Hậu quả của việc không mưu cầu lối vào sự sống

29/09/2024

Tháng 9 năm 2023, người chị em phối hợp với tôi bị cảnh sát bắt giữ. Lúc đó tôi đang là lãnh đạo hội thánh, thấy các anh chị em đều đang sống trong sợ hãi và cần sự giúp đỡ, hỗ trợ, công tác xử lý hậu quả cũng cần được thực hiện gấp, nên tôi cảm thấy rất lo lắng, bắt đầu bận rộn bắt tay vào việc di dời sách, thông công giải quyết tình trạng của các anh chị em, chăm tưới và hỗ trợ những người mới. Thời gian đó, ngày nào tôi cũng ra ngoài khi trời chưa sáng, buổi tối thức đến rất khuya mới đi ngủ. Mặc dù có những lúc rất mệt mỏi, nhưng khi thấy tình trạng của anh chị em được cải thiện và có thể thực hiện bổn phận một cách bình thường, sách cũng được di dời suôn sẻ đến nhà an toàn, tôi cảm thấy vô cùng vui mừng, thầm nghĩ: “Trong hoàn cảnh nguy hiểm đến vậy mà mình vẫn có thể xử lý tốt các vấn đề, công tác của hội thánh cũng không bị thiệt hại gì, nếu tiếp tục phối hợp thế này thì sau cùng nhất định mình sẽ được Đức Chúa Trời cứu rỗi”. Với suy nghĩ đó, tôi càng hăng hái thực hiện bổn phận hơn. Mỗi sáng thức dậy, tôi sẽ đi thẳng đến buổi nhóm họp và triển khai công tác, nhưng lại hiếm khi phản tỉnh xem liệu công tác mình làm có phù hợp với các nguyên tắc hay không. Ngay cả khi dành thời gian để ăn uống lời Đức Chúa Trời, tôi cũng nghĩ xem đoạn lời nào có thể giải quyết tình trạng của anh chị em, mà hiếm khi đối chiếu lời Đức Chúa Trời với tình trạng của bản thân. Thỉnh thoảng, tôi cũng nhận ra mình chỉ lo làm việc mà ít khi tìm kiếm lẽ thật hay phản tỉnh bản thân, nhưng khi thấy công tác đạt được nhiều tiến triển, tôi bèn nghĩ dù mình ít ăn uống lời Đức Chúa Trời và không tìm kiếm lẽ thật thì cũng chẳng sao, chỉ cần làm tốt công việc là được. Ngoài ra, hội thánh vẫn còn rất nhiều việc cần phải giải quyết, nên tôi cứ mãi bận bịu với công việc.

Sau đó, một người chị em được chọn ra để phối hợp với tôi. Chị ấy mới phối hợp và còn một số công việc chưa thành thục, nên tôi phải tự mình xử lý rất nhiều việc. Đến lúc bàn bạc công tác, thấy chị ấy không chủ động lắm, tôi liền có cái nhìn tiêu cực về chị ấy, giọng điệu cũng hơi gay gắt. Dù nhận ra rằng chị ấy bị tôi kìm kẹp, nhưng tôi vẫn không phản tỉnh về bản thân, mà chỉ nghĩ: “Vấn đề này không nghiêm trọng lắm, cũng chẳng cản trở mình thực hiện bổn phận. Mình còn rất nhiều công việc phải làm, thời gian đâu mà tìm kiếm lẽ thật để giải quyết tình trạng của bản thân chứ? Lỡ mình dành thời gian tìm kiếm lẽ thật rồi lại gây trì hoãn cho công tác thì sao? Làm tốt bổn phận và đạt được hiệu quả trong công tác mới là điều quan trọng nhất”. Sau đó, tôi lại tiếp tục bận rộn với công việc. Một hôm, khi thảo luận công tác với hai chấp sự, thấy hai người họ đều hơi chậm chạp và không chủ động bày tỏ quan điểm, tôi có chút sốt ruột: “Chúng ta đang bàn bạc công tác, các người không chịu bày tỏ quan điểm thì sao được đây?”. Thế là tôi khiển trách họ: “Các anh em, mỗi lần các anh đều không chủ động phát biểu ý kiến thì chúng ta còn thảo luận công tác thế nào được?”. Nghe tôi nói xong, một trong hai người họ cúi gầm mặt xuống, có vẻ rất xấu hổ. Nhiều tình huống tương tự cũng xảy ra trong khoảng thời gian đó. Mỗi khi thấy các anh em không chủ động bày tỏ quan điểm của mình, tôi liền có ác cảm với họ. Một người anh em cảm thấy hơi tiêu cực và nói: “Tôi lớn tuổi rồi, phản xạ chậm chạp, không theo kịp nhịp độ của chị, tôi cũng làm không tốt bổn phận này”. Thực ra, tôi biết các anh em chưa quen với bổn phận này, họ chưa hiểu hoặc chưa làm được cũng là chuyện bình thường, tôi nên khích lệ và giúp đỡ họ nhiều hơn. Nhưng rồi tôi lại nghĩ những gì tôi nói cũng đâu có gì quá đáng: Mình cũng chẳng yêu cầu gì thêm ở họ, mà chỉ mong họ chủ động hơn chút khi thực hiện bổn phận thôi. Thế nên tôi không chú trọng giải quyết vấn đề này. Tôi thầm nghĩ: “Đâu thể thay đổi tâm tính bại hoại trong một sớm một chiều. Bây giờ có thời gian thì mình nên giải quyết các vấn đề trong công tác trước đã, không làm việc thì làm sao đạt được kết quả được?”. Vì chỉ lo hoàn thành công việc mà không chú trọng đọc lời Đức Chúa Trời và tìm kiếm lẽ thật, không rút ra bài học từ những điều xảy đến với mình, nên tôi cảm thấy trong lòng trống rỗng. Có một lần, tôi sắp sếp cho một gia đình đang gặp nguy hiểm bảo quản sách lời Đức Chúa Trời. Sau khi biết được chuyện này, lãnh đạo cấp trên đã tỉa sửa tôi vì không làm việc theo nguyên tắc. Tôi cảm thấy bị trách oan và không ngừng lý luận, chống đối. Thấy tôi không chịu tiếp nhận, lãnh đạo nói: “Chị chạy đôn chạy đáo, hoàn thành rất nhiều công việc, nhưng lại không làm theo nguyên tắc mà luôn dựa vào ý nghĩ và kinh nghiệm của mình, như vậy sẽ tổn hại đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Ngoài ra, khi đối mặt với sự tỉa sửa, chị không có thái độ thuận phục và tìm kiếm, cũng không phản tỉnh về bản thân, vậy thì có thể tiến bộ được không?”. Sau đó, khi phản tỉnh về biểu hiện của mình, tôi nhận ra rằng mình chỉ lo chạy đôn chạy đáo làm việc mà không có chút lối vào sự sống nào. Tôi liền đến cầu nguyện trước Đức Chúa Trời, xin Ngài dẫn dắt tôi hiểu và giải quyết những vấn đề của mình.

Trong lúc tìm kiếm, tôi đọc được lời này của Ngài: “Trong thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời không làm công tác nào không liên quan đến lời Ngài, Ngài đã phán xuyên suốt, dùng lời xuyên suốt để hướng dẫn con người đi vào thời nay. Tất nhiên, trong khi phán, Đức Chúa Trời cũng đã dùng lời để duy trì mối quan hệ của Ngài với những người đi theo Ngài, đã dùng lời để hướng dẫn họ, và những lời này vô cùng quan trọng đối với những ai mong muốn được cứu rỗi, hoặc những người mà Đức Chúa Trời muốn cứu rỗi. Đức Chúa Trời sẽ dùng những lời này để thành tựu việc cứu rỗi nhân loại. Rõ ràng, những lời này dù xét về nội dung hay số lượng, bất kể thể loại là gì, và bất kể chúng thuộc phần nào trong lời Đức Chúa Trời, thì chúng cũng vô cùng quan trọng đối với mỗi một người có ước muốn được cứu rỗi. Đức Chúa Trời đang sử dụng những lời này để đạt được hiệu quả tối hậu trong kế hoạch quản lý sáu nghìn năm của Ngài. Đối với nhân loại – dù là nhân loại ngày nay hay nhân loại tương lai – thì chúng cũng vô cùng quan trọng. Đó là thái độ của Đức Chúa Trời, đó là mục đích và ý nghĩa của lời Ngài. Vậy nhân loại nên làm gì? Nhân loại nên phối hợp với lời và công tác của Đức Chúa Trời, không được làm ngơ chúng. Nhưng với một số người thì đức tin của họ nơi Đức Chúa Trời lại không phải như vậy: dù Đức Chúa Trời có phán gì đi nữa thì với họ, lời Ngài như thể không liên quan gì. Họ vẫn theo đuổi những thứ họ muốn, làm điều họ muốn, và không tìm kiếm lẽ thật dựa trên lời Đức Chúa Trời. Đây không phải là đang trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời. Một số người khác thì bất kể Đức Chúa Trời phán gì, họ cũng không chú ý, và trong lòng họ chỉ tin chắc một điều: ‘Mình sẽ làm bất cứ điều gì Đức Chúa Trời yêu cầu, nếu Đức Chúa Trời bảo mình đi về phía Tây thì mình sẽ đi về phía Tây, nếu Ngài bảo mình đi về phía Đông thì mình sẽ đi về phía Đông, nếu Ngài bảo mình chết thì mình sẽ cho Ngài thấy mình chết’. Duy chỉ có một điều: họ không tiếp thu lời Đức Chúa Trời. Họ thầm nghĩ: ‘Lời Đức Chúa Trời nhiều quá. Lời Ngài nên thẳng thắn hơn một chút, và nên bảo mình chính xác phải làm gì. Mình có thể thuận phục Đức Chúa Trời trong lòng’. Cho dù Đức Chúa Trời có phán bao nhiêu lời đi chăng nữa thì những người như vậy cuối cùng vẫn không có khả năng hiểu lẽ thật, cũng không thể nói về những trải nghiệm và nhận thức của họ. Họ giống như một người thường không có hiểu biết thuộc linh. Các ngươi có nghĩ những người như vậy được Đức Chúa Trời yêu thích không? Đức Chúa Trời có muốn thương xót những người như vậy không? (Thưa, không.) Chắc chắn là không. Đức Chúa Trời không thích những người như vậy. Đức Chúa Trời phán: ‘Ta đã phán bao nhiêu nghìn lời. Làm thế nào mà ngươi lại không nhìn thấy cũng không nghe thấy, như kẻ mù kẻ điếc? Chính xác thì trong lòng ngươi đang nghĩ gì? Ta thấy ngươi chẳng khác gì một người bị ám ảnh bởi việc chạy theo phước lành và đích đến tốt đẹp – ngươi đang theo đuổi những mục tiêu giống y như mục tiêu của Phao-lô. Nếu ngươi không muốn nghe lời Ta, nếu ngươi không muốn đi theo con đường của Ta, thì tại sao ngươi lại tin Đức Chúa Trời? Ngươi không chạy theo sự cứu rỗi, mà ngươi chạy theo đích đến tốt đẹp và ham muốn được ban phước lành. Và vì ngươi đang mưu tính những thứ này nên ngươi thích hợp nhất với vai trò kẻ đem sức lực phục vụ’. Kỳ thực, trở thành một kẻ đem sức lực phục vụ trung thành cũng là một biểu hiện thuận phục Đức Chúa Trời, nhưng đây là tiêu chuẩn tối thiểu. Thà tiếp tục làm kẻ đem sức lực phục vụ trung thành còn hơn bị sa vào sự hư mất và diệt vong như một người ngoại đạo. Đặc biệt, nhà Đức Chúa Trời cần những kẻ đem sức lực phục vụ, và được phục vụ Đức Chúa Trời cũng đã là một phước lành. Như thế này tốt hơn nhiều – tốt hơn đến khôn sánh – so với việc trở thành tay sai của quỷ vương. Tuy nhiên, dù con người đem sức lực phục vụ Đức Chúa Trời thì Ngài cũng không hài lòng hoàn toàn, bởi vì công tác phán xét của Đức Chúa Trời là nhằm cứu rỗi, làm tinh sạch và hoàn thiện con người. Nếu chỉ đơn thuần đem sức lực phục vụ Đức Chúa Trời mà con người ta đã mãn nguyện, thì đây không phải là mục đích mà Đức Chúa Trời mong muốn đạt được khi làm việc nơi con người, cũng không phải là kết quả mà Đức Chúa Trời mong muốn nhìn thấy. Thế nhưng con người lại điên cuồng ham muốn, họ ngu muội và mù quáng: họ bị mê hoặc, bị làm hao mòn bởi chút lợi lộc nhỏ nhoi, và bỏ qua những lời quý giá của sự sống do Đức Chúa Trời phán ra. Họ còn không thể nghiêm túc với chúng thì nói gì đến yên mến chúng. Không đọc lời Đức Chúa Trời hay trân quý lẽ thật: đây là thông minh hay ngu muội? Con người có thể đạt được sự cứu rỗi theo cách này không? Con người nên hiểu tất cả những điều này. Họ chỉ có hy vọng được cứu rỗi nếu họ buông bỏ những quan niệm, tưởng tượng của mình và tập trung mưu cầu lẽ thật(Trân quý lời Đức Chúa Trời là nền tảng của đức tin nơi Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Đức Chúa Trời vạch rõ rằng con người chỉ chú trọng vào hành động làm việc bề ngoài. Bất luận Đức Chúa Trời thông công thế nào, con người vẫn giữ nguyên thái độ thờ ơ đối với lời Ngài, không chú trọng ăn uống lời Ngài, cũng không tập trung tìm kiếm lẽ thật trong lời Ngài. Tin Đức Chúa Trời như vậy căn bản không phải là đang trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời. Đối chiếu với lời Đức Chúa Trời, tôi thấy hành vi của mình giống hệt như vậy. Tôi tưởng chỉ cần mình làm bất kỳ việc gì hội thánh yêu cầu, và làm cho thật tốt, thì sẽ có thể thỏa mãn Đức Chúa Trời và được Ngài khen ngợi. Thế nên, trong quá trình thực hiện bổn phận, tôi chỉ chú trọng làm việc mà không để tâm đến lời Đức Chúa Trời, thậm chí còn nghĩ rằng việc ăn uống lời Ngài sẽ khiến mình trì hoãn bổn phận. Tôi biết rõ Đức Chúa Trời đã bày tỏ rất nhiều lời khi công tác trong thời kỳ sau rốt nhằm cho phép con người mưu cầu lẽ thật, mưu cầu thay đổi tâm tính, để sau cùng có thể đạt được lẽ thật và được Ngài cứu rỗi. Nhưng vì tôi không yêu mến lẽ thật, vẫn mưu cầu dựa trên những quan niệm và tưởng tượng của mình, nghĩ rằng chỉ cần hoàn thành công việc là đủ, nên khi bộc lộ sự bại hoại trong lúc phối hợp với cộng sự, tôi đã không tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề. Đức Chúa Trời bày tỏ lẽ thật và vạch rõ mọi loại tâm tính bại hoại trong con người, sắp đặt những hoàn cảnh thực tế để con người trải nghiệm, từ đó giúp chúng ta hiểu được lẽ thật, thoát khỏi sự bại hoại và được làm cho tinh sạch, đây là tình yêu của Đức Chúa Trời! Nếu Đức Chúa Trời chỉ muốn con người ra sức và làm việc, vậy thì Ngài đâu cần công tác từng bước một cho đến ngày nay, cũng đâu cần trở nên xác thịt, bày tỏ lẽ thật và chịu nhiều đau khổ đến vậy. Tôi đã đọc rất nhiều lời Đức Chúa Trời nhưng vẫn không hiểu tâm ý cứu rỗi con người của Ngài, tâm tính bại hoại của tôi chưa có một chút thay đổi nào, tôi chính là loại người thế tục mà lời Ngài nhắc đến. Nếu cứ tiếp tục như thế, dù có hoàn thành bao nhiêu công việc thì cuối cùng tôi cũng chẳng thể được cứu rỗi. Nhận ra điều này, tôi đến trước Đức Chúa Trời và cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời Toàn Năng, nhờ lời Ngài vạch rõ con mới nhận ra những quan điểm mưu cầu sai lầm của mình trong đức tin nơi Ngài. Con sẵn lòng ăn năn và thay đổi, xin Ngài dẫn dắt con thoát khỏi những quan điểm sai lầm, đặt nỗ lực vào lời Ngài, mưu cầu lẽ thật và chú trọng lối vào sự sống”.

Sau đó, tôi đọc được lời này của Ngài: “Ngày nay, hầu hết mọi người đều ở trong kiểu tình trạng này: để có được phước lành, tôi phải dâng mình cho Đức Chúa Trời và trả giá cho Ngài. Để có được phước lành, tôi phải từ bỏ mọi thứ vì Đức Chúa Trời; tôi phải hoàn thành những gì Ngài đã giao phó cho tôi, và tôi phải làm tròn bổn phận của mình. Trạng thái này bị chi phối bởi ý định đạt được các phước lành, là một ví dụ về việc dành trọn bản thân cho Đức Chúa Trời hoàn toàn vì mục đích nhận được phần thưởng từ Ngài và giành được mão triều thiên. Những người như vậy không có lẽ thật trong lòng, và hiển nhiên là sự hiểu biết của họ chỉ gồm một vài câu chữ và đạo lý mà họ đi đâu cũng khoe khoang. Con đường của họ là con đường của Phao-lô. Đức tin của những người như thế là hành động lao nhọc không ngừng, và trong thâm tâm, họ cảm thấy rằng họ càng làm thì sẽ càng chứng tỏ lòng trung thành của họ với Đức Chúa Trời; rằng họ càng làm, thì chắc chắn Ngài sẽ càng hài lòng; và rằng họ càng làm, thì họ sẽ càng xứng đáng được trao mão triều thiên trước Đức Chúa Trời, và sẽ nhận được những phước lành lớn hơn. Họ nghĩ rằng nếu họ có thể chịu khổ, truyền đạo và chết vì Đấng Christ, nếu họ có thể hy sinh mạng sống của chính mình, và nếu họ có thể hoàn thành mọi bổn phận mà Đức Chúa Trời đã giao phó cho họ, thì họ sẽ là những người đạt được phước lành lớn nhất, và họ chắc chắn sẽ được trao mão triều thiên. Đây chính xác là những gì Phao-lô đã tưởng tượng và những gì ông tìm kiếm. Đây chính xác là con đường mà ông đã đi, và chính dưới sự dẫn dắt của những suy nghĩ như thế mà ông đã làm việc để hầu việc Đức Chúa Trời. Những suy nghĩ và ý định đó chẳng phải bắt nguồn từ một bản tính Sa-tan sao? Cũng giống như con người trần tục, những người tin rằng khi ở trên đất, họ phải theo đuổi kiến thức, và rằng sau khi có được kiến thức thì họ mới có thể nổi bật giữa đám đông, trở thành các quan chức và có địa vị. Họ nghĩ rằng một khi họ có địa vị, họ có thể hiện thực hóa những tham vọng của mình và đưa việc kinh doanh cũng như công việc gia đình của họ lên một mức độ thịnh vượng nhất định. Chẳng phải hết thảy những người ngoại đạo đều đi trên con đường này sao? Những người bị bản tính Sa-tan này chi phối chỉ có thể giống như Phao-lô trong đức tin của họ. Họ nghĩ: ‘Tôi phải vứt bỏ mọi sự để dâng mình cho Đức Chúa Trời. Tôi phải trung thành trước Đức Chúa Trời, và cuối cùng, tôi sẽ nhận được những phần thưởng tuyệt vời nhất và mão triều thiên tuyệt vời nhất’. Đây cũng là thái độ mà con người trần tục theo đuổi những điều trần tục. Họ không khác chút nào, và họ có cùng bản tính. Khi người ta có loại bản tính Sa-tan này, ra đời, họ sẽ tìm cách đạt được kiến thức, học vấn, địa vị, và nổi bật giữa đám đông. Nếu họ tin Đức Chúa Trời, họ sẽ tìm cách có được mão triều thiên to lớn và những phước lành lớn lao. Nếu người ta không theo đuổi lẽ thật khi họ tin Đức Chúa Trời, thì họ chắc chắn đi con đường này. Đây là một thực tế không thể phủ nhận, đây là một quy luật tự nhiên. Con đường mà những người không theo đuổi lẽ thật đi là con đường hoàn toàn trái ngược với con đường của Phi-e-rơ(Làm thế nào để đi con đường của Phi-e-rơ, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Đức Chúa Trời vạch rõ rằng, con người thực hiện bổn phận và vứt bỏ, dâng mình trong đức tin là để đạt được phước lành, kết cục và đích đến tốt đẹp – họ bị chi phối bởi động cơ nhận lãnh phước lành. Khi phản tỉnh, tôi nhận ra mình cũng có quan điểm mưu cầu giống như vậy. Tôi tin rằng nếu làm nhiều công việc và bổn phận, thực hiện tốt các nhiệm vụ mà lãnh đạo giao phó và đạt được hiệu quả, thì tôi sẽ được Đức Chúa Trời khen ngợi, có được một kết cục và đích đến tốt đẹp. Vì vậy tôi dồn hết tâm sức vào công việc, mỗi ngày đều bận làm việc đến tối tăm mặt mày. Tôi nghĩ đến Phao-lô, người chỉ chú trọng việc rao giảng và làm công tác. Ông đã bôn ba nhiều và trả những cái giá đắt, nhưng lại không thực hành lời Đức Chúa Trời, tâm tính bại hoại của ông không hề thay đổi. Ông làm tất cả chỉ để giao dịch với Đức Chúa Trời, hy vọng đạt được mão triều thiên và phần thưởng, thậm chí sau cùng còn làm chứng cho bản thân, nói rằng: “Vì đối với tôi, sống là đấng christ, còn chết là ích lợi” (Phi-líp 1:21). Ông đã xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời, bị Ngài đào thải và trừng phạt. Nhìn lại thì, tôi cũng đang đi trên con đường của Phao-lô: Tôi dựa vào quan niệm và tưởng tượng của bản thân, tin rằng miễn là mình làm việc nhiều hơn, hoàn thành các bổn phận được giao và đạt được thành quả, thì cuối cùng Đức Chúa Trời nhất định sẽ cho mình một đích đến tốt đẹp. Cứ như thế, tôi chỉ chú trọng vào làm việc, thậm chí nghĩ rằng ăn uống lời Đức Chúa Trời là trì hoãn thời gian. Tôi đã bộc lộ tâm tính kiêu ngạo, kìm kẹp người khác, nhưng lại không chú trọng vào việc giải quyết. Tôi chỉ muốn dùng sự trả giá và dâng mình bề ngoài, cũng như kết quả trong công tác, để đổi lấy phước lành từ Đức Chúa Trời, vậy thì sao có thể được Đức Chúa Trời khen ngợi được? Bề ngoài, tôi có vẻ bận rộn không ngừng mỗi ngày và khá trung thành trong bổn phận của mình, nhưng trên thực tế, tôi không hề làm vậy để thỏa mãn Đức Chúa Trời hay vì công tác của hội thánh, mà đang bày mưu tính kế vì kết cục và đích đến của bản thân, đang lợi dụng Đức Chúa Trời, cố gắng giao dịch với Ngài, đây là điều mà Ngài căm ghét. Nếu tôi vẫn mưu cầu với động cơ ích kỷ và ý định uế tạp, và nếu tâm tính bại hoại của tôi vẫn không thay đổi, thì sau cùng tôi chắc chắn sẽ bị Đức Chúa Trời đào thải.

Sau đó, tôi lại đọc được lời của Đức Chúa Trời: “Bất cứ điều gì trong cuộc sống của Phi-e-rơ không thỏa mãn tâm ý của Đức Chúa Trời đều khiến ông cảm thấy bứt rứt. Nếu việc đó không thỏa mãn tâm ý của Đức Chúa Trời, thì ông sẽ cảm thấy hối hận, và sẽ tìm kiếm một cách thích hợp để ông có thể phấn đấu làm thỏa mãn tâm ý của Đức Chúa Trời. Ngay cả trong những khía cạnh nhỏ nhặt nhất và vụn vặt nhất của cuộc sống, ông vẫn đòi hỏi bản thân phải làm thỏa lòng mong muốn của Đức Chúa Trời. Ông cũng đòi hỏi cao không kém đối với tâm tính cũ của mình, luôn khắt khe trong những yêu cầu về bản thân để tiến sâu hơn vào lẽ thật. … Trong niềm tin vào Đức Chúa Trời, Phi-e-rơ đã cố gắng làm thỏa mãn Đức Chúa Trời trong mọi việc, và tìm cách thuận phục tất cả mọi điều đến từ Đức Chúa Trời. Không một chút than phiền, ông đã có thể chấp nhận hình phạt và sự phán xét, cũng như sự tinh luyện, hoạn nạn và thiếu thốn trong cuộc sống của mình, không điều nào trong số này có thể thay đổi lòng yêu kính của ông dành cho Đức Chúa Trời. Chẳng phải đây là tình yêu tột độ dành cho Đức Chúa Trời sao? Chẳng phải đây là thực hiện bổn phận của một loài thọ tạo của Đức Chúa Trời sao? Cho dù chịu hình phạt, sự phán xét hay cơn hoạn nạn, ngươi vẫn luôn có khả năng đạt được sự thuận phục cho đến chết, và đây là điều một loài thọ tạo của Đức Chúa Trời phải đạt được, đây là sự thuần khiết của tình yêu dành cho Đức Chúa Trời. Nếu con người có thể đạt được đến mức này, thì họ là một loài thọ tạo đủ tư cách của Đức Chúa Trời, và không có điều gì thỏa mãn tâm ý của Đấng Tạo Hóa hơn thế. Thử tưởng tượng ngươi có thể làm việc cho Đức Chúa Trời, nhưng ngươi phản nghịch Đức Chúa Trời, và không có khả năng thực sự yêu kính Đức Chúa Trời. Theo cách này, không những ngươi sẽ không thực hiện bổn phận của một loài thọ tạo của Đức Chúa Trời, mà còn bị Đức Chúa Trời kết tội, vì ngươi là kẻ không sở hữu lẽ thật, kẻ không có khả năng thuận phục Đức Chúa Trời, và là kẻ phản nghịch với Đức Chúa Trời. Ngươi chỉ quan tâm đến việc làm việc cho Đức Chúa Trời, mà không quan tâm đến việc đưa lẽ thật vào thực hành, hay hiểu biết về bản thân. Ngươi không hiểu hoặc không biết về Đấng Tạo Hóa, và không thuận phụchay yêu kính Đấng Tạo Hóa. Ngươi là kẻ bẩm sinh đã phản nghịch với Đức Chúa Trời, và vì vậy, những kẻ như thế không được Đấng Tạo Hóa yêu kính(Thành công hay thất bại phụ thuộc vào con đường mà con người đi, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời phán rằng, đối mặt với những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống, Phi-e-rơ đều có thể tìm kiếm lẽ thật và mưu cầu việc thỏa mãn Đức Chúa Trời, kịp thời phản tỉnh về những tâm tính bại hoại mà mình bộc lộ. Trong quá trình làm việc, ông cũng chú trọng đến lối vào của bản thân, biết mang gánh trọng trách đối với sự ủy thác của Đức Chúa Trời và lối vào sự sống của chính mình, bước đi trên con đường thành công. Tôi thì ngược lại, chỉ lo chạy đôn chạy đáo làm việc, chứ không hề tìm kiếm lẽ thật. Khi bản thân bộc lộ sự bại hoại, tôi cũng không nghĩ ngợi nhiều, không chịu phản tỉnh và biết mình, đến tận ngày hôm nay vẫn không hề có chút thay đổi nào. Tôi đã đi trên con đường thất bại. Thực tế, con người phải trả giá và dâng mình cho Đức Chúa Trời: Đây là bổn phận của họ, chứ không như tôi tưởng tượng, rằng chỉ cần hoàn thành công việc là đủ. Phải có khả năng tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật khi gặp chuyện, chú trọng nhận biết sự bại hoại và thiếu sót của bản thân trong quá trình thực hiện bổn phận, tìm kiếm lẽ thật để giải quyết tâm tính bại hoại của mình, lấy lẽ thật làm tiêu chuẩn trong hành động và ứng xử, chỉ như vậy mới giúp ta tiến bộ trong sự sống. Mặc dù không thể giải quyết tâm tính bại hoại trong một sớm một chiều, nhưng tôi nên chú trọng vào việc nhận biết và xoay chuyển, phản tỉnh bản thân dựa trên lời Đức Chúa Trời, tìm kiếm những nguyên tắc mà mình nên tuân thủ và thực hành theo lời Ngài.

Sau đó, tôi đọc được một đoạn khác trong lời Đức Chúa Trời: “Cho dù những người mưu cầu lẽ thật bận rộn với bổn phận đến đâu, họ vẫn có thể tìm kiếm lẽ thật để giải quyết các vấn đề xảy đến với mình, tìm kiếm mối thông công về những điều mình chưa rõ trong các bài giảng đã nghe, và tĩnh tâm hàng ngày để suy ngẫm về biểu hiện của mình, sau đó suy ngẫm lời Đức Chúa Trời và xem video chứng ngôn trải nghiệm. Từ đây, họ đạt được nhiều điều. Cho dù họ có bận rộn đến đâu với bổn phận, điều đó cũng không làm cản trở hay trì hoãn việc bước vào sự sống của họ. Những người yêu lẽ thật tự nhiên thực hành theo cách này. Những người không yêu lẽ thật thì không mưu cầu lẽ thật và không sẵn lòng tĩnh lặng trước Đức Chúa Trời để phản tỉnh và biết mình bất kể họ có bận rộn với bổn phận hay không và bất kể vấn đề gì xảy đến. Vì vậy, cho dù bận rộn hay rảnh rỗi trong bổn phận của mình, họ cũng không mưu cầu lẽ thật. Thực tế là nếu một người một lòng mưu cầu lẽ thật, khao khát lẽ thật, cũng như mang gánh nặng về lối vào sự sống và sự thay đổi tâm tính, thì họ sẽ ngày càng gần gũi hơn với Đức Chúa Trời trong lòng và cầu nguyện với Ngài dù có bận rộn đến đâu với bổn phận. Họ chắc chắn sẽ có được chút khai sáng và thông sáng từ Đức Thánh Linh, đồng thời sự sống của họ sẽ không ngừng phát triển. Nếu một người không yêu lẽ thật và không mang gánh nặng về lối vào sự sống và sự thay đổi tâm tính, hoặc không quan tâm đến những điều này, thì họ không thể đạt được bất cứ điều gì. Phản tỉnh xem mình có những bộc phát sự bại hoại nào là một việc nên làm mọi lúc, mọi nơi. Ví dụ: nếu một người đã bộc phát sự bại hoại trong khi thực hiện bổn phận, thì trong lòng họ phải cầu nguyện với Đức Chúa Trời, phản tỉnh bản thân, nhận biết tâm tính bại hoại của mình và tìm kiếm lẽ thật để giải quyết nó. Đây là vấn đề tấm lòng, chứ không liên quan gì đến nhiệm vụ trong tay. Việc này có dễ làm không? Nó phụ thuộc vào việc ngươi có phải là người mưu cầu lẽ thật hay không. Những người không yêu lẽ thật không quan tâm đến những vấn đề về phát triển trong sự sống. Họ không suy xét những điều như vậy. Chỉ những người mưu cầu lẽ thật mới sẵn sàng chuyên tâm vào việc phát triển trong sự sống; chỉ những người đó mới thường xuyên suy ngẫm về những vấn đề thực sự tồn tại và làm thế nào để tìm kiếm lẽ thật nhằm giải quyết chúng. Trên thực tế, quá trình giải quyết vấn đề cũng chính là quá trình mưu cầu lẽ thật. Nếu một người luôn tập trung vào việc tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề trong khi thực hiện bổn phận, và đã giải quyết được khá nhiều vấn đề qua vài năm thực hành như thế, thì việc thực hiện bổn phận của họ chắc chắn đạt tiêu chuẩn. Những người như vậy ít bộc phát sự bại hoại hơn nhiều, và họ đã có được nhiều trải nghiệm thực sự trong việc thực hiện bổn phận. Do đó, họ có thể làm chứng cho Đức Chúa Trời. … Việc một người mưu cầu lẽ thật hay không không phải là vấn đề họ bận rộn với bổn phận đến đâu hay họ có bao nhiêu thời gian, mà phụ thuộc vào việc trong thâm tâm họ có yêu lẽ thật hay không. Thực tế là tất cả mọi người đều có nhiều thời gian như nhau, nhưng khác nhau ở chỗ mỗi người sử dụng thời gian vào việc gì. Bất cứ ai nói rằng họ không có thời gian để mưu cầu lẽ thật thì có thể là họ đang sử dụng thời gian cho những lạc thú xác thịt hoặc bận rộn với công chuyện bên ngoài nào đó. Họ không dành thời gian đó để tìm kiếm lẽ thật nhằm giải quyết vấn đề. Con người sao nhãng trong việc mưu cầu là như vậy. Điều này làm trì hoãn vấn đề trọng đại là bước vào sự sống của họ(Mưu cầu lẽ thật là gì (3), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật I). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi đã tìm ra con đường thực hành: Mỗi ngày phải dành ra chút thời gian để ăn, uống và suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, phản tỉnh về bản thân xem hôm nay mình đã bộc lộ sự bại hoại nào, đã làm những việc gì không tuân theo nguyên tắc. Không cần biết là trong bao lâu, miễn là có thể đạt được thu hoạch. Khi không bận thực hiện bổn phận, tôi có thể dành chút thời gian để đọc lời Đức Chúa Trời, còn khi bận rộn thì tôi tập trung vào bổn phận, đưa lời Đức Chúa Trời vào hiện thực cuộc sống để thực hành và trải nghiệm. Trước đây, khi nhắc đến chuyện tĩnh nguyện hoặc tìm kiếm lời Đức Chúa Trời để giải quyết tình trạng của mình, tôi sẽ viện cớ rằng mình không có thời gian. Thực tế, không phải do tôi bận bịu bổn phận nên không có thời gian đọc lời Đức Chúa Trời, mà là do tôi không yêu lẽ thật, chỉ chú trọng làm việc. Ngay cả khi không bận rộn với bổn phận, tôi cũng chẳng chú trọng đọc lời Đức Chúa Trời, chẳng tìm kiếm lẽ thật để giải quyết tâm tính bại hoại của mình. Hiện tại, tôi đã hiểu ra rằng không có sự tách biệt giữa việc thực hiện bổn phận và lối vào sự sống. Trong quá trình thực hiện bổn phận, chúng ta tìm kiếm lẽ thật để giải quyết các vấn đề và tâm tính bại hoại của mình, tất cả đều liên quan đến lối vào sự sống. Chúng ta nên làm công việc mà mình phải làm, nhưng cũng không thể lơ là lối vào sự sống. Kể từ đó, tôi chú trọng suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, tìm kiếm lẽ thật và phản tỉnh bản thân. Tôi đã tận dụng mọi khoảng thời gian rảnh rỗi, như lúc ăn uống, đi đường hoặc giặt giũ để suy ngẫm về trạng thái của bản thân và lời Đức Chúa Trời. Chỉ cần bản thân muốn mưu cầu và tìm kiếm thì sẽ luôn có thời gian. Tôi cũng phản tỉnh về bản thân: Tôi luôn coi thường những anh chị em phối hợp với mình, tính khí thì nóng nảy, đây là loại vấn đề gì vậy? Tôi đến trước Đức Chúa Trời để cầu nguyện, tìm và ăn uống những lời Đức Chúa Trời có liên quan đến trạng thái của mình. Tôi nhận ra tính khí nóng nảy của mình bị chi phối bởi bản tính kiêu ngạo và vì tôi yêu cầu quá cao đối với người khác. Người anh em phối hợp với tôi đã lớn tuổi và chưa từng thực hiện bổn phận này trước đây, anh ấy phản ứng hơi chậm cũng là chuyện bình thường. Tôi luôn dựa theo tiêu chuẩn của mình mà đưa ra yêu cầu cho anh ấy, còn nói chuyện với anh ấy bằng giọng điệu khó chịu. Tôi đã không nhìn nhận sự việc từ góc độ của đối phương, không tiếp cận vấn đề dựa trên hoàn cảnh khác nhau của mỗi người. Vì vậy mà khi tương tác với mọi người, tôi luôn khiến họ cảm thấy bị tổn thương và kìm kẹp. Tôi thực sự đã quá thiếu lý trí. Nhận ra điều đó, cuối cùng tôi cũng bắt đầu xem xét vấn đề này một cách nghiêm túc. Sau đó, trong những buổi thảo luận công việc, khi thấy anh em phản ứng chậm, tôi đã có thể đối đãi đúng đắn và cho họ thời gian suy ngẫm. Tôi cố gắng thông công một cách chi tiết với họ về các nguyên tắc có liên quan. Khi họ đặt ra một vài câu hỏi, tôi có thể kiên nhẫn thông công, tìm kiếm lẽ thật và cùng họ bước vào. Sau này, mỗi khi gặp chuyện, tôi cũng bắt đầu chú trọng kiểm điểm những gì mà mình bộc lộ. Khi nảy sinh những tâm tư hay ý niệm không đúng đắn, hoặc khi bộc lộ tâm tính bại hoại, tôi cũng có ý thức cầu nguyện với Đức Chúa Trời và tìm kiếm những lẽ thật liên quan để giải quyết, thay vì đối đãi với chúng dựa theo tâm tính bại hoại của mình.

Sau đó, có một dạo tôi lại bận rộn với bổn phận. Có vài anh chị em vi phạm nguyên tắc khi làm việc và cần được thông công giải quyết, ngoài ra còn có vài đối tượng phúc âm cần được rao giảng. Đối mặt với những công tác cấp bách ấy, suy nghĩ đầu tiên của tôi là phải nhanh chóng thực hiện. Lúc đó, tôi mới nhớ lại trước đây mình chỉ lo hoàn thành công việc, đến những nơi cần đến, làm những việc cần làm, nhưng lại chẳng thu hoạch được gì. Tôi không thể lặp lại sai lầm này, mà phải tìm kiếm các nguyên tắc. Thế là tôi đã bình tâm lại và suy ngẫm về những biểu hiện của anh chị em, tìm ra vài lời của Đức Chúa Trời, suy nghĩ xem phải thông công thế nào để đạt được kết quả và giúp họ hiểu ra thực chất của vấn đề. Về các đối tượng phúc âm, tôi cũng tìm hiểu những vấn đề chủ yếu của họ và tìm kiếm lẽ thật có liên quan để chuẩn bị trước. Nhờ tìm kiếm theo cách đó, tôi đã hiểu ra một số nguyên tắc lẽ thật mà trước đây mình chưa nắm bắt được, có được chút thu hoạch và đạt được vài kết quả trong bổn phận của mình. Qua trải nghiệm lần này, tôi đã nhận ra tầm quan trọng của việc chú trọng lối vào sự sống và tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật trong quá trình thực hiện bổn phận.

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger