trưởng thành và thay đổi. Tuy nhiên, khi bị tỉa sửa và xử lý, nếu ta cứ luôn trốn tránh, phủ nhận và viện cớ, ta sẽ không chỉ không có được lẽ thật mà còn bị Đức Chúa Trời cự tuyệt. Nhìn vào bản thân, khi bị tỉa sửa và xử lý, tôi đã không tiếp nhận, không vâng phục, không chân thành thừa nhận và phản tỉnh về vấn đề đó, cũng không tích cực tìm kiếm lẽ thật để giải quyết tâm tính bại hoại của mình. Thay vào đó, tôi trở nên tiêu cực, chống đối và xác định rằng tôi khó mà thay đổi. Tôi đã vô lý và cự tuyệt hoàn cảnh mà Chúa sắp đặt cho tôi! Đây không phải thái độ tiếp nhận lẽ thật. Khi nhận ra chuyện này, tôi chẳng muốn sống trong tình trạng tiêu cực và hạn định bản thân. Tôi muốn tìm kiếm lẽ thật để giải quyết các vấn đề của mình.
Tôi bắt đầu phản tỉnh và tự vấn tại sao tôi thường nói chuyện rất dễ nghe, nhưng khi bị xử lý, tôi lại không tiếp nhận, trở nên tiêu cực và chống đối. Chuyện này phơi bày tâm tính gì đây? Khi tìm kiếm, tôi đã đọc được hai đoạn lời Đức Chúa Trời. “Có những người có thể thừa nhận rằng họ là ác quỷ, là Sa-tan, con cháu của con rồng lớn sắc đỏ, những người nói năng khá hay về việc biết bản thân mình, nhưng khi họ tỏ lộ tâm tính bại hoại, và ai đó vạch trần họ, xử lý họ, và tỉa sửa họ, thì họ cố gắng hết sức để biện minh cho mình và không chấp nhận lẽ thật một chút nào. Vấn đề ở đây là gì? Trong việc này, một người bị vạch trần hoàn toàn. Họ nói năng rất hay khi họ nói về việc biết bản thân mình, vậy tại sao khi đối mặt với sự tỉa sửa và bị xử lý, họ lại không thể chấp nhận lẽ thật? Có một vấn đề ở đây. Chẳng phải loại vấn đề này quá phổ biến sao? Nó có dễ nhận biết không? Có, thực tế là vậy. Có khá nhiều người thừa nhận họ là ma quỷ và là Sa-tan khi nói về sự tự biết mình, nhưng họ không ăn năn hoặc thay đổi sau đó. Vậy, những lời nói về sự tự biết mình như vậy là thật hay giả? Sự hiểu biết ấy của họ là chân thành, hay là một mưu mẹo nhằm lừa người khác? Câu trả lời đã quá rõ. Do đó, để biết liệu một người có biết bản thân họ một cách chân thành hay không, ngươi không nên chỉ nghe họ nói về sự hiểu biết đó – ngươi nên nhìn vào thái độ của họ và liệu họ có thể chấp nhận lẽ thật khi phải đối mặt với việc tỉa sửa và bị xử lý hay không. Đó là điều quan trọng nhất. Bất cứ ai không chấp nhận bị xử lý và tỉa sửa đều có bản chất không chấp nhận lẽ thật, bản chất từ chối chấp nhận nó. Tâm tính của họ là tâm tính chán ghét lẽ thật. Điều này quá chắn chắn. Một số người dù đã tỏ lộ bao nhiêu sự bại hoại cũng không cho phép người khác xử lý họ. Không ai có thể tỉa sửa họ hoặc xử lý họ. Họ ổn khi nói về sự tự biết mình của chính họ và sẽ nói bất cứ điều gì, nhưng nếu ai đó vạch trần họ, chỉ trích họ hoặc xử lý họ, dù khách quan hay thực tế thế nào, họ cũng không chấp nhận điều đó. Bất kể khía cạnh nào của tâm tính đã tỏ lộ của họ bị vạch trần, họ cũng rất ương ngạnh và khăng khăng đưa ra những lời biện minh nghe có vẻ hợp lý cho bản thân mà không hề thật sự quy phục” (“Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt”). “Những cách chủ yếu mà qua đó biểu thị sự chán ghét lẽ thật không chỉ là những cảm giác ác cảm với lẽ thật khi nghe nhắc đến; chúng còn bao gồm việc không sẵn lòng thực hành lẽ thật. Khi đến lúc đưa lẽ thật vào thực hành, một người như vậy sẽ thoái lui, và lẽ thật không liên quan gì đến họ. Một số người khi thông công trong các buổi nhóm họp, họ có vẻ rất hoạt ngôn, họ thích lặp lại những lời lẽ học thuyết và đưa ra những tuyên bố cao siêu để thu phục người khác; điều đó làm cho họ trông hay ho, và cảm thấy tốt, và họ cứ thao thao bất tuyệt. Và rồi có những người bận rộn cả ngày với những vấn đề về đức tin: đọc lời Đức Chúa Trời, cầu nguyện, nghe thánh ca, ghi chép, như thể họ không thể xa Đức Chúa Trời dù chỉ trong chốc lát. Từ tờ mờ sáng cho đến khi tối mịt, họ bận rộn thực hiện bổn phận của mình. Vậy thì những người này có thực sự yêu lẽ thật không? Họ không có tâm tính gì để chán ngán lẽ thật sao? Khi nào thì người ta có thể nhìn thấy trạng thái thực sự của họ? (Khi đến lúc thực hành lẽ thật, họ né tránh nó, và khi họ gặp phải việc bị xử lý và tỉa sửa, họ không sẵn lòng chấp nhận). Có thể nào điều này là bởi họ không hiểu những gì họ nghe, hay là vì họ không hiểu lẽ thật, mà họ không muốn chấp nhận không? Cả hai đều không phải – họ bị chi phối bởi bản tính của họ, và vấn đề thuộc về tâm tính. Trong thâm tâm, họ biết khá rõ rằng lời Đức Chúa Trời là lẽ thật và những điều tích cực, rằng việc thực hành lẽ thật có thể mang lại sự thay đổi trong tâm tính của một người và khiến một người đáp ứng ý muốn của Đức Chúa Trời, nhưng họ đơn thuần không chấp nhận hoặc thực hành chúng. Chán ghét lẽ thật là như vậy” (“Cần phải hiểu sáu khía cạnh của tâm tính bại hoại để thay đổi tâm tính” trong Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt).
Từ lời Đức Chúa Trời, tôi thấy người ta có tâm tính chán ghét lẽ thật. Biểu hiện của nó là không tiếp nhận lẽ thật, không tiếp nhận chuyện bị xử lý và tỉa sửa, không thực hành lẽ thật. Tôi đọc lời Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận hằng ngày, khi hội họp, tôi có thể thừa nhận mình có tâm tính bại hoại theo lời Đức Chúa Trời, thừa nhận tôi thuộc về Sa-tan, là con của con rồng lớn sắc đỏ, đủ thứ. Bề ngoài, có vẻ tôi tiếp nhận lẽ thật, nhưng khi bị tỉa sửa và xử lý vì qua loa tắc trách trong bổn phận, tôi nhận ra mình hoàn toàn chẳng phải người tiếp nhận hay thực hành lẽ thật gì cả, thấy rằng tôi đã bộc lộ tâm tính chán ghét lẽ thật trong mọi việc. Tôi biết rằng yêu cầu căn bản đối với người chăm tưới là phải có trách nhiệm và kiên nhẫn. Những người mới tin thì giống như trẻ sơ sinh vậy, họ chưa bén rễ trên con đường thật, và rất yếu đuối trong đời sống. Nếu họ không đến hội họp, ta phải tìm cách để chăm tưới và nâng đỡ họ thật sớm. Tôi hiểu được những nguyên tắc này, nhưng đến lúc phải thực hành, chịu khổ và trả giá, tôi lại chẳng muốn làm. Tôi biết rõ lẽ thật nhưng không thực hành. Tôi nhớ lại, trừ vài lần tôi chào hỏi người mới, tôi đã không chăm tưới hay hỗ trợ gì cả. Khi phát hiện ra chị ấy không tham gia hội họp đều đặn, tôi đã không lo lắng, không nghĩ cách để nhanh chóng liên lạc chị ấy, cũng không tìm hiểu những vấn đề và khó khăn của chị ấy. Tôi đã cẩu thả và vô trách nhiệm trong giai đoạn then chốt đầu tiên của việc chăm tưới người mới, chính điều đó khiến chị ấy rút lui. Kể cả sau đó, tôi cũng chẳng phản tỉnh. Khi người phụ trách chỉ ra vấn đề của tôi, tôi lại cố tìm đủ cách để viện cớ cho sự qua loa của mình, hy vọng đổ được trách nhiệm cho trưởng nhóm và người truyền bá Phúc Âm. Đây làm sao mà là thái độ tiếp nhận và vâng phục lẽ thật được? Tôi chỉ toàn bộc lộ tâm tính chán ghét lẽ thật!
Sau đó, tôi đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời khác. “Bất kể những hoàn cảnh khiến ai đó bị xử lý hoặc tỉa sửa, thái độ quan trọng nhất cần có đối với việc này là gì? Trước tiên, ngươi phải chấp nhận, bất kể ai đang xử lý ngươi, vì lý do gì, cho dù nó có gay gắt, hay giọng điệu và từ ngữ có như thế nào, ngươi cũng nên chấp nhận. Sau đó, ngươi nên nhận ra điều ngươi đã làm sai, tâm tính mà ngươi đã vạch trần, và liệu ngươi có hành động phù hợp với các nguyên tắc của lẽ thật hay không. Khi ngươi bị tỉa sửa và xử lý thì trước hết, đây là thái độ ngươi nên có. Và những kẻ địch lại Đấng Christ có một thái độ như vậy không? Họ không có; từ đầu đến cuối, thái độ họ thể hiện là thái độ chống đối và ác cảm. Với một thái độ như thế, họ có thể đến trước Đức Chúa Trời và tĩnh lặng, chăm chú lắng nghe và khiêm tốn tiếp thu không? Không thể. Vậy thì họ sẽ làm gì? Trước hết, họ sẽ mạnh mẽ tranh luận và đưa ra những lời biện minh, bào chữa và phản bác lại những điều sai trái mà họ đã làm và tâm tính bại hoại mà họ đã tỏ lộ, với hy vọng giành được sự thấu hiểu và tha thứ của mọi người, để họ không cần phải chịu bất kỳ trách nhiệm nào hoặc tiếp nhận những lời xử lý họ và tỉa sửa họ. Thái độ mà họ thể hiện khi đối mặt với việc bị xử lý và tỉa sửa là gì? ‘Tôi không phạm tội. Tôi không làm gì sai cả. Nếu tôi mắc sai phạm, việc đó là có lý do; nếu tôi mắc sai phạm, tôi không cố ý làm như vậy; nếu tôi mắc sai phạm, tôi không phải chịu trách nhiệm về điều đó. Ai mà không sai phạm một vài lần chứ?’ Họ bám lấy những tuyên bố và câu chữ này, bám chặt lấy chúng và không buông ra, nhưng họ không tìm kiếm lẽ thật, cũng không thừa nhận tâm tính bại hoại mà họ đã tỏ lộ khi vi phạm – và họ chắc chắn không thừa nhận rằng họ có một bản chất như vậy. … Dù những sự thật đưa tâm tính bại hoại của họ ra ánh sáng như thế nào thì họ cũng không thừa nhận mà cứ tiếp tục bất chấp và chống đối. Bất cứ điều gì người khác nói, họ cũng không chấp nhận hoặc thừa nhận, mà họ nghĩ: ‘Để xem ai nói hay hơn ai; để xem ai nhanh miệng hơn’. Đây chính là dạng thái độ mà những kẻ địch lại Đấng Christ có khi bị xử lý và tỉa sửa” (“Họ thực hiện bổn phận của mình chỉ để làm bản thân nổi bật và thỏa mãn những lợi ích, tham vọng của riêng mình; họ không bao giờ xét đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và thậm chí bán rẻ những lợi ích ấy để đổi lấy vinh quang cá nhân (Phần 8)” trong Vạch trần kẻ địch lại Đấng Christ). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi thấy được rằng khi người bình thường bị tỉa sửa và xử lý, họ có thể đón nhận điều đó từ Đức Chúa Trời, tiếp nhận và vâng phục, phản tỉnh bản thân, và thật lòng ăn năn. Kể cả khi ngay lúc đó, họ chưa tiếp nhận, thì về sau, qua việc tìm kiếm và phản tỉnh liên tục, họ có thể rút ra bài học từ việc bị tỉa sửa và xử lý. Nhưng bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ là chán ghét và ghê tởm lẽ thật. Khi bị tỉa sửa và xử lý, họ không hề phản tỉnh, mà chỉ thể hiện một thái độ chống đối, cự tuyệt và căm ghét. Khi nghĩ về hành động của mình, tôi thấy mình đã qua loa, không theo dõi người mới kịp thời, khiến chị ấy thoái lui. Nội chuyện này đã là vi phạm rồi. Bất kỳ ai có lương tâm và lý trí hẳn sẽ thấy khổ sở và mang cảm giác tội lỗi, phản tỉnh về những vấn đề của mình, đại loại thế. Nhưng tôi chẳng những không thấy tội lỗi mà còn không thừa nhận vấn đề của mình. Trước mắt tôi là sự thật rành rành thế mà tôi vẫn cố chủ tâm trốn tránh trách nhiệm, nói rằng người mới đó không trả lời tôi, trưởng nhóm thì vô trách nhiệm và cuối cùng là đổ lỗi cho cả người truyền bá Phúc Âm, hy vọng giúp mình khỏi phải chịu trách nhiệm gì và được người phụ trách hiểu cho. Đối diện với những gì Đức Chúa Trời đã phơi bày và việc bị tỉa sửa, xử lý, tôi chẳng hề phản tỉnh chút gì. Thay vào đó, tôi lại chống đối, phản đối và tìm ra đủ mọi cớ để biện minh và bảo vệ bản thân, vì tôi chẳng muốn chịu trách nhiệm. Tôi chẳng có chút nhân tính hay lý trí nào! Tôi thấy những gì mình đã bộc lộ chính là tâm tính ngoan cố và chán ghét lẽ thật. Tôi chẳng có lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Tôi thấy được rằng dù đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm, tâm tính của tôi vẫn chẳng thay đổi chút nào. Vì thế, tôi thấy rất khổ sở.
Sau đó, tôi đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời khác đã cho tôi hiểu hơn về vấn đề không tiếp nhận tỉa sửa và xử lý của mình. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Thái độ điển hình của những kẻ địch lại Đấng Christ đối với việc xử lý và tỉa sửa là kịch liệt từ chối chấp nhận hay thừa nhận nó. Cho dù họ đã làm bao nhiêu điều tà ác, họ đã gây hại bao nhiêu cho công tác của nhà Đức Chúa Trời và lối vào sự sống của dân sự được Đức Chúa Trời chọn, họ cũng không hề cảm thấy chút hối hận nào hay mắc nợ bất cứ điều gì. Từ góc nhìn này, những kẻ địch lại Đấng Christ có nhân tính không? Tuyệt đối không. Họ đã gây ra đủ mọi thiệt hại cho dân sự được Đức Chúa Trời chọn, gây tổn hại như thế cho công tác của hội thánh – dân sự được Đức Chúa Trời chọn có thể thấy rõ như ban ngày, và họ chứng kiến những việc làm tà ác của những kẻ địch lại Đấng Christ, hết lần này đến lần khác. Ấy thế mà những kẻ địch lại Đấng Christ không chấp nhận hay công nhận sự thật này, họ ngoan cố không chịu thừa nhận mình có lỗi, hoặc thừa nhận rằng họ phải chịu trách nhiệm. Chẳng phải đây là một dấu hiệu cho thấy họ chán ngấy lẽ thật sao? Đó là mức độ mà những kẻ địch lại Đấng Christ chán ngấy lẽ thật, và cho dù họ phạm phải bao nhiêu điều gian ác, họ cũng không chịu thừa nhận, và họ vẫn kiên quyết cho đến cùng. Điều này chứng tỏ rằng những kẻ địch lại Đấng Christ chưa bao giờ nghiêm túc với công tác của nhà Đức Chúa Trời hay chấp nhận lẽ thật. Họ không tin vào Đức Chúa Trời – họ là tay sai của Sa-tan, quấy rầy và làm gián đoạn công việc của nhà Đức Chúa Trời. Trong lòng những kẻ địch lại Đấng Christ chỉ có tên tuổi và địa vị. Họ tin rằng nếu họ thừa nhận lỗi của mình, thì họ sẽ phải nhận trách nhiệm, địa vị và danh tiếng của họ sẽ bị tổn hại nghiêm trọng. Kết quả là, họ chống đối với thái độ ‘có chết cũng chối’, và bất kể mọi người đưa ra những sự phơi bày hay mổ xẻ gì, họ cũng sẽ cố gắng hết sức để chối. Nói ngắn gọn, dù sự phủ nhận của họ là có cố ý hay không thì một mặt, điều này vạch trần bản tính và thực chất của những kẻ địch lại Đấng Christ là chán ngấy và căm ghét lẽ thật. Mặt khác, điều này cho thấy những kẻ địch lại Đấng Christ quý trọng địa vị, uy tín và lợi ích riêng của họ đến mức nào. Trong khi đó, thái độ của họ đối với công việc, và những lợi ích của hội thánh là gì? Đó là thái độ khinh thường và chối bỏ trách nhiệm. Họ hoàn toàn thiếu lương tâm và lý trí. Sự trốn tránh trách nhiệm của những kẻ địch lại Đấng Christ có thể hiện những vấn đề này không? Một mặt, việc trốn tránh trách nhiệm chứng tỏ thực chất và bản tính chán ngấy và căm ghét của họ đối với lẽ thật, trong khi mặt khác, nó cho thấy sự thiếu lương tâm, lý trí và nhân tính của họ. Cho dù lối vào sự sống của các anh chị em có bị tổn hại nhiều như thế nào bởi sự can thiệp và hành ác của họ, họ cũng không cảm thấy tự trách mình và không bao giờ có thể bị điều này làm bận tâm. Đây là loại sinh vật gì? Ngay cả khi thừa nhận một phần lỗi lầm của mình, họ cũng được coi là có một chút lương tâm và ý thức – nhưng những kẻ địch lại Đấng Christ thì thậm chí không có chút nhân tính ấy. Vậy thì các ngươi sẽ nói họ là gì? Bản chất của những kẻ địch lại Đấng Christ là ma quỷ. Cho dù họ đã làm tổn hại lợi ích của nhà Đức Chúa Trời nhiều như thế nào thì họ cũng không nhìn thấy; họ không chút phiền muộn trong lòng, và cũng không tự trách bản thân, càng không cảm thấy mắc nợ. Đây hoàn toàn không phải là điều nên thấy ở người bình thường. Đây là ma quỷ, và ma quỷ thì không có lương tâm hay ý thức gì” (“Họ thực hiện bổn phận của mình chỉ để làm bản thân nổi bật và thỏa mãn những lợi ích, tham vọng của riêng mình; họ không bao giờ xét đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và thậm chí bán rẻ những lợi ích ấy để đổi lấy vinh quang cá nhân (Phần 3)” trong Vạch trần kẻ địch lại Đấng Christ). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi thấy được rằng những kẻ địch lại Đấng Christ không tiếp nhận sự tỉa sửa và xử lý vì bản tính của họ chán ghét và ghê tởm lẽ thật, nguyên nhân khác nữa là vì họ đặc biệt say mê tư lợi. Một khi có chuyện gì ảnh hưởng đến danh tiếng của họ, hoặc danh tiếng của họ bị tổn hại, thì họ làm đủ mọi cách để biện minh và tìm lý do hòng trốn tránh trách nhiệm. Kể cả khi hành động của họ gây hại cho lợi ích nhà Đức Chúa Trời hay sự sống của người khác, họ vẫn chẳng thấy tự trách hay hối hận gì. Nếu bị phát hiện, họ vẫn ngoan cố không chịu thừa nhận vì sợ phải nhận trách nhiệm sẽ gây tổn hại danh tiếng của họ. Tôi đã thấy rằng những kẻ địch lại Đấng Christ thật ích kỷ và đáng khinh, không có nhân tính và về căn bản là ma quỷ. Khi thấy từ “ma quỷ”, trong lòng tôi đau đớn cùng cực, vì hành vi của tôi và tâm tính mà tôi bộc lộ giống hệt của kẻ địch lại Đấng Christ. Rõ ràng tôi đã phạm sai lầm và gây hại cho công tác của hội thánh, thế mà tôi vẫn không chịu thừa nhận. Khi bị tỉa sửa và xử lý, tôi biện minh và cố đổ trách nhiệm qua người khác. Tôi nghĩ về chuyện người mới khó tiếp nhận Phúc Âm như thế nào. Việc họ tiếp nhận chính là kết quả của việc Đức Chúa Trời an bài hoàn cảnh thích hợp, khai sáng và dẫn dắt họ, cũng như là kết quả của thời gian và công sức của các anh chị em. Đức Chúa Trời đặc biệt chăm lo cho tất cả mọi người. Trong cả trăm con chiên, nếu mất một con, Ngài sẽ bỏ lại 99 con khác để tìm con chiên lạc, và Đức Chúa Trời trân quý sự sống của tất cả mọi người. Nhưng khi chịu trách nhiệm chăm tưới người mới, tôi đã làm rất cẩu thả. Khi thấy người mới không tham gia hội họp, tôi chẳng lo lắng hay quan tâm gì. Nhiều lúc, tôi chỉ hỏi han cho có lệ, qua loa và vô trách nhiệm trong việc theo dõi công tác của trưởng nhóm. Khi thấy chị ấy không trả lời tôi mấy lần, mà tôi vẫn không hỏi lý do, cũng không tìm hiểu xem chị ấy có vấn đề hay khó khăn gì không. Tôi đã đối xử với người mới bằng thái độ bất cẩn và vô trách nhiệm, chẳng xem trọng sự sống của chị ấy chút nào. Kể cả như thế, tôi vẫn không cảm thấy hối hận hay có lỗi gì, cũng không cố khắc phục. Khi người phụ trách chỉ ra sự qua loa và vô trách nhiệm của tôi trong bổn phận, tôi đã cố hết sức để tranh cãi và biện minh, tìm kiếm lý do để trốn tránh bổn phận vì tôi sợ nếu thừa nhận mình có vấn đề thì phải nhận trách nhiệm, rằng tôi sẽ khiến người phụ trách có ấn tượng về mình và sợ mình sẽ bị tước bổn phận. Từ đầu đến cuối, tôi chưa hề nghĩ đến công tác của hội thánh, cũng không hề quan tâm chuyện tôi có gây hại cho sự sống của người mới không. Tôi chỉ quan tâm liệu tư lợi của tôi có bị thiệt hại, liệu tôi có giữ được thể diện và địa vị không. Tôi thấy mình đặc biệt ích kỷ và chỉ biết bảo vệ tư lợi. Tôi thật sự không có nhân tính, và Đức Chúa Trời khinh ghét tôi. Vậy nên, tôi đến trước Đức Chúa Trời và cầu nguyện, thưa lên rằng: “Lạy Đức Chúa Trời, Con đã qua loa trong bổn phận, gây ra hậu quả nặng nề và không chịu thừa nhận. Cái con quan tâm không phải là sự sống của người mới, mà là danh tiếng và địa vị của bản thân. Con thật sự không có nhân tính mà! Lạy Đức Chúa Trời, con nguyện ý ăn năn”.
Sau đó, tôi đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời khác và tìm được một con đường thực hành. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Đạt được lẽ thật không khó, bước vào thực tế của lẽ thật cũng không khó, nhưng nếu con người luôn chán ghét lẽ thật, liệu họ có thể đạt được nó không? Họ không thể. Vì vậy ngươi phải luôn đến trước Đức Chúa Trời, xem xét những trạng thái nội tâm chán ghét lẽ thật của mình, xem ngươi có những biểu hiện gì của việc chán ghét lẽ thật, những cách làm việc nào là chán ghét lẽ thật, và ngươi có thái độ chán ghét lẽ thật trong những việc gì – ngươi phải thường xuyên phản tỉnh về những điều này” (“Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt”). “Nếu ngươi muốn theo Đức Chúa Trời và làm tròn bổn phận của mình, trước hết ngươi không được bốc đồng khi sự việc không theo ý mình. Trước hết hãy bình tĩnh và thinh lặng trước Đức Chúa Trời, và trong lòng mình, hãy cầu nguyện với Ngài và tìm kiếm nơi Ngài. Đừng cứng đầu; trước hết hãy quy phục. Chỉ với một tư duy như vậy, người ta mới có thể đưa ra các giải pháp tốt hơn cho những vấn đề. Nếu ngươi có thể kiên trì sống trước Đức Chúa Trời, và bất cứ điều gì xảy đến với ngươi, ngươi đều có thể cầu nguyện với Ngài và tìm kiếm nơi Ngài, và đối mặt điều đó với tâm thái quy phục, thì dẫu có bao nhiêu biểu hiện của tâm tính bại hoại nơi ngươi cũng không quan trọng, và những vi phạm trong quá khứ của ngươi cũng không thành vấn đề – ngươi sẽ có thể giải quyết nó bằng cách tìm kiếm lẽ thật. Bất kể những sự thử luyện nào xảy đến với ngươi, ngươi cũng sẽ có thể đứng vững. Miễn là ngươi có tâm thái đúng đắn, có thể chấp nhận lẽ thật và vâng phục Đức Chúa Trời theo những yêu cầu của Ngài, thì ngươi hoàn toàn có khả năng đưa lẽ thật vào thực hành. Mặc dù đôi khi ngươi có thể hơi phản nghịch và chống đối, và đôi khi đưa ra lý sự biện hộ và không thể quy phục, nhưng nếu ngươi có thể cầu nguyện với Đức Chúa Trời và xoay chuyển tình trạng phản nghịch của mình, thì ngươi có thể chấp nhận lẽ thật. Khi đã làm như vậy, hãy suy ngẫm về lý do tại sao sự phản nghịch và chống đối lại nảy sinh trong ngươi. Hãy tìm ra lý do, sau đó tìm kiếm lẽ thật để giải quyết nó, và khía cạnh ấy của tâm tính bại hoại của ngươi có thể được làm tinh sạch. Sau vài lần hồi phục sau những lần vấp ngã như vậy, cho đến khi ngươi có thể đưa lẽ thật vào thực hành, tâm tính bại hoại của ngươi sẽ dần bị loại bỏ. Và sau đó, lẽ thật sẽ ngự trị bên trong ngươi và trở thành sự sống của ngươi, và sẽ không còn trở ngại nào nữa đối với việc ngươi thực hành lẽ thật. Ngươi sẽ trở nên có thể thực sự quy phục Đức Chúa Trời, và ngươi sẽ sống thể hiện ra thực tế của lẽ thật” (“Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt”). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu rằng để giải quyết tâm tính chán ghét lẽ thật, tôi phải luôn phản tỉnh bản thân, xem xét liệu những tuyên bố, việc thực hành, ý định, thái độ và quan điểm của tôi có thể hiện sự chán ghét lẽ thật không. Khi có chuyện xảy ra, dù chúng có phù hợp với ý tôi hay không, tôi cũng phải bình tâm và không chống đối. Nếu không thể tiếp nhận lời người khác và thấy mình muốn tìm lý do để biện minh, thì tôi cần đến trước Đức Chúa Trời, cầu nguyện và tìm kiếm hơn nữa, tìm xem lời Đức Chúa Trời phán gì và phản tỉnh dựa trên lời Ngài, hoặc là tìm cách thông công với các anh chị em hiểu lẽ thật. Như thế, tôi có thể dần tiếp nhận lẽ thật và bước vào những hiện thực của lẽ thật, rồi dần dần sẽ loại bỏ những tâm tính bại hoại của mình. Khi hiểu được con đường thực hành rồi, tôi đã quyết tâm thay đổi.
Biết rằng không tìm hiểu tình trạng của người mới này kịp thời vốn đã là một vi phạm rồi, tôi liền nhanh chóng cố xoay chuyển. Tôi kiểm tra xem mình có không tìm hiểu, không theo sát bất kỳ người mới nào mà tôi phụ trách hay không. Sau đó, khi chat với một người mới, tôi biết được chị không hiểu lắm lẽ thật về sự tái lâm của Chúa và ba giai đoạn công tác của Đức Chúa Trời. Tôi đã hỏi lãnh đạo xem có nên để người truyền bá Phúc Âm thông công với chị ấy, nhưng lãnh đạo bảo tôi tự mình làm đi. Dù tôi biết việc nhanh chóng giải quyết vấn đề của người mới vốn là trách nhiệm của tôi, nhưng tôi vẫn thấy rất ngần ngại. Tôi muốn tranh luận và không muốn vâng phục. Tôi cảm thấy chuyện này xảy ra vì người truyền bá Phúc Âm không thông công rõ ràng, vậy tại sao tôi lại phải chịu trách nhiệm theo sát? Hiện giờ đang có rất nhiều người mới, tôi đâu có đủ thời gian, nên người truyền bá Phúc Âm làm việc này mới phải. Rồi tôi nhận ra tình trạng của mình không ổn. Những gì lãnh đạo của tôi nói là hợp lý. Gợi ý đó đúng đắn, vậy tại sao tôi không thể tiếp nhận? Tại sao tôi vẫn muốn tranh cãi đến thế? Tại sao tôi không thể vâng phục? Vậy là, tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài dẫn dắt cho tôi vâng phục, không quan tâm đến lợi ích xác thịt nữa, và có trách nhiệm với người mới. Tôi nhớ ra rằng năng lực tiếp thu của mỗi người mỗi khác nhau. Có người nghe người truyền bá Phúc Âm thông công là hiểu được trong lúc đó, nhưng sau đó lại mơ hồ hơn. Như thế cần có người chăm tưới theo sát và lấp vào chỗ trống. Đây chính là sự cộng tác hòa hợp. Là người chăm tưới, việc của tôi là giải quyết vấn đề khi nhận thấy. Tôi không được kén chọn, làm việc dễ và đùn đẩy việc khó cho người khác, chỉ cố tránh rắc rối và tìm kiếm sự an nhàn. Tôi không được khăng khăng lấy lý do hoàn cảnh hoặc viện cớ trong bổn phận. Nếu tôi được phân công lo cho một người mới, thì trách nhiệm của tôi là phải chăm tưới họ cho tốt, bảo đảm họ hiểu được lẽ thật và đặt nền tảng trên con đường thật. Đây là sự ủy thác của Đức Chúa Trời, là bổn phận của tôi. Đây chính là thật tâm thực hành lẽ thật và thay đổi thực sự. Lúc đó, lòng tôi thấy bừng sáng lên. Sau buổi họp, tôi đi tìm người mới này và thông công với chị ấy về các vấn đề của chị. Khi thực hành như thế, tôi không chỉ thấy sự chống cự tan biến mà còn thấy rất hạnh phúc. Tôi đã hiểu ra rằng thực hành lẽ thật không phải là hành động bên ngoài. Thay vào đó, nó nghĩa là tiếp nhận lời Đức Chúa Trời bằng tấm lòng, thực hành dựa trên các nguyên tắc của lẽ thật và dùng lời Đức Chúa Trời làm tiêu chuẩn cho cách ta nhìn nhận mọi người và mọi sự, cách ta hành động và cư xử. Làm như thế, những ý định và quan điểm sai lầm, cũng như những tâm tính bại hoại của chúng ta sẽ bị thay thế bởi lời Đức Chúa Trời và lẽ thật mà ta chẳng hề hay biết.
Sau đó, càng suy nghĩ, tôi càng cảm thấy việc bị vạch trần, tỉa sửa và xử lý là tuyệt đối cần thiết. Đức Chúa Trời bảo chúng ta rằng nguyên do chính khiến chúng ta không mưu cầu lẽ thật là vì chúng ta có tâm tính ngoan cố và chán ghét lẽ thật. Tuy nhiên, trước đây, tôi chẳng biết mình có những tâm tính này. Nếu Đức Chúa Trời không sắp đặt hoàn cảnh để vạch trần tôi, không phán xét và phơi bày tôi bằng lời Ngài, thì tôi chẳng bao giờ nhận ra tâm tính chán ghét lẽ thật của mình, và không bao giờ ăn năn và thay đổi. Nếu cứ như thế thì sẽ gây cản trở lớn đối với việc mưu cầu lẽ thật và sự phát triển sự sống của tôi. Sự phơi bày và phán xét của lời Đức Chúa Trời thật quá tốt cho tôi. Tạ ơn Đức Chúa Trời!
Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?