Mưu cầu lẽ thật là gì (1)

Mối thông công hôm nay là về chủ đề mà tất cả mọi người đều quen thuộc. Nó liên quan mật thiết đến đức tin của con người nơi Đức Chúa Trời và việc mưu cầu của họ, và đây là chủ đề mọi người gặp phải cũng như nghe thấy hàng ngày. Vậy chủ đề này là gì? Chủ đề này là mưu cầu lẽ thật là gì. Các ngươi nghĩ gì về chủ đề này? Có đủ mới lạ với các ngươi không? Có hấp dẫn không? Cho dù chủ đề này hấp dẫn đến đâu thì Ta biết nó liên quan đến từng người các ngươi; nó liên quan đến việc được cứu rỗi của con người, đến lối vào thực tế của lời Đức Chúa Trời và sự thay đổi tâm tính của họ, cũng như kết cục và đích đến trong tương lai của họ. Hiện giờ hầu hết các ngươi đều sẵn lòng mưu cầu lẽ thật và đã bắt đầu thức tỉnh, nhưng các ngươi không chắc lắm mưu cầu lẽ thật là gì hay nên mưu cầu lẽ thật như thế nào. Đó là lý do tại sao hôm nay chúng ta cần thông công về chủ đề này. Việc mưu cầu lẽ thật là chủ đề mọi người thường gặp phải trong đời sống thường nhật; đây là một vấn đề thực tế mà mọi người phải đối mặt khi có chuyện xảy đến với họ trong đời sống hàng ngày, trong khi thực hiện bổn phận, v.v. Khi có chuyện xảy đến với hầu hết mọi người, họ chỉ đơn giản là tự thúc đẩy mình nỗ lực đọc lời Đức Chúa Trời, và họ giữ không cho suy nghĩ của mình trở nên tiêu cực, hy vọng nhờ đó ngăn bản thân chìm vào sự tiêu cực hoặc hiểu lầm về Đức Chúa Trời, và để bản thân có thể quy phục công tác của Ngài. Những người có tố chất tốt hơn thì có khả năng tích cực và chủ động tìm kiếm mọi khía cạnh của lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời; họ tìm các nguyên tắc, những yêu cầu của Đức Chúa Trời và những con đường thực hành. Hoặc họ có thể xem xét bản thân, suy ngẫm và đạt được hiểu biết thông qua những điều xảy đến với họ, nhờ đó hiểu được các nguyên tắc lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật. Tuy nhiên, đây vẫn là một rào cản lớn đối với hầu hết mọi người, và liệu họ có thể đạt được những điều này hay không thì chưa chắc chắn. Hầu hết mọi người vẫn chưa bước vào được khía cạnh này của thực tế. Do đó, sẽ không dễ để các ngươi đạt được sự hiểu biết thực tế, khách quan và đúng đắn về chủ đề bình thường, phổ biến và cụ thể này, ngay cả khi các ngươi có thời gian để suy ngẫm về nó. Vậy, trở lại chủ đề chính của chúng ta, hãy cùng thông công mưu cầu lẽ thật là gì. Các ngươi không giỏi suy ngẫm, nhưng Ta hy vọng các ngươi giỏi lắng nghe – không chỉ nghe bằng tai mà bằng cả tấm lòng. Ta hy vọng ngươi sẽ dốc lòng hiểu và lĩnh hội điều này, và ngươi sẽ khắc ghi vào lòng như một điều quan trọng tất cả những gì ngươi có thể lĩnh hội được và tất cả những gì phù hợp với tình trạng, tâm tính của ngươi cũng như từng khía cạnh trong hoàn cảnh của ngươi. Sau đó, Ta hy vọng ngươi sẽ bắt đầu giải quyết những tâm tính bại hoại của mình và cố tạc dạ tất cả những nguyên tắc thực hành để khi có vấn đề liên quan phát sinh, ngươi sẽ có con đường để đi, và ngươi sẽ có thể coi lời Đức Chúa Trời là con đường thực hành, và thực hiện, vâng lời chúng như vậy. Tốt nhất là như thế.

Mưu cầu lẽ thật là gì? Đây có thể là một câu hỏi mang tính khái niệm, nhưng nó cũng là câu hỏi thực tế nhất về việc tin vào Đức Chúa Trời. Người ta có thể mưu cầu lẽ thật hay không liên quan trực tiếp đến sở thích, tố chất và việc mưu cầu của họ. Việc mưu cầu lẽ thật bao gồm nhiều yếu tố thực tế. Chúng ta nên thông công từng điều một để các ngươi có thể hiểu lẽ thật càng nhanh càng tốt và biết chính xác mưu cầu lẽ thật là gì cũng như những vấn đề liên quan đến việc mưu cầu đó. Như thế, cuối cùng các ngươi sẽ có thể hiểu được mưu cầu lẽ thật là gì. Trước hết, hãy thảo luận việc này: các ngươi có đang mưu cầu lẽ thật khi nghe bài giảng này không? (Thưa, không hẳn là vậy.) Nghe các bài giảng chỉ đơn thuần là một điều kiện tiên quyết và là hành động chuẩn bị để mưu cầu lẽ thật. Những yếu tố nào liên quan đến việc mưu cầu lẽ thật? Có nhiều chủ đề liên quan đến việc mưu cầu lẽ thật, và tất nhiên là cũng có nhiều vấn đề tồn tại trong con người mà chúng ta cần thảo luận ở đây. Chẳng hạn như, một số người nói: “Nếu một người ăn uống lời Đức Chúa Trời và thông công về lẽ thật hàng ngày, nếu họ có thể thực hiện bổn phận của mình một cách bình thường, nếu họ làm bất cứ việc gì mà hội thánh sắp xếp và không bao giờ gây ra sự nhiễu loạn hay phá vỡ – và mặc dù đôi khi họ có thể vi phạm các nguyên tắc lẽ thật, nhưng họ không làm vậy một cách chủ ý hay có chủ đích – điều này chẳng phải chứng tỏ rằng họ đang mưu cầu lẽ thật sao?” Đây là một câu hỏi hay. Nhiều người có suy nghĩ như vậy. Trước hết, ngươi phải hiểu liệu ai đó có thể đạt được sự hiểu biết về lẽ thật và đạt được lẽ thật bằng cách kiên định thực hành theo cách này hay không. Các ngươi nói xem. (Thưa, mặc dù thực hành theo cách này là đúng, nhưng nó có vẻ giống với các nghi lễ tôn giáo hơn – đó là tuân theo quy tắc. Nó không thể dẫn đến sự hiểu biết về lẽ thật hoặc đạt được lẽ thật.) Vậy, những loại hành vi này thật sự là gì? (Thưa, chúng là những hành vi tốt bề ngoài.) Ta thích câu trả lời đó. Chúng chỉ đơn thuần là những hành vi tốt xuất phát sau khi một người bắt đầu tin Đức Chúa Trời, dựa trên nền tảng lương tâm và lý trí của người đó, sau khi họ đã bị ảnh hưởng bởi nhiều giáo huấn tốt và tích cực khác nhau. Nhưng chúng không gì hơn là những hành vi tốt, và còn lâu mới là sự mưu cầu lẽ thật. Vậy thì, đâu là nguyên nhân cội rễ của những hành vi tốt này? Điều gì khiến chúng phát sinh? Chúng phát sinh từ lương tâm và lý trí của con người, đạo đức của họ, những cảm xúc thiện chí của họ đối với đức tin nơi Đức Chúa Trời, và sự tự kiềm chế của họ. Vì chúng là những hành vi tốt nên chúng không liên quan gì đến lẽ thật và chúng hoàn toàn không phải là cùng một thứ. Có hành vi tốt không giống như thực hành lẽ thật, và nếu một người cư xử tốt thì điều đó không có nghĩa là họ được Đức Chúa Trời chấp thuận. Hành vi tốt và thực hành lẽ thật là hai việc khác nhau – chúng không liên quan gì đến nhau. Thực hành lẽ thật là yêu cầu của Đức Chúa Trời và điều này hoàn toàn phù hợp với ý muốn của Ngài; hành vi tốt xuất phát từ ý muốn của con người và mang trong đó ý định, động cơ của con người – đó là điều mà con người xem là tốt. Mặc dù hành vi tốt không phải là việc ác, nhưng chúng trái với các nguyên tắc lẽ thật và không liên quan gì đến lẽ thật. Cho dù những hành vi này tốt như thế nào, hay chúng phù hợp với những quan niệm và tưởng tượng của con người ra sao, thì chúng cũng không liên quan đến lẽ thật. Vì vậy dù có bao nhiêu hành vi tốt thì cũng không thể được Đức Chúa Trời chấp thuận. Vì hành vi tốt được định nghĩa như vậy, nên rõ ràng, những hành vi tốt không liên quan đến việc thực hành lẽ thật. Nếu con người được phân loại theo hành vi của họ, thì những hành vi tốt này cùng lắm chỉ là hành động của những kẻ phục vụ trung thành không hơn. Chúng hoàn toàn không liên quan đến việc thực hành lẽ thật hay sự quy phục thực sự đối với Đức Chúa Trời. Chúng chỉ đơn thuần là một kiểu hành vi và hoàn toàn không liên quan đến sự thay đổi tâm tính của con người, sự quy phục và tiếp nhận lẽ thật của họ, sự kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, hay bất kỳ yếu tố thực tế nào khác thực sự liên quan đến lẽ thật. Vậy tại sao chúng lại được gọi là hành vi tốt? Đây là lời giải thích và tất nhiên cũng là lời giải thích về bản chất của vấn đề này. Đó là những hành vi này chỉ bắt nguồn từ những quan niệm, sở thích, ý nguyện của con người cũng như những nỗ lực tự giác của chính họ. Chúng không phải là những biểu hiện của sự ăn năn theo sau việc đạt được sự tự biết mình thực sự bằng cách chấp nhận lẽ thật cùng sự phán xét và hình phạt của lời Đức Chúa Trời, chúng cũng không phải là những hành vi hoặc hành động của việc thực hành lẽ thật nảy sinh khi con người cố gắng quy phục Đức Chúa Trời. Ngươi có hiểu điều này không? Điều này có nghĩa là những hành vi tốt này hoàn toàn không liên quan gì đến sự thay đổi trong tâm tính của một người, hay những gì xảy ra khi trải qua sự phán xét và hình phạt của lời Đức Chúa Trời, hay sự ăn năn thực sự nảy sinh từ việc nhận biết được tâm tính bại hoại của chính mình. Chúng chắc chắn không liên quan đến sự quy phục thực sự của con người đối với Đức Chúa Trời và lẽ thật; chúng càng không liên quan đến lòng tôn kính và tình yêu dành cho Đức Chúa Trời. Hành vi tốt không hề liên quan gì đến những điều này; chúng đơn thuần là thứ xuất phát từ con người, và là điều mà con người coi là tốt. Tuy nhiên, có nhiều người coi những hành vi tốt này là một dấu hiệu của việc một người đang thực hành lẽ thật. Đây là một sai lầm nghiêm trọng, một cách nhìn và cách hiểu vô lý và ảo tưởng. Những hành vi tốt này chỉ là một sự thực hiện nghi lễ tôn giáo, và làm cho có lệ. Chúng hoàn toàn không liên quan gì đến việc thực hành lẽ thật. Đức Chúa Trời có thể không thẳng thừng lên án chúng, nhưng Ngài tuyệt đối không chấp thuận chúng; điều này là chắc chắn. Các ngươi nên biết rằng những hành động bề ngoài phù hợp với quan niệm của con người này và những hành vi tốt này không phải là thực hành lẽ thật, cũng không phải là biểu hiện của việc theo đuổi lẽ thật. Sau khi nghe mối thông công này, các ngươi chỉ có một chút kiến thức khái niệm về mưu cầu lẽ thật là gì, bước đầu hiểu được khái niệm đơn giản về việc mưu cầu lẽ thật. Nếu các ngươi muốn thực sự hiểu được mưu cầu lẽ thật là gì thì còn nhiều điều chúng ta cần phải thông công.

Để mưu cầu lẽ thật, người ta phải hiểu lẽ thật; chỉ khi hiểu được lẽ thật, người ta mới có thể thực hành lẽ thật được. Những hành vi tốt của con người có liên quan đến việc thực hành lẽ thật không? Có phải những hành vi tốt sinh ra từ việc mưu cầu lẽ thật không? Những biểu hiện và hành động nào thuộc về thực hành lẽ thật? Người mưu cầu lẽ thật có những biểu hiện nào? Ngươi cần phải hiểu được những vấn đề này. Để thông công về việc mưu cầu lẽ thật, trước hết chúng ta phải nói về những khó khăn cùng các quan điểm sai lầm của mọi người về việc này. Trước tiên cần phải giải quyết những vấn đề này. Một số người có hiểu biết thuần khiết, có quan điểm tương đối rõ ràng về lẽ thật là gì. Họ có con đường để mưu cầu lẽ thật. Số khác không hiểu lẽ thật là gì, và dù họ có quan tâm đến lẽ thật nhưng không biết cách thực hành. Họ tưởng rằng làm điều tốt và hành xử tốt cũng giống như thực hành lẽ thật – tưởng rằng thực hành lẽ thật là làm điều tốt. Mãi cho đến khi họ đọc nhiều lời Đức Chúa Trời, họ mới nhận ra làm điều tốt và hành xử tốt hoàn toàn khác với thực hành lẽ thật. Ngươi có thể thấy những quan niệm và tưởng tượng của con người mới phi lý làm sao – những ai không hiểu lẽ thật không thể thấy rõ được bất cứ điều gì! Nhiều người đã thực hiện bổn phận nhiều năm, ngày nào cũng bận rộn và đã trải qua không ít gian khổ, nên họ nghĩ bản thân họ là người thực hành lẽ thật và là người có thực tế lẽ thật. Tuy nhiên, họ không thể đưa ra được bất kỳ chứng ngôn kinh nghiệm nào. Vấn đề ở đây là gì? Nếu họ hiểu lẽ thật, tại sao họ không thể nói về kinh nghiệm thực tế của mình? Chẳng phải có gì đó mâu thuẫn sao? Một số người nói: “Trước đây khi thực hiện bổn phận của mình, tôi đã không mưu cầu lẽ thật, và tôi không cầu nguyện-đọc kỹ lời Đức Chúa Trời. Tôi đã phí hoài rất nhiều thời gian. Tôi quá mải mê với công việc, nghĩ rằng cứ bận rộn làm bổn phận cũng giống như thực hành lẽ thật và quy phục công tác của Đức Chúa Trời – nhưng tôi chỉ đang lãng phí thời gian mà thôi”. Hàm ý ở đây là gì? Rằng họ trì hoãn việc mưu cầu lẽ thật vì họ quá bận rộn thực hiện bổn phận của mình. Có thật sự đúng như vậy không? Một số người ngớ ngẩn tin rằng miễn là họ cứ bận rộn làm bổn phận thì sẽ không có thời gian để tâm tính bại hoại của họ bộc lộ ra, rằng họ sẽ không còn bộc lộ tâm tính bại hoại hay sống trong tình trạng bại hoại, và do đó họ không cần ăn uống lời Đức Chúa Trời để hóa giải tâm tính bại hoại của mình. Tư tưởng này có đúng không? Con người có thực sự không bộc lộ những tâm tính bại hoại khi họ bận rộn làm bổn phận không? Đây là một tư tưởng phi lý – là nói dối trắng trợn. Họ nói rằng họ không có thời gian mưu cầu lẽ thật vì họ bận rộn làm bổn phận. Đây đơn thuần là ngụy biện; họ dùng việc bận rộn làm cái cớ. Chúng ta đã thông công nhiều lần về những lẽ thật về lối vào sự sống và việc thực hiện bổn phận: chỉ bằng cách tìm kiếm lẽ thật để giải quyết những vấn đề trong khi thực hiện bổn phận, con người mới có thể trường thành trong sự sống. Do đó, nếu tất cả những gì một người làm trong khi thực hiện bổn phận chỉ là bận rộn với những nhiệm vụ, nếu họ không tìm kiếm lẽ thật để giải quyết các vấn đề, thì họ sẽ không bao giờ hiểu được lẽ thật. Một số người không yêu lẽ thật chỉ đơn thuần hài lòng với việc dâng sự phục vụ, và hy vọng dùng nó để đổi được lấy những phước lành của thiên quốc. Cuối cùng, họ viện cớ rằng quá bận rộn thực hiện bổn phận đến nỗi không có thời gian để mưu cầu lẽ thật; thậm chí họ còn nói rằng họ quá bận rộn thực hiện bổn phận đến nỗi không bộc lộ tâm tính bại hoại. Ý nói là vì họ bận rộn làm bổn phận nên tâm tính bại hoại của họ đã biến mất, không còn tồn tại nữa. Đây là nói dối, chẳng phải sao? Tuyên bố của họ có phù hợp với thực tế không? Không hề – có thể gọi đấy là nói dối trắng trợn nhất trong tất cả. Làm sao có thể không còn bộc lộ tâm tính bại hoại bởi vì người ta bận rộn làm bổn phận chứ? Những người như thế có tồn tại không? Liệu chứng ngôn kinh nghiệm như thế có tồn tại không? Chắc chắn là không. Con người đã bị Sa-tan làm bại hoại sâu sắc; tất cả bọn họ đều có bản tính Sa-tan, và họ đều sống trong những tâm tính Sa-tan. Có điều gì tích cực bên trong con người, bất cứ điều gì khác ngoài sự bại hoại không? Có ai sinh ra mà không có tâm tính bại hoại không? Có ai sinh ra mà có thể thực hiện bổn phận một cách trung thành không? Có ai sinh ra mà đã có thể quy phục Đức Chúa Trời và yêu mến Ngài không? Tuyệt đối không. Bởi vì tất cả mọi người đều có bản tính Sa-tan và đầy những tâm tính bại hoại, nên nếu họ không thể hiểu và thực hành lẽ thật thì họ chỉ có thể sống theo những tâm tính bại hoại của mình. Vì vậy, thật vô lý và ngụy biện khi nói rằng người ta sẽ không bộc lộ tâm tính bại hoại nếu họ cứ bận rộn với bổn phận. Đây là nói dối trắng trợn nhằm đánh lừa mọi người. Bất kể họ có bận rộn thực hiện bổn phận hay không, bất kể họ có thời gian đọc lời Đức Chúa Trời hay không, những người không yêu lẽ thật sẽ tìm lý do và viện cớ để không mưu cầu lẽ thật. Những người này rõ ràng và đơn giản chỉ là kẻ phục vụ. Nếu một kẻ phục vụ không ăn uống lời Đức Chúa Trời và không tiếp nhận lẽ thật, liệu họ có thể dâng sự phục vụ tốt không? Chắc chắn là không. Tất cả những ai không tiếp nhận lẽ thật đều không có lương tâm và lý trí, họ là những kẻ sẽ sống theo tâm tính bại hoại của mình và phạm vô số việc ác. Họ hoàn toàn không phải là kẻ phục vụ trung thành, và mặc dù họ có dâng sự phục vụ nhưng sự phục vụ của họ cũng chẳng có gì tốt đẹp. Ngươi có thể chắc chắn về điều này.

Một số người quá vướng bận với gia đình và thường chìm đắm trong âu lo. Khi họ thấy các anh chị em trẻ hơn từ bỏ gia đình và sự nghiệp để đi theo Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận của mình, họ ghen tỵ với người ta và nói: “Đức Chúa Trời thật tốt với những người trẻ tuổi này. Họ bắt đầu tin Ngài từ khi còn trẻ, trước khi kết hôn và có con cái; họ không có ràng buộc gia đình và không phải lo lắng về cơm áo gạo tiền. Họ không có mối bận tâm nào ngăn cản họ đi theo Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận của mình. Họ đến vừa đúng lúc cho công tác của Đức Chúa Trời và sự mở rộng Phúc Âm của Ngài trong thời kỳ sau rốt – Đức Chúa Trời đã cung cấp cho họ những điều kiện thuận lợi như vậy. Họ có thể cống hiến, cả thể xác lẫn tâm hồn, cho việc thực hiện bổn phận. Họ có thể mưu cầu lẽ thật, nhưng tôi thì không được vậy. Đức Chúa Trời đã không sắp đặt môi trường thích hợp cho tôi – tôi có rất nhiều vướng bận gia đình và tôi phải kiếm tiền để chu cấp cho họ. Vấn đề thực sự của tôi nằm ở đó. Đó là lý do tại sao tôi không có thời gian mưu cầu lẽ thật. Việc mưu cầu lẽ thật dành cho những người thực hiện bổn phận toàn thời gian và không có bất kỳ ràng buộc nào như vậy. Tôi nặng gánh vướng bận gia đình và lòng tôi đầy những chuyện vặt vãnh của cơm áo gạo tiền, nên tôi không có thời gian hay sức lực để ăn uống lời Đức Chúa Trời hay thực hiện bổn phận của mình. Dù nhìn vào khía cạnh nào trong hoàn cảnh của tôi thì tôi cũng không có cách nào để mưu cầu được lẽ thật. Không thể trách tôi vì chuyện đó được. Vận mệnh của tôi đơn giản không phải là mưu cầu lẽ thật, và hoàn cảnh của tôi không cho phép tôi thực hiện bổn phận. Tất cả những gì tôi có thể làm là chờ những vướng bận gia đình của mình giảm bớt, con cái độc lập, tôi về hưu và thoát khỏi những lo toan vật chất – khi đó tôi mới mưu cầu lẽ thật được”. Những người như thế này trải qua khó khăn trong đời sống hàng ngày, và đôi khi họ có thể cảm thấy tâm tính bại hoại của mình bộc phát trong những vấn đề nhỏ nhặt của đời sống hàng ngày. Họ có thể phát hiện ra những điều này, nhưng vì họ bị mắc vào cạm bẫy của thế giới trần tục, nên họ tin rằng mình đang làm tốt khi sống, tin Đức Chúa Trời, nghe các bài giảng, và kiếm sống thoải mái theo cách này. Họ tin rằng việc mưu cầu lẽ thật có thể đợi được, và rằng không quá muộn để hóa giải bất kỳ tâm tính bại hoại nào họ có trong vài năm tới. Đó là cách họ trì hoãn vấn đề trọng đại là mưu cầu lẽ thật, và trì hoãn hết lần này đến lần khác. Họ luôn nói gì? “Không bao giờ là quá muộn để mưu cầu lẽ thật. Tôi để mấy năm nữa sẽ làm. Chừng nào công tác Đức Chúa Trời chưa kết thúc, tôi vẫn còn thời gian – tôi vẫn còn cơ hội”. Ngươi nghĩ gì về quan điểm này? (Thưa, quan điểm này sai.) Họ đã mang gánh nặng mưu cầu lẽ thật chưa? (Thưa, chưa.) Vậy thì họ đã mang gánh nặng gì? Đó chẳng phải là gánh nặng kiếm sống, chu cấp cho gia đình, nuôi dạy con cái sao? Họ dành tất cả sức lực cho con cái, cho gia đình, cho ngày tháng và cuộc sống riêng của mình, và chỉ sau khi giải quyết xong những điều này, họ mới lên kế hoạch để bắt đầu mưu cầu lẽ thật. Vậy những lời bào chữa của họ có căn cứ không? Chẳng phải những lời bào chữa đó là chướng ngại vật cho việc mưu cầu lẽ thật của họ sao? (Thưa, phải.) Dù những người này tin vào quyền tối thượng và sự an bài của Đức Chúa Trời, nhưng họ cũng phàn nàn về môi trường Đức Chúa Trời đã an bài cho họ. Họ coi thường những yêu cầu của Đức Chúa Trời và hoàn toàn không chủ động hợp tác với những yêu cầu đó. Thay vào đó, họ chỉ quan tâm đến việc thỏa mãn xác thịt, gia đình và người thân của mình. Lý do họ đưa ra cho việc không mưu cầu lẽ thật là gì? “Chúng tôi quá bận rộn và kiệt sức chỉ để cố gắng tồn tại. Chúng tôi không có thời gian mưu cầu lẽ thật; chúng tôi không có môi trường phù hợp để mưu cầu lẽ thật”. Họ có quan điểm gì? (Thưa, không bao giờ là quá muộn để mưu cầu lẽ thật.) “Không bao giờ là quá muộn để mưu cầu lẽ thật. Tôi để mấy năm nữa sẽ làm”. Đây chẳng phải là ngu xuẩn sao? (Thưa, phải.) Thật ngu xuẩn – họ đang tự lừa dối mình bằng những lời bào chữa. Công tác của Đức Chúa Trời có chờ đợi ngươi không? (Thưa, không.) “Tôi để mấy năm nữa sẽ làm” – “mấy năm nữa” nghĩa là gì? Nghĩa là ngươi có ít hy vọng được cứu rỗi hơn và ngươi sẽ có ít năm hơn để trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời. Một vài năm sẽ trôi qua như thế này, rồi vài năm nữa, ngoảnh đi ngoảnh lại mười năm đã trôi qua, và ngươi vẫn chưa hiểu được lẽ thật hay bước vào thực tế lẽ thật được chút nào, và chưa có một chút tâm tính bại hoại nào của ngươi được hóa giải. Chỉ nói một lời trung thực cũng quá khó khăn đối với ngươi. Chẳng phải nguy hiểm sao? Chẳng phải đáng thương sao? (Thưa, phải.) Khi con người viện ra tất cả những lời bào chữa và lý do này để biện minh cho việc không mưu cầu lẽ thật, rốt cuộc họ đang làm hại ai? (Thưa, chính bản thân họ.) Đúng vậy – rốt cuộc, họ hại chính bản thân mình. Và khi nằm thoi thóp trên giường bệnh, họ sẽ hận bản thân mình vì đã không đạt được lẽ thật trong những năm tin Đức Chúa Trời, và họ sẽ hối hận cả đời!

Một số người gọi là có học thức, nhưng tố chất kém cỏi và không hiểu những vấn đề thuộc linh. Dù có nghe bao nhiêu bài giảng đi nữa, họ cũng không thể hiểu được lẽ thật. Họ luôn có những tham vọng, ham muốn riêng, và luôn tranh giành địa vị. Nếu họ không có địa vị, họ sẽ không mưu cầu lẽ thật. Họ nói: “Nhà Đức Chúa Trời không bao giờ sắp xếp để tôi thực hiện một bổn phận phản ánh được giá trị của tôi, chẳng hạn như công việc viết lách, công việc trong mảng nghe nhìn, làm lãnh đạo hội thánh, hay là người phụ trách nhóm. Họ không giao cho tôi công việc nào quan trọng để làm cả. Nhà Đức Chúa Trời không đề bạt hay bồi dưỡng tôi, và mỗi khi hội thánh tổ chức bầu cử, chẳng ai bầu cho tôi, chẳng ai thích tôi cả. Tôi thực sự không có những phẩm chất mong muốn sao? Tôi là một trí thức, có học thức, nhưng nhà Đức Chúa Trời chưa bao giờ đề bạt hay bồi dưỡng tôi, nên tôi không có động lực để mưu cầu lẽ thật. Tất cả những anh chị em bắt đầu tin Đức Chúa Trời cùng thời điểm với tôi đều đang thực hiện những bổn phận quan trọng, và phụng sự với tư cách lãnh đạo, người làm công – tại sao tôi lại bị bỏ lại ăn không ngồi rồi? Tôi chỉ thỉnh thoảng được giao vai trò hỗ trợ bằng cách rao truyền Phúc Âm, và họ cũng không cho tôi làm chứng. Bất cứ khi nào nhà Đức Chúa Trời đề bạt người làm bổn phận quan trọng thì chẳng có gì dành cho tôi; tôi thậm chí còn không được phép chủ trì các buổi nhóm họp, và họ không giao cho tôi bất kỳ trách nhiệm gì. Tôi cảm thấy quá oan ức. Đây là môi trường Đức Chúa Trời đã an bài cho tôi. Tại sao tôi không thể cảm nhận được giá trị sự tồn tại của mình? Tại sao Đức Chúa Trời yêu thương những người khác mà không yêu thương tôi? Tại sao Ngài bồi dưỡng những người khác mà không bồi dưỡng tôi? Nhà Đức Chúa Trời nên cho tôi thêm gánh nặng, và cho tôi làm người phụ trách hay gì đó. Như thế, tôi sẽ có chút động lực để mưu cầu lẽ thật. Làm sao tôi có thể mưu cầu lẽ thật nếu không có động lực chứ? Con người luôn cần một chút động lực để mưu cầu lẽ thật; chúng ta cần có thể nhìn thấy được lợi ích của việc mưu cầu lẽ thật. Tôi biết con người có những tâm tính bại hoại cần được thay đổi, và tôi biết mưu cầu lẽ thật là việc tốt, nó cho phép chúng ta được cứu rỗi và được hoàn thiện – nhưng tôi chưa bao giờ được dùng cho việc gì quan trọng, và tôi cảm thấy không có sự khích lệ để mưu cầu lẽ thật! Tôi sẽ bắt đầu mưu cầu lẽ thật khi các anh chị em coi trọng tôi và hỗ trợ tôi – lúc đó cũng không quá muộn”. Chẳng phải có những người kiểu này sao? (Thưa, phải.) Họ có vấn đề gì? Vấn đề là họ muốn địa vị và chỗ đứng. Rõ ràng họ không phải là người yêu lẽ thật, nhưng họ muốn có chỗ đứng và vị trí chủ chốt trong nhà Đức Chúa Trời. Đây chẳng phải là vô liêm sỉ sao? Ngươi là kẻ phục vụ đã là tốt rồi; liệu ngươi có thể trở thành một kẻ phục vụ trung thành không vẫn còn phải chờ xem. Tại sao ngươi lại chưa rõ điều đó chứ? Ngươi có nghĩ rằng nếu ngươi có địa vị và chỗ đứng thì ngươi sẽ được cứu rỗi không? Thì ngươi sẽ là người mưu cầu lẽ thật không? Những quan điểm này của ngươi có căn cứ không? (Thưa, không.) Những người này muốn được nổi bật, muốn chứng tỏ sự hiện diện của mình, và khi ham muốn của họ không được đáp ứng, họ oán trách rằng Đức Chúa Trời bất công, rằng Ngài thiên vị trong cách đối xử với mọi người, rằng nhà Ngài không đề cao họ, rằng các anh chị em không bầu chọn họ – chắc chắn những điều này không phải là nền tảng một người cần để mưu cầu lẽ thật. Có chỗ nào trong lời Đức Chúa Trời phán rằng người mưu cầu lẽ thật phải được tất cả mọi người đón nhận cũng như được các anh chị em coi trọng không? Hay họ phải có thể đảm đương một bổn phận quan trọng và làm công việc quan trọng, đồng thời cũng phải có đóng góp lớn lao cho nhà Đức Chúa Trời không? Lời Đức Chúa Trời có phán rằng chỉ những người như thế mới có thể mưu cầu lẽ thật, rằng chỉ có họ mới xứng đáng mưu cầu lẽ thật không? Lời Ngài có phán rằng chỉ những người đó mới đáp ứng các tiêu chuẩn để mưu cầu lẽ thật, rằng chỉ có họ mới có thể bước vào thực tế lẽ thật, hoặc cuối cùng chỉ có họ mới có thể được cứu rỗi không? Điều này có được ghi chép ở đâu trong lời Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Rõ ràng là những tuyên bố loại người này đưa ra là vô căn cứ. Vậy tại sao họ lại nói những điều này? Chẳng phải họ đang bào chữa cho việc không mưu cầu lẽ thật sao? (Thưa, phải.) Họ yêu thích địa vị và thanh thế. Họ chỉ quan tâm đến việc theo đuổi danh vọng, tư lợi và mưu cầu địa vị trong đức tin nơi Đức Chúa Trời. Họ cảm thấy thật đáng hổ thẹn khi nói ra điều này nên đã viện ra rất nhiều lời biện minh, bào chữa cho bản thân vì đã không mưu cầu lẽ thật và đổ lỗi cho hội thánh, cho các anh chị em và cho Đức Chúa Trời. Đây không phải là nham hiểm sao? Chẳng phải họ là kẻ ác đang buộc tội phía vô tội sao? (Thưa, phải.) Họ đang vô cớ gây chuyện và quấy rối người khác bằng những yêu cầu phi lý; họ hoàn toàn không có lương tâm hay lý trí! Bản thân việc không mưu cầu lẽ thật đã là một vấn đề đủ nghiêm trọng rồi, ấy vậy mà họ còn cố tranh luận và gây khó dễ – điều đó thực sự vô lý, chẳng phải sao? Mưu cầu lẽ thật mang tính tự nguyện. Nếu ngươi yêu lẽ thật thì Đức Thánh Linh sẽ hoạt động nơi ngươi. Khi ngươi yêu lẽ thật; khi ngươi cầu nguyện và dựa cậy vào Đức Chúa Trời, tự kiểm điểm bản thân và cố biết mình dù có bất kể sự bách hại hay hoạn nạn nào xảy đến với ngươi; khi ngươi tích cực tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề ngươi phát hiện ra trong bản thân mình, ngươi sẽ có thể thực hiện bổn phận của mình một cách thỏa đáng. Theo cách này, ngươi sẽ có khả năng đứng vững trong chứng ngôn của mình. Khi con người yêu lẽ thật, tất cả những biểu hiện này đều sẽ tự nhiên đến với họ. Chúng diễn ra một cách tự nguyện, vui vẻ, không gượng ép, và không kèm theo bất kỳ điều kiện thêm nào. Nếu con người có thể theo Đức Chúa Trời theo cách này, thì cuối cùng họ sẽ đạt được lẽ thật và sự sống, họ sẽ bước vào thực tế lẽ thật, và sống thể hiện ra là hình tượng của một con người. Ngươi có cần phải đáp ứng thêm bất kỳ điều kiện nào để mưu cầu lẽ thật không? Không. Tin Đức Chúa Trời là tự nguyện, đó là điều một người tự lựa chọn, và mưu cầu lẽ thật là việc thiên kinh địa nghĩa; đó là việc được Đức Chúa Trời tán thành. Những người không mưu cầu lẽ thật không sẵn lòng từ bỏ lạc thú xác thịt và vẫn muốn đạt được phước lành của Đức Chúa Trời, nhưng khi đối mặt với một chút hoạn nạn và bách hại, hoặc một chút chế nhạo và phỉ báng, họ trở nên tiêu cực và yếu đuối, và không còn ước muốn tin Đức Chúa Trời hay đi theo Ngài nữa. Thậm chí họ còn có thể oán trách và chối bỏ Ngài. Đây chẳng phải là vô lý sao? Họ muốn được ban phước, ấy thế nhưng họ vẫn theo đuổi lạc thú xác thịt, và khi gặp bất kỳ hoạn nạn và sự bách hại nào thì họ lại oán trách Đức Chúa Trời. Những người không yêu lẽ thật này thật vô lý làm sao. Họ sẽ khó đi theo Đức Chúa Trời được đến cùng; ngay khi gặp một số hoạn nạn và sự bách hại, họ sẽ bị vạch trần và đào thải. Có quá nhiều người như thế này. Dù lý do tin Đức Chúa Trời của ngươi là gì đi nữa, cuối cùng Đức Chúa Trời sẽ định đoạt kết cục của ngươi dựa trên việc ngươi đã đạt được lẽ thật hay chưa. Nếu ngươi chưa đạt được lẽ thật, thì không có lời biện minh hay bào chữa nào mà ngươi đưa ra là thuyết phục cả. Cứ cố gắng lý luận tùy thích; rối lên tùy thích – Đức Chúa Trời có quan tâm không? Liệu Đức Chúa Trời có trò chuyện với ngươi không? Ngài có tranh luận và trao đổi với ngươi không? Ngài có tham khảo ý kiến của ngươi không? Câu trả lời là gì? Không. Ngài tuyệt đối sẽ không làm thế. Dù lý lẽ của ngươi có chính đáng thế nào cũng không đứng vững được. Ngươi không được hiểu sai ý định của Đức Chúa Trời, nghĩ rằng nếu ngươi có thể đưa ra đủ loại lý do và cái cớ thì ngươi không cần phải mưu cầu lẽ thật. Đức Chúa Trời muốn ngươi có thể tìm kiếm lẽ thật trong mọi hoàn cảnh và mọi vấn đề xảy đến với ngươi, cuối cùng đạt được lối vào thực tế lẽ thật và đạt được lẽ thật. Bất kể hoàn cảnh nào mà Đức Chúa Trời đã sắp đặt cho ngươi, con người và sự kiện nào mà ngươi gặp phải, và ngươi thấy bản thân mình đang ở trong môi trường nào đi nữa, thì ngươi cũng phải cầu nguyện với Đức Chúa Trời và tìm kiếm lẽ thật để đối mặt với những điều đó. Đây chính là những bài học mà ngươi nên học khi mưu cầu lẽ thật. Nếu ngươi luôn tìm cách viện cớ để lảng tránh, từ chối hoặc chống đối những hoàn cảnh này, thì Đức Chúa Trời sẽ từ bỏ ngươi. Có lý sự, hay cứng đầu cứng cổ hoặc khó chịu thì cũng là vô ích – nếu Đức Chúa Trời không bận tâm đến ngươi thì ngươi sẽ mất cơ hội được cứu rỗi. Đối với Đức Chúa Trời, không có vấn đề nào là không thể giải quyết được; Ngài đã có những sự sắp xếp cho mỗi một người và có cách xử lý chúng. Đức Chúa Trời sẽ không thảo luận với ngươi xem những lý do và cái cớ của ngươi có chính đáng hay không. Đức Chúa Trời sẽ không nghe xem liệu những lập luận ngươi đưa ra để bào chữa cho mình có hợp lý hay không. Ngài sẽ chỉ hỏi ngươi là: “Lời Đức Chúa Trời có phải là lẽ thật không? Ngươi có tâm tính bại hoại không? Ngươi có nên mưu cầu lẽ thật không?” Ngươi chỉ cần rõ ràng về một sự thật: Đức Chúa Trời là lẽ thật, ngươi là nhân loại bại hoại, vì vậy ngươi nên chủ động tìm kiếm lẽ thật. Không có vấn đề hay khó khăn nào, không có lý do hay cái cớ nào đứng vững được – nếu ngươi không tiếp nhận lẽ thật, ngươi sẽ bị diệt vong. Bất kỳ cái giá nào một người phải trả để mưu cầu lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật đều là xứng đáng. Mọi người phải buông bỏ mọi lời lời bào chữa, những lời biện minh và những rắc rối của mình để tiếp nhận lẽ thật và đạt được sự sống, bởi vì lời Đức Chúa Trời và lẽ thật là sự sống họ nên đạt được, và đó là sự sống mà không gì có thể đánh đổi được. Nếu ngươi bỏ lỡ cơ hội này, ngươi sẽ không chỉ hối tiếc cả phần đời còn lại của mình – đây không đơn thuần là vấn đề hối tiếc – mà ngươi đã hủy hoại hoàn toàn bản thân mình. Sẽ không còn kết cục hay đích đến cho ngươi, và ngươi, một loài thọ tạo, đã đi đến đường cùng. Ngươi sẽ không bao giờ lại có cơ hội được cứu rỗi nữa. Ngươi có hiểu không? (Thưa, chúng con hiểu.) Đừng tìm cớ hay lý do để không mưu cầu lẽ thật. Chúng chẳng ích gì; ngươi chỉ đang tự lừa dối bản thân mình mà thôi.

Một số lãnh đạo không bao giờ làm việc theo các nguyên tắc, họ làm theo ý mình, độc đoán và hấp tấp. Các anh chị em có thể chỉ ra điều này, và nói rằng: “Anh hiếm khi tham khảo ý kiến ai trước khi hành động. Chúng tôi không biết những phán đoán và quyết định của anh là gì cho đến khi anh đưa ra. Tại sao anh không thảo luận với ai? Tại sao anh không cho chúng tôi biết trước khi đưa ra một quyết định? Ngay cả khi điều anh đang làm là đúng, và tố chất của anh cao hơn của chúng tôi, thì anh vẫn nên thông báo cho chúng tôi về điều đó trước chứ. Chí ít chúng tôi có quyền biết chuyện gì đang xảy ra. Luôn hành động theo ý mình là anh đang bước đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ đấy!”. Và ngươi sẽ nghe thấy người lãnh đạo ấy nói gì? “Ở nhà tôi là chủ gia đình. Mọi vấn đề lớn nhỏ đều do tôi quyết. Tôi quen thế rồi. Hễ ai trong đại gia đình của tôi có vấn đề, họ đều đến gặp tôi và nhờ tôi quyết xem phải làm gì. Họ biết tôi giỏi giải quyết vấn đề. Đó là lý do tại sao tôi luôn phụ trách công chuyện trong nhà. Khi tham gia hội thánh, tôi tưởng mình không phải lo mọi việc nữa, nhưng rồi tôi lại được chọn làm lãnh đạo. Tôi không thể cưỡng lại – số tôi sinh ra đã vậy. Đức Chúa Trời đã ban cho tôi kỹ năng này. Tôi sinh ra để đưa ra quyết định và chỉ đạo người khác”. Ngụ ý ở đây là họ sinh ra để làm quan chức, và người khác sinh ra để làm một con tốt, làm nông nô. Họ nghĩ họ nên có tiếng nói quyết định, và người khác phải nghe theo họ. Ngay cả khi các anh chị em nhìn thấy vấn đề của người lãnh đạo này và chỉ ra cho họ, họ cũng không tiếp nhận, cũng không chấp nhận bị xử lý, tỉa sửa. Họ sẽ đấu tranh và chống đối cho đến khi các anh chị em kêu gọi đòi loại bỏ họ. Trong khi đó, người lãnh đạo vẫn luôn suy nghĩ rằng: “Tố chất như tôi sinh ra là để đi đâu cũng phụ trách. Còn tố chất như các người thì luôn luôn là nông lệ và người hầu thôi. Số phận các người là bị người khác sai khiến rồi”. Họ đang phơi bày loại tâm tính gì khi thường xuyên nói những điều như vậy? Rõ ràng đó là tâm tính bại hoại, đó là sự ngạo mạn, tự phụ và cực kỳ ích kỷ, ấy thế mà họ lại trơ trẽn khoe khoang điều đó và phô trương như thể đó là ưu điểm, thế mạnh. Khi một người bộc lộ tâm tính bại hoại thì họ nên phản tỉnh về bản thân, nhận biết tâm tính bại hoại của mình, ăn năn và từ bỏ nó, và họ nên mưu cầu lẽ thật cho đến khi có thể hành động theo nguyên tắc. Thế nhưng đó không phải là cách vị lãnh đạo này thực hành. Thay vào đó, họ vẫn không chịu sửa đổi, khăng khăng với các quan điểm và phương pháp của mình. Từ những hành vi này, ngươi có thể thấy họ hoàn toàn không chấp nhận lẽ thật và tuyệt đối không phải là người mưu cầu lẽ thật. Họ không lắng nghe bất cứ ai vạch trần và xử lý họ, mà cứ đầy những lời biện minh cho bản thân: “Hừm – tôi là vậy đó! Đó mới gọi là có năng lực và tài năng – có ai trong số các người có những thứ đó không? Tôi sinh ra là để phụ trách. Đi đâu tôi cũng làm lãnh đạo. Tôi đã quen với việc có tiếng nói cuối cùng và đưa ra quyết định về mọi việc mà không cần tham khảo ý kiến người khác. Tôi là thế, đó là sức hút cá nhân của tôi”. Chẳng phải đây là sự vô liêm sỉ quá quắt sao? Họ không thừa nhận mình có tâm tính bại hoại, và rõ ràng là họ không thừa nhận những lời Đức Chúa Trời phán xét và vạch trần con người. Ngược lại, họ coi những dị giáo và ngụy biện của họ là lẽ thật, và cố khiến mọi người khác chấp nhận và tôn sùng họ. Trong thâm tâm, họ tin rằng họ nên cai trị trong nhà Đức Chúa Trời, chứ không phải là lẽ thật, rằng họ nên chỉ huy ở đó. Chẳng phải đây là vô liêm sỉ trơ tráo sao? Họ nói họ muốn mưu cầu lẽ thật, nhưng hành vi của họ hoàn toàn ngược lại. Họ nói họ vâng lời Đức Chúa Trời và lẽ thật, nhưng lại luôn muốn nắm quyền, muốn có tiếng nói cuối cùng và muốn tất cả các anh chị em phải quy phục, vâng lời họ. Họ sẽ không cho phép người khác giám sát hoặc góp ý cho họ, bất kể những điều họ đang làm có thích đáng hay phù hợp với nguyên tắc hay không. Thay vào đó, họ tin rằng tất cả những người khác đều phải nghe theo và tuân theo lời nói, quyết định của họ. Họ hoàn toàn không phản tỉnh về hành động của mình. Dù các anh chị em có khuyên bảo và giúp đỡ họ như thế nào, và dù nhà Đức Chúa Trời có tỉa sửa, xử lý họ ra sao, hay thậm chí nếu họ có bị sa thải nhiều lần, thì họ cũng không phản tỉnh về vấn đề của mình. Trong mọi trường hợp, họ đều bám lấy câu: “Trong nhà tôi, tôi là chủ. Tôi đưa ra tất cả các quyết định. Trong mọi vấn đề, chỉ mình tôi có tiếng nói cuối cùng. Tôi đã quen như thế, không thể khác được”. Họ thực sự quá quắt và hết thuốc chữa! Họ truyền bá những thực hành tiêu cực này như thể chúng là những điều tích cực, trong khi luôn vô cùng đề cao bản thân. Họ thật vô liêm sỉ! Những người này hoàn toàn không chấp nhận lẽ thật và họ không thể sửa được – vì vậy ngươi có thể chắc chắn rằng họ không yêu mến hay mưu cầu lẽ thật. Trong thâm tâm, họ chán ghét và thù địch lẽ thật. Cái giá họ trả cùng những gian khổ họ trải qua để thỏa mãn ham muốn và đạt được địa vị đều vô ích. Đức Chúa Trời không tán thành bất kỳ điều gì trong đó, Ngài ghê tởm chúng. Đó là biểu hiện của việc họ chống đối lẽ thật và chống đối Đức Chúa Trời. Người ta có thể hoàn toàn chắc chắn về điều này, và tất cả những ai hiểu lẽ thật đều có thể phân định được.

Cũng có một số người đã tin Đức Chúa Trời trong nhiều năm, nhưng không sở hữu bất kỳ thực tế lẽ thật nào; họ đã nghe giảng nhiều năm, nhưng không hiểu được lẽ thật. Dù tố chất kém cỏi, nhưng “tài năng” của họ vô song: nói dối và che đậy, phỉnh gạt và lừa bịp người khác bằng những lời hoa mỹ. Nếu họ nói một tá câu, sẽ có cả tá ô tạp bên trong đó – mỗi câu đều chứa sự ô uế ở mức độ nào đó. Nói một cách chính xác, không điều gì họ nói là đúng. Nhưng vì họ có tố chất kém cỏi và tỏ ra khá đàng hoàng, nên họ nghĩ: “Bản tính mình là người nhút nhát, thật thà, tố chất thì kém cỏi. Đi đâu cũng bị bắt nạt, và khi người ta bắt nạt, mình chỉ biết cam chịu và đau khổ. Mình không dám nói lại hay chống trả – mình chỉ có thể lẩn trốn, nhượng bộ và chịu đựng. Mình là ‘người trung thực nhưng ngu dốt’ mà lời Đức Chúa Trời nói đến, mình là một trong những dân sự của Ngài”. Nếu có người hỏi họ: “Thế sao anh lại nói dối?”. Họ sẽ nói: “Tôi nói dối hồi nào? Tôi lừa bịp ai? Tôi không nói dối! Người thật thà như tôi nói dối sao được? Đầu óc tôi phản ứng chậm và tôi không có học thức cao lắm – tôi không biết nói dối! Những kẻ dối trá ngoài kia, trong chớp mắt đã có thể nảy ra vài ý tưởng và âm mưu thâm độc. Tôi đâu có quỷ quyệt như thế, tôi luôn bị bắt nạt. Thế nên tôi là người trung thực mà Đức Chúa Trời nói tới, các người không có căn cứ gì gọi tôi là kẻ nói dối hay kẻ lừa bịp cả. Đơn giản là sai – các người chỉ đang cố bôi nhọ tôi thôi. Tôi biết tất cả các người đều coi thường tôi: các người nghĩ tôi ngu, nghĩ tố chất tôi kém cỏi nên tất cả các người muốn bắt nạt tôi. Đức Chúa Trời là Đấng duy nhất không bắt nạt tôi, Ngài đối xử tử tế với tôi”. Loại người này thậm chí sẽ không thừa nhận mình nói dối, và còn cả gan nói rằng họ là người trung thực Đức Chúa Trời nói đến, và với tuyên bố đó, họ trực tiếp nâng mình lên ngai vàng. Họ tin rằng bản tính họ là người trung thực nhưng ngu dốt và được Đức Chúa Trời yêu thương. Họ nghĩ rằng họ không cần phải mưu cầu lẽ thật hay phản tỉnh bản thân. Họ nghĩ rằng từ lúc họ sinh ra, không thể tìm thấy lời nói dối nào trong miệng họ. Bất kể ai nói gì, họ cũng không thừa nhận mình nói dối, mà thay vào đó cứ viện tới viện lui những lý do cũ rích để tranh cãi và tự bào chữa. Họ đã phản tỉnh bản thân mình chưa? Theo một nghĩa nào đó thì có. Họ nhận thức được gì trong lần “phản tỉnh” đó? “Mình là người trung thực nhưng ngu dốt mà Đức Chúa Trời nói đến. Mình có thể hơi ngu, nhưng mình là người trung thực”. Chẳng phải họ đang tự tôn mình lên giành được một chiến công rực rỡ sao? Họ không rõ mình là loại nào, kẻ ngu dốt hay người trung thực, nhưng họ tự cho mình là người trung thực. Họ có nhận thức về bản thân không? Nếu một người là một kẻ ngốc bị bắt nạt và sống đời hèn nhát, điều đó có nhất thiết nghĩa là họ là người lành không? Và nếu một người được người khác coi là người lành, điều đó có nghĩa là họ không cần phải mưu cầu lẽ thật không? Có phải những người như vậy bỗng dưng cứ tự nhiên sở hữu lẽ thật không? Một số người nói: “Tôi là một người khá thật thà, tôi luôn cố gắng nói sự thật, tôi chỉ hơi ngu một tí. Tôi không cần mưu cầu lẽ thật, tôi đã là một người lành và trung thực rồi”. Nói thế chẳng phải ý họ là họ sở hữu lẽ thật và không có tâm tính bại hoại sao? Toàn thể nhân loại đều đã bị Sa-tan làm bại hoại sâu sắc. Tất cả mọi người đều có tâm tính bại hoại, và khi người ta có tâm tính bại hoại, họ có thể nói dối, gian lận và lừa gạt bất cứ khi nào họ muốn. Họ thậm chí còn có thể phô trương một số thành tích hay đóng góp nhỏ nhặt của mình, bộc lộ một tâm tính kiêu ngạo. Trong khi đó, họ có đầy rẫy những quan niệm về Đức Chúa Trời và những đòi hỏi quá đáng đối với Ngài, còn cố cãi lý với Ngài. Đây không phải là vấn đề sao? Đây chẳng phải là một tâm tính bại hoại sao? Điều này không cần phải xem xét sao? Có cần. Ấy thế nhưng những người này đã tự phong mình là người trung thực, không bao giờ nói dối hay lừa gạt người khác; họ tuyên bố mình không có tâm tính giả dối, nên không cần mưu cầu lẽ thật. Vì vậy, không ai hành xử theo cách này lại đang mưu cầu lẽ thật cả, và không ai trong số họ đã bước được vào thực tế lẽ thật cả. Khi cầu nguyện với Đức Chúa Trời, họ thường khóc lóc cay đắng về sự ngu ngốc của mình, về việc họ luôn bị bắt nạt, về tố chất đặc biệt kém cỏi của mình: “Lạy Đức Chúa Trời, chỉ có Ngài là yêu con; chỉ có Ngài thương xót con và đối xử tử tế với con. Tất cả mọi người đều bắt nạt con, và nói con là kẻ nói dối – nhưng con không phải vậy!”. Sau đó, họ lau nước mắt đứng dậy, và khi thấy những người khác, họ nghĩ bụng: “Không ai trong số các người được Đức Chúa Trời yêu thương. Chỉ có mình tôi thôi”. Những người này tự đề cao bản thân, và không chấp nhận việc họ thể hiện bất kỳ hành vi hay sự bộc phát nào của tâm tính bại hoại mà Đức Chúa Trời đã phán. Ngay cả khi một vấn đề cụ thể xảy đến với họ và tạo ra trạng thái hoặc sự bộc phát bại hoại bên trong họ, họ chỉ thừa nhận điều đó ngoài miệng sau một lúc nghĩ ngợi, rồi vấn đề coi như xong. Họ hoàn toàn không tìm kiếm lẽ thật, và họ không chấp nhận sự thật rằng họ có sự bại hoại và là một con người bại hoại. Tất nhiên, họ càng không thừa nhận đã bộc lộ tâm tính bại hoại trong bất kỳ trường hợp cụ thể nào. Cho dù họ có làm nảy sinh bao nhiêu vấn đề, và cho dù họ bộc lộ bao nhiêu tâm tính bại hoại, thì cuối cùng họ vẫn luôn nói cùng một điều: “Tôi là người trung thực nhưng ngu dốt Đức Chúa Trời nói đến. Tôi là đối tượng được Ngài thương hại, và Ngài sẽ ban phước cho tôi rất nhiều”. Và vì vậy, với những lời này, họ cảm thấy mình không cần phải mưu cầu lẽ thật; những lời này là cái cớ người như thế đưa ra để không mưu cầu lẽ thật. Những người như vậy không lố bịch sao? (Thưa, họ lố bịch.) Họ lố bịch và ngu dốt. Họ lố bịch đến mức nào? Đến mức họ chộp lấy một đoạn lời Đức Chúa Trời có lợi cho họ và dùng nó như một con dấu để ép buộc Đức Chúa Trời và tha tội cho bản thân vì đã không mưu cầu lẽ thật, trong khi coi những lời Đức Chúa Trời vạch trần và phán xét con người là không liên quan gì đến họ. Họ cảm thấy họ không cần phải lắng nghe chúng vì họ đã là một người trung thực. Nói một cách chính xác, những người như vậy là kẻ khốn nạn đáng thương. Họ có tố chất kém cỏi, không có ý thức và hầu như không biết xấu hổ, nhưng vẫn mong có được phước lành. Và mặc dù họ có tố chất kém cỏi, không có ý thức hay biết xấu hổ, nhưng lại rất kiêu ngạo, và họ coi thường những người bình thường. Họ không tôn trọng những người có tố chất tốt có thể mưu cầu lẽ thật cũng như có thể thông công về thực tế lẽ thật. Họ nghĩ: “Dù gì thì những điểm mạnh của mấy người có ích lợi gì chứ? Tất cả những việc như mưu cầu lẽ thật và biết mình của các người – tôi không cần làm mấy cái đó. Tôi là người trung thực: tôi có thể hơi ngu, nhưng nó không thực sự thành vấn đề. Và những tâm tính bại hoại tôi bộc lộ cũng không có gì phải lo cả. Miễn là tôi trang bị cho mình một số hành vi tốt, tôi sẽ ổn thôi”. Họ đòi hỏi gì ở bản thân mình? “Dù sao đi nữa Đức Chúa Trời cũng biết lòng mình và đức tin của mình nơi Ngài là chân thật. Thế là đủ rồi. Nói ngày này qua ngày khác về chứng ngôn kinh nghiệm và hiểu biết về lời Đức Chúa Trời – nói tất cả những chuyện này ích lợi gì chứ? Xét cho cùng, chỉ cần chân thành tin vào Đức Chúa Trời là đủ”. Thế không phải là ngu ngốc sao? Trước hết, những người này không hề quan tâm đến lẽ thật; thứ hai, công bằng mà nói, họ không có khả năng lĩnh hội lẽ thật hay lời Đức Chúa Trời. Thế mà họ vẫn tự đề cao mình và hành động rất ngạo mạn. Họ tìm kiếm lời biện minh cho lý do tại sao họ không mưu cầu lẽ thật, hoặc một phương pháp mưu cầu hoặc điều gì đó họ cho là ưu điểm để thay thế việc mưu cầu lẽ thật. Đây chẳng phải là ngu xuẩn sao? (Thưa, phải.)

Những người không mưu cầu lẽ thật, có một số người không có vấn đề gì lớn về mặt nhân tính. Họ tuân thủ các quy tắc và cư xử đúng mực. Phụ nữ như vậy thì hiền lành và đức hạnh, đàng hoàng, đoan trang, và không lừa dối. Họ là con gái ngoan trước cha mẹ, là người vợ người mẹ tốt trong gia đình, dành thời gian chu toàn việc nhà. Đàn ông như vậy thì thật thà, hiếu hạnh và cư xử đúng mực; họ là con trai hiếu thảo, họ không rượu chè, hút thuốc, và không trộm cắp, không cờ bạc hay gái gú – họ là người chồng mẫu mực, và ở bên ngoài, họ ít khi cãi cọ hay tranh chấp ai đúng ai sai với người khác. Một số người nghĩ rằng chỉ cần là một người tin vào Đức Chúa Trời là đủ để đạt được những điều này, và những người làm được như vậy là những người đủ tiêu chuẩn, những người lành chấp nhận được. Họ tin rằng nếu họ nhân đức và hay giúp đỡ, khiêm nhường, kiên nhẫn và khoan dung sau khi bắt đầu tin Đức Chúa Trời, và nếu họ chăm chỉ làm tốt bất cứ công việc gì hội thánh sắp xếp, không cẩu thả hay chiếu lệ, thì họ đã đạt được thực tế lẽ thật và gần đáp ứng được các yêu cầu của Đức Chúa Trời. Họ nghĩ rằng nếu họ bắt đầu làm việc nghiêm túc và nỗ lực hơn một chút, nếu họ đọc thêm lời Đức Chúa Trời, nếu họ nhớ nhiều đoạn trong đó hơn và rao giảng nhiều hơn cho người khác, thì họ sẽ đang mưu cầu lẽ thật. Nhưng họ không nhận ra những bộc phát sự bại hoại của mình, họ không biết mình có những tâm tính bại hoại gì, và họ càng không biết một tâm tính bại hoại phát sinh như thế nào, hay nên nhận biết và giải quyết nó như thế nào. Họ không biết gì về những điều này. Có những người như thế này không? (Thưa, có.) Họ xem “tính thiện” bẩm sinh của mình là tiêu chuẩn mà những người mưu cầu lẽ thật phải đạt được. Nếu có người gọi họ là ngạo mạn, giả dối và tà ác, họ sẽ không tranh cãi công khai, mà thể hiện thái độ khiêm nhường, kiên nhẫn và tiếp thu. Nhưng trong thâm tâm, thay vì nhìn nhận nghiêm túc chuyện đó, họ lại chống đối: “Mình mà ngạo mạn sao? Mình mà ngạo mạn thì trên đời này làm gì còn ai tốt! Mình mà giả dối thì trên đời này làm gì còn ai trung thực! Mình mà tà ác thì trên đời này làm gì còn ai tử tế nữa! Thời buổi này kiếm được người lành như mình có dễ không? Không – không có đâu!”. Gọi họ là giả dối hay ngạo mạn, hoặc nói rằng họ không yêu lẽ thật cũng không được, và chắc chắn gọi họ là kẻ chẳng tin cũng không được. Họ sẽ liền đập tay xuống bàn và cãi: “Vậy mấy người nói tôi là kẻ chẳng tin phải không? Nếu tôi không thể được cứu rỗi, thì không ai trong số mấy người được cả!”. Ai đó có thể vạch trần họ, nói rằng: “Anh không chấp nhận lẽ thật. Khi mọi người chỉ ra các vấn đề của anh, anh tỏ ra khá khiêm nhường và kiên nhẫn, nhưng trong thâm tâm, anh lại rất chống đối. Những điều anh rao giảng khi thông công về lẽ thật thì đúng, nhưng sự thật vẫn là anh không chấp nhận một lời nào của Đức Chúa Trời vạch trần và phán xét thực chất tâm tính bại hoại của con người cả. Anh chống đối và có ác cảm với chúng. Anh có tâm tính xấu xa”. Nếu ngươi gọi họ là “xấu xa”, đơn giản là họ không thể chấp nhận được điều đó. “Tôi xấu xa sao? Nếu tôi xấu xa, tôi đã chà đạp tất cả các người dưới chân từ lâu rồi! Nếu tôi xấu xa, tôi đã tiêu diệt tất cả các người rồi!”. Họ không thể hiểu chính xác bất cứ điều gì ngươi vạch trần về họ hoặc thông công với họ. Hiểu chính xác mọi chuyện nghĩa là gì? Có nghĩa là bất kể người khác phơi bày vấn đề gì nơi ngươi thì ngươi đều đối chiếu với lời Đức Chúa Trời để xem liệu thực sự có bất kỳ sai lầm nào trong ý định và suy nghĩ của ngươi không, và cho dù có bao nhiêu vấn đề bộc lộ trong ngươi, ngươi đều tiếp cận chúng với thái độ chấp nhận và quy phục. Đó là cách người ta có thể thực sự có được hiểu biết về các vấn đề của mình. Người ta không thể có được hiểu biết về tâm tính bại hoại của họ dựa theo quan niệm và trí tưởng tượng của họ, mà phải được thực hiện dựa trên cơ sở lời Đức Chúa Trời. Vậy điều kiện tiên quyết để tự biết mình là gì? Ngươi phải thừa nhận sự thật rằng Sa-tan đã lừa dối và làm bại hoại nhân loại, rằng tất cả mọi người đều có tâm tính bại hoại. Chỉ bằng cách chấp nhận sự thật này, ngươi mới có thể phản tỉnh bản thân mình dựa theo sự mặc khải của lời Đức Chúa Trời, và trong quá trình phản tỉnh này, dần dần tìm ra được các vấn đề của mình. Tự lúc nào không hay, các vấn đề của ngươi sẽ dần dần lộ ra từng chút một, và sau đó ngươi sẽ hiểu rõ ràng tâm tính bại hoại của mình là gì. Và trên cơ sở này, ngươi có thể biết được ngươi là loại người gì và thực chất của ngươi là gì. Nhờ đó, ngươi sẽ chấp nhận được tất cả những gì Đức Chúa Trời phán và mặc khải, rồi tiếp tục tìm thấy trong lời Đức Chúa Trời con đường thực hành Ngài đã vạch ra cho con người, và thực hành cũng như sống theo lời Ngài. Mưu cầu lẽ thật nghĩa là như vậy. Nhưng đó có phải là cách loại người này tiếp nhận lời Đức Chúa Trời không? Không – họ có thể tuyên bố thừa nhận rằng lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, rằng những lời Ngài vạch trần nhân loại bại hoại đều là sự thật, nhưng nếu ngươi yêu cầu họ nhận biết tâm tính bại hoại của chính họ, họ sẽ không chấp nhận hay thừa nhận điều đó. Họ tin rằng điều đó không liên quan gì đến họ. Đó là bởi vì họ nghĩ bản thân họ là người đàng hoàng, tử tế – người ngay thẳng, trọng danh dự. Là một người ngay thẳng có nghĩa là họ sở hữu lẽ thật sao? Là một người ngay thẳng chỉ đơn thuần là một biểu hiện tích cực của nhân tính người đó; nó không đại diện cho lẽ thật. Vì vậy, chỉ vì ngươi có một đặc điểm của nhân tính bình thường không có nghĩa là ngươi không cần phải mưu cầu lẽ thật, cũng không có nghĩa là ngươi đã đạt được lẽ thật rồi – và càng không có nghĩa ngươi là người được Đức Chúa Trời yêu thương. Chẳng phải thế sao? (Thưa, phải.) Những người gọi là “người trọng danh dự” này tin rằng họ không có tâm tính ngạo mạn, giả dối, hay tâm tính chán ghét lẽ thật, và rằng họ chắc chắn không có tâm tính xấu xa, tà ác. Họ tưởng rằng không có tâm tính bại hoại nào trong số đó tồn tại bên trong họ, bởi vì họ là người trọng danh dự, có bản tính ngay thẳng và tốt bụng, họ luôn bị người khác bắt nạt, và dù có tố chất kém cỏi và ngu dốt nhưng họ lại trung thực. “Sự trung thực” này không phải là trung thực thực sự, mà là sự thật thà, nhút nhát và ngu dốt. Chẳng phải những người như vậy là đại ngốc sao? Mọi người đều xem họ là người lành. Quan điểm này có đúng không? Những người được mọi người cho là lành có tâm tính bại hoại không? Câu trả lời là “có” – đây là điều chắc chắn. Những người thật thà không nói dối sao? Họ không lừa dối người khác hay trá hình sao? Họ không ích kỷ sao? Họ không tham lam sao? Họ không ham muốn chức vụ cao sao? Họ không còn ham muốn ngông cuồng nào sao? Chắc chắn là không. Lý do duy nhất họ không hành ác là vì họ thiếu cơ hội thích hợp. Và họ tự hào về điều này – họ tự tôn mình là người trọng danh dự và tưởng rằng mình không có tâm tính bại hoại. Vì vậy, nếu ai đó chỉ ra một loại tâm tính bại hoại, sự bộc phát hoặc tình trạng nào đó bên trong họ, họ sẽ bác bỏ bằng cách nói: “Tôi không như thế! Đó không phải là con người của tôi, và đó không phải là cách tôi hành động hay suy nghĩ. Mấy người hiểu lầm tôi rồi. Mấy người đều thấy tôi thật thà, tôi ngu ngốc, tôi nhút nhát, vì vậy mấy người bắt nạt tôi”. Những người sẽ cắn trả như thế này thì sao? Nếu ai dám chọc tức người như vậy, người ta sẽ bị họ săn đuổi mãi mãi. Người ta sẽ nghe họ lải nhải mãi không thôi; cố đến mấy cũng không thể thoát khỏi họ. Những kẻ vô lý, không ngừng gây phiền toái này vẫn nghĩ mình là người theo đuổi lẽ thật, mình là người thật thà, ngu dốt, không có tâm tính bại hoại. Thậm chí, họ còn hay nói: “Tôi có thể ngu dốt, nhưng tôi thật thà – tôi là người trung thực, và Đức Chúa Trời yêu thương tôi!”. Đối với họ, đây là những thứ làm vốn liếng. Đó chẳng phải là không biết xấu hổ một chút nào sao? Ngươi nói rằng Đức Chúa Trời yêu thương ngươi. Có đúng không? Ngươi có cơ sở để nói như vậy không? Ngươi có công tác của Đức Thánh Linh không? Đức Chúa Trời có nói rằng Ngài sẽ hoàn thiện ngươi không? Đức Chúa Trời có định sử dụng ngươi không? Nếu Đức Chúa Trời chưa nói những điều này với ngươi, thì ngươi không thể nói rằng Ngài yêu thương ngươi được – ngươi chỉ có thể nói rằng Ngài thương hại ngươi, đó đã là tốt lắm rồi. Nếu ngươi nói rằng Đức Chúa Trời yêu thương ngươi, thì đó chỉ là hiểu biết cá nhân của ngươi thôi; nó không chứng tỏ Đức Chúa Trời thực sự yêu thương ngươi. Đức Chúa Trời có yêu thương một người không mưu cầu lẽ thật không? Đức Chúa Trời có yêu thương một người ngu dốt, nhút nhát không? Đức Chúa Trời thương xót những kẻ ngu ngốc và nhút nhát – chừng đó mới đúng. Đức Chúa Trời yêu thương những người thực sự trung thực, những người mưu cầu lẽ thật, những người có thể thực hành lẽ thật và quy phục Ngài, những người có thể tôn vinh Ngài và làm chứng cho Ngài, những người có thể quan tâm đến ý muốn của Ngài và yêu mến Ngài chân thành. Chỉ những ai có thể thực sự dâng mình cho Đức Chúa Trời và trung thành thực hiện bổn phận của mình mới có được tình yêu thương của Đức Chúa Trời; chỉ những ai có thể chấp nhận lẽ thật, cũng như việc bị tỉa sửa và xử lý mới có được tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Những ai không chấp nhận lẽ thật, không chấp nhận bị tỉa sửa, xử lý, là những người Đức Chúa Trời khinh ghét và loại bỏ. Nếu ngươi chán ghét lẽ thật và chống đối tất cả những lời Đức Chúa Trời phán, thì Đức Chúa Trời sẽ chán ghét ngươi và từ bỏ ngươi. Nếu ngươi luôn nghĩ mình là người lành, là người đáng thương, đơn giản và thật thà, nhưng không mưu cầu lẽ thật, thì liệu Đức Chúa Trời có yêu thương ngươi không? Không thể nào; không có cơ sở nào trong lời Ngài cho điều đó. Đức Chúa Trời không nhìn vào việc liệu ngươi có thật thà hay không, Ngài cũng không quan tâm ngươi sinh ra có kiểu nhân tính hay tố chất nào – Ngài xem liệu sau khi nghe lời Ngài, ngươi tiếp nhận hay phớt lờ, ngươi quy phục hay chống đối chúng. Ngài xem liệu lời Ngài có ảnh hưởng đến ngươi và đơm hoa kết trái trong ngươi hay không, xem ngươi có thể làm chứng chân thực cho nhiều lời Ngài đã phán hay không. Nếu cuối cùng trải nghiệm của ngươi rút ra là: “Tôi thật thà, tôi nhút nhát, ai gặp tôi cũng bắt nạt tôi. Ai cũng coi thường tôi”, thì Đức Chúa Trời sẽ nói rằng đây không phải là lời chứng. Nếu ngươi nói thêm rằng: “Tôi là người trung thực nhưng ngu dốt mà Đức Chúa Trời nói đến”, Đức Chúa Trời sẽ nói rằng ngươi đầy dối trá và không thể tìm thấy một lời chân thật nào từ miệng ngươi. Nếu khi Đức Chúa Trời có những yêu cầu nơi ngươi, ngươi không những không hề vâng phục mà còn cố lý luận với Đức Chúa Trời và bào chữa cho bản thân, nói rằng: “Con đã chịu khổ, trả giá, và con yêu Đức Chúa Trời”, thì điều đó không có giá trị. Ngươi có mưu cầu lẽ thật không? Chứng ngôn kinh nghiệm thực sự của ngươi ở đâu? Tình yêu ngươi dành cho Đức Chúa Trời thể hiện như thế nào? Sẽ không ai bị thuyết phục nếu ngươi không thể đưa ra bằng chứng. Ngươi nói: “Con là một người trọng danh dự và con cư xử đứng đắn. Con không dính vào hành vi gian dâm và con tuân thủ tất cả các quy tắc trong hành động của mình. Con là người cư xử đàng hoàng. Con không nhậu nhẹt, gái gú hay cờ bạc. Con không làm gián đoạn hay nhiễu loạn nhà Đức Chúa Trời hay gieo rắc bất hòa, con chịu khổ và làm việc chăm chỉ. Đây chẳng phải là những dấu hiệu cho thấy con mưu cầu lẽ thật sao? Con đang mưu cầu lẽ thật rồi.” Và Đức Chúa Trời sẽ phán: Ngươi đã giải quyết tâm tính bại hoại của mình chưa? Chứng ngôn của ngươi về việc ngươi mưu cầu lẽ thật ở đâu? Ngươi có thể nhận được sự tán thành và ngưỡng mộ của dân sự được Đức Chúa Trời chọn không? Nếu ngươi không thể đưa ra bất kỳ chứng ngôn kinh nghiệm nào, mà lại nói rằng mình là người trung thực, yêu mến Đức Chúa Trời, thì ngươi là kẻ lừa gạt người khác bằng những lời giả dối – ngươi là một tên ác quỷ Sa-tan vô lý và ngươi đáng bị rủa sả. Ngươi chỉ có thể bị Đức Chúa Trời kết tội và loại bỏ.

Một số người trong quá trình thực hiện bổn phận thường hành động tùy tiện, thiếu thận trọng. Họ cực kỳ thất thường: lúc vui thì làm một chút bổn phận, lúc không vui thì dằn dỗi nói: “Hôm nay tâm trạng tôi không tốt. Tôi sẽ không ăn uống gì cả và không thực hiện bổn phận đâu”. Thế là người khác phải dàn xếp với họ và nói: “Thế là không được. Anh không thể thất thường như vậy được”. Và những người đó sẽ đáp lại thế nào? “Tôi biết là không được nhưng tôi lớn lên trong một gia đình quyền quý, giàu có. Ông bà cô dì đều chiều chuộng tôi, cha mẹ tôi còn chiều nữa. Tôi là con cưng của cả nhà, là vật báu trong mắt họ, và họ chiều theo tôi trong mọi chuyện, cưng chiều tôi. Được nuôi dưỡng như thế khiến tôi có tính khí thất thường này, vì vậy khi thực hiện bổn phận trong nhà Đức Chúa Trời, tôi sẽ không thảo luận mọi việc với người khác, hay tìm kiếm lẽ thật, hay quy phục Đức Chúa Trời. Tôi có đáng trách vì chuyện đó không?”. Cách hiểu của họ có đúng không? Thái độ của họ có phải là thái độ mưu cầu lẽ thật không? (Thưa, không.) Bất cứ khi nào có ai nhắc đến một lỗi lầm nhỏ của họ, chẳng hạn như gắp những miếng ngon nhất trong bữa ăn, chỉ lo cho bản thân mình mà không nghĩ đến người khác, họ sẽ nói: “Tôi như vậy từ bé rồi. Tôi quen với chuyện đó rồi. Tôi chưa bao giờ nghĩ cho người khác cả. Tôi luôn sống một cuộc sống quyền quý, cha mẹ yêu thương, ông bà chiều chuộng. Tôi là vật báu của cả nhà”. Toàn những thứ vớ vẩn và ngụy biện. Đây chẳng phải là hơi vô liêm sỉ và trơ trẽn sao? Cha mẹ cưng chiều ngươi – nghĩa là người khác cũng phải như vậy sao? Người thân yêu quý và cưng chiều ngươi – điều đó cho ngươi lý do để hành động thiếu thận trọng và tùy tiện trong nhà Đức Chúa Trời sao? Đó có phải là lý do chính đáng không? Đây có phải là thái độ đúng đắn đối với tâm tính bại hoại của ngươi không? Nó có phải là thái độ mưu cầu lẽ thật không? (Thưa, không.) Khi có bất cứ điều gì xảy đến với những người này, khi họ gặp phải bất kỳ vấn đề gì liên quan đến tâm tính bại hoại của họ hoặc cuộc sống của họ, thì họ tìm kiếm những lời biện minh khách quan để giải đáp, giải thích, biện minh. Họ không bao giờ tìm kiếm lẽ thật hay cầu nguyện với Đức Chúa Trời, và họ không đến trước Đức Chúa Trời để phản tỉnh bản thân. Nếu không tự phản tỉnh, liệu người ta có thể biết được những vấn đề và sự bại hoại của mình không? (Thưa, không.) Và họ có thể ăn năn mà không biết sự bại hoại của mình không? (Thưa, không.) Nếu người ta không thể ăn năn, họ sẽ luôn sống trong tình trạng nào? Chẳng phải là tình trạng tự tha thứ cho bản thân sao? Chẳng phải tình trạng cảm thấy rằng mặc dù họ đã bộc lộ sự bại hoại nhưng họ không hành ác hay vi phạm các sắc lệnh quản trị – rằng mặc dù làm như vậy là không phù hợp với các nguyên tắc lẽ thật, nhưng đó là không cố ý và có thể tha thứ? (Thưa, phải.) Vậy đó có phải là kiểu tình trạng một người mưu cầu lẽ thật phải có không? (Thưa, không.) Nếu người ta không bao giờ thực sự ăn năn và luôn sống trong kiểu tình trạng này, liệu họ có thể quay đầu được không? Không, họ sẽ không bao giờ có thể làm được. Và nếu một người không quay đầu, họ sẽ không thể thực sự buông bỏ sự tà ác của mình. Không thể thực sự buông bỏ sự tà ác của mình nghĩa là gì? Có nghĩa là người ta không thể thực sự thực hành lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật. Đó là kết quả hiển nhiên. Nếu ngươi không thể buông bỏ sự tà ác của mình hoặc thực hành lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật, thì khi ngươi muốn khiến Đức Chúa Trời đổi ý về mình, đạt được công tác của Đức Thánh Linh, đạt được sự khai sáng và soi sáng của Đức Chúa Trời, và xin Đức Chúa Trời tha thứ cho những sự vi phạm của ngươi đồng thời giải quyết sự bại hoại của ngươi, liệu điều đó có thể được không? (Thưa, không.) Nếu điều đó là không thể, thì đức tin của ngươi nơi Đức Chúa Trời có thể mang lại sự cứu rỗi cho ngươi không? (Thưa, không.) Nếu một người sống trong tình trạng tự tha thứ và ngưỡng mộ bản thân, thì họ cách xa việc mưu cầu lẽ thật hàng vạn dặm. Những việc họ bận rộn, nghe, nhìn và chạy ngược xuôi để làm có thể phần nào liên quan đến việc tin vào Đức Chúa Trời, nhưng chúng không liên quan gì đến việc mưu cầu lẽ thật hay thực hành lẽ thật. Kết quả này là hiển nhiên. Và vì chúng không liên quan đến việc mưu cầu hay thực hành lẽ thật, nên người đó sẽ không phản tỉnh bản thân, cũng sẽ không có hiểu biết về bản thân. Họ sẽ không biết mức độ mình đã bị làm cho bại hoại, và họ sẽ không biết cách thực hành ăn năn, vì vậy họ lại càng không có khả năng đạt được sự ăn năn thực sự hay khiến Đức Chúa Trời đổi ý về họ. Nếu ngươi sống trong tình trạng như vậy và muốn Đức Chúa Trời đổi ý về ngươi, tha thứ hoặc tán thành ngươi, điều đó thực sự khó. “Tán thành” ở đây có nghĩa là gì? Nghĩa là Đức Chúa Trời thừa nhận những gì ngươi làm, tán thành và ghi nhớ chúng. Nếu ngươi không thể đạt được bất kỳ điều gì trong số này, chứng tỏ ngươi đang không mưu cầu lẽ thật trong những việc ngươi làm, trong nỗ lực của ngươi, trong những sự bộc phát và hành vi của ngươi. Ngươi nghĩ gì không quan trọng, ngay cả khi ngươi có thể thực hiện một số hành vi tốt thì những hành vi này cũng chỉ thể hiện rằng trong nhân tính của ngươi có một chút lương tâm và lý trí. Nhưng những hành vi tốt này không phải là biểu hiện của việc mưu cầu lẽ thật, bởi vì xuất phát điểm, ý định và động cơ của ngươi không phải là để mưu cầu lẽ thật. Cơ sở nào để nói như vậy? Cơ sở đó là không có suy nghĩ, hành động hay việc làm nào của ngươi là mưu cầu lẽ thật và chúng không liên quan gì đến lẽ thật. Nếu mọi việc một người làm không phải để đạt được sự tán thành và công nhận của Đức Chúa Trời, thì không điều gì họ làm sẽ có thể đạt được sự tán thành hoặc công nhận của Đức Chúa Trời, và rõ ràng những hành vi và thực hành này chỉ có thể được gọi là hành vi tốt của con người. Chúng không phải là dấu hiệu cho thấy họ đang thực hành lẽ thật, và chắc chắn không phải là dấu hiệu cho thấy họ đang mưu cầu lẽ thật. Những người đặc biệt thất thường và thường cư xử thiếu thận trọng, tùy tiện thì không chấp nhận sự phán xét và hình phạt của lời Đức Chúa Trời, cũng không chấp nhận bị tỉa sửa và xử lý. Họ cũng thường viện cớ cho việc không mưu cầu lẽ thật và cho việc không thể chấp nhận bị tỉa sửa, xử lý. Đó là tâm tính gì? Rõ ràng đó là tâm tính chán ghét lẽ thật – tâm tính của Sa-tan. Con người sở hữu bản tính và tâm tính của Sa-tan, vì vậy không còn nghi ngờ gì nữa, con người thuộc về Sa-tan. Họ là ác quỷ, con cháu của Sa-tan, và là hậu duệ của con rồng lớn sắc đỏ. Một số người có thể thừa nhận rằng họ là ma quỷ, là Sa-tan, con cháu của con rồng lớn sắc đỏ, và họ nói rất hay về việc biết bản thân mình. Nhưng khi họ tỏ lộ tâm tính bại hoại, và ai đó vạch trần họ, xử lý họ, và tỉa sửa họ, thì họ sẽ cố hết sức để biện minh cho mình và không hề chấp nhận lẽ thật một chút nào. Vấn đề ở đây là gì? Trong việc này, những người này bị vạch trần hoàn toàn. Họ nói rất hay khi họ nói về việc biết bản thân mình, vậy tại sao khi đối mặt với việc bị tỉa sửa và bị xử lý, họ lại không thể chấp nhận lẽ thật? Có một vấn đề ở đây. Chẳng phải loại vấn đề này quá phổ biến sao? Có dễ nhận biết không? Có, thực tế là vậy. Có khá nhiều người thừa nhận họ là ma quỷ và là Sa-tan khi nói về sự tự biết mình, nhưng sau đó lại không ăn năn hay thay đổi. Vậy, sự tự biết mình mà họ nói là thật hay giả? Họ có hiểu biết chân thật về bản thân không, hay đó chỉ là một mưu mẹo nhằm lừa người khác? Câu trả lời đã quá rõ. Do đó, để biết liệu một người có hiểu biết chân thật về bản thân hay không, ngươi không nên chỉ nghe họ nói về điều đó – ngươi nên nhìn vào thái độ của họ về việc bị tỉa sửa và bị xử lý và liệu họ có thể chấp nhận lẽ thật hay không. Đó là điều quan trọng nhất. Bất cứ ai không chấp nhận việc bị xử lý và tỉa sửa đều có bản chất không chấp nhận lẽ thật, bản chất từ chối chấp nhận nó và tâm tính của họ chán ghét lẽ thật. Điều này là không còn nghi ngờ gì nữa. Một số người dù đã tỏ lộ bao nhiêu sự bại hoại cũng không cho phép người khác xử lý họ – không ai có thể tỉa sửa họ hoặc xử lý họ. Họ có thể nói về sự tự biết mình của chính họ tùy thích, nhưng nếu người khác vạch trần họ, chỉ trích họ hoặc xử lý họ, dù khách quan hay phù hợp với thực tế thế nào đi nữa thì họ cũng không chấp nhận điều đó. Bất kể kiểu bộc phát tâm tính bại hoại mà người khác vạch trần nơi họ là gì thì họ cũng cực kỳ chống đối và khăng khăng đưa ra những lời biện minh nghe có vẻ hợp lý cho bản thân mà không hề có chút thực sự quy phục. Nếu một người như vậy không mưu cầu lẽ thật thì sẽ gặp rắc rối. Trong hội thánh, không ai được động đến họ và không ai được chê trách họ. Nói tốt về họ thì họ vui; chỉ ra điều gì chưa tốt ở họ thì họ nổi giận. Nếu ai đó vạch trần họ, nói: “Anh là người lành nhưng anh rất thất thường. Anh luôn hành động tùy tiện và thiếu thận trọng. Anh cần phải chấp nhận bị tỉa sửa và xử lý. Chẳng phải sẽ tốt hơn nếu anh bỏ được những khiếm khuyết và tâm tính bại hoại này sao?”, đáp lại, họ sẽ nói: “Tôi không làm gì xấu cả. Tôi không phạm tội. Tại sao anh lại xử lý tôi? Từ bé tôi đã được cả cha mẹ và ông bà cưng chiều ở nhà. Tôi là con cưng của họ, báu vật trong mắt họ. Giờ ở đây, trong nhà Đức Chúa Trời, không ai quý mến tôi cả – sống ở đây chẳng vui vẻ gì! Mấy người luôn bắt lỗi tôi, hết lỗi này đến lỗi khác, lại còn cố xử lý tôi. Làm sao tôi có thể sống như thế được chứ?”. Vấn đề ở đây là gì? Người sáng suốt có thể nhận ra ngay rằng những người này đã được cha mẹ và gia đình chiều chuộng, và thậm chí đến bây giờ, họ vẫn không biết cách cư xử và sống tự lập. Gia đình ngươi đã yêu chiều ngươi như một thần tượng, và ngươi không biết vị trí của mình trong vũ trụ. Ngươi đã hình thành những tật xấu kiêu ngạo, tự cho mình là đúng và cực kỳ thất thường mà không hề hay biết và không biết phản tỉnh. Ngươi tin Đức Chúa Trời nhưng không nghe lời Ngài hay thực hành lẽ thật. Ngươi có thể đạt được lẽ thật với một đức tin như vậy vào Đức Chúa Trời không? Ngươi có thể bước vào thực tế lẽ thật không? Ngươi có thể sống thể hiện ra hình tượng giống con người được không? Chắc chắn là không. Là một người tin Đức Chúa Trời, chí ít ngươi phải chấp nhận lẽ thật và biết mình. Chỉ như vậy ngươi mới có thể thay đổi. Nếu ngươi luôn dựa vào những quan niệm và tưởng tượng của mình trong đức tin, nếu ngươi chỉ tìm kiếm bình an và hạnh phúc thay vì mưu cầu lẽ thật, nếu ngươi không thể thực sự ăn năn và không thay đổi tâm tính sống của mình, thì đức tin của ngươi vào Đức Chúa Trời là vô nghĩa. Là người tin vào Đức Chúa Trời, ngươi phải hiểu được lẽ thật. Ngươi phải nỗ lực để biết mình. Bất kể điều gì xảy đến với ngươi, ngươi cũng phải tìm kiếm lẽ thật, và ngươi phải giải quyết bất cứ tâm tính bại hoại nào bộc phát từ ngươi bằng cách thông công về lẽ thật theo lời Đức Chúa Trời. Nếu ai đó chỉ ra tâm tính bại hoại của ngươi, hoặc ngươi chủ động tự mình xem xét, nếu ngươi có thể chủ tâm dựa vào lời Đức Chúa Trời để đối chiếu, và tự xem xét nội tâm, dò xét và biết mình, rồi sau đó khắc phục vấn đề của mình và thực hành ăn năn, thì ngươi sẽ có thể sống như một con người. Những người tin vào Đức Chúa Trời phải chấp nhận lẽ thật. Nếu ngươi luôn thích cảm giác được gia đình cưng chiều, luôn vui thích khi được làm vật báu trong mắt họ, là con cưng của họ, thì ngươi có thể đạt được gì? Cho dù ngươi có là vật báu trong mắt gia đình và con cưng của họ đến mức nào, nếu ngươi không có thực tế lẽ thật, ngươi vẫn là đồ rác rưởi. Tin vào Đức Chúa Trời chỉ có giá trị nếu ngươi mưu cầu lẽ thật. Khi ngươi hiểu được lẽ thật, ngươi sẽ biết cách cư xử, ngươi sẽ biết cách sống để trải nghiệm hạnh phúc thực sự và trở thành người làm đẹp lòng Đức Chúa Trời. Không có môi trường gia đình nào, và không có điểm mạnh, công trạng hay ân tứ cá nhân nào có thể thay thế được thực tế lẽ thật, và bất kỳ điều gì như vậy cũng không thể là cái cớ để ngươi không mưu cầu lẽ thật. Đạt được lẽ thật là điều duy nhất có thể mang lại cho con người hạnh phúc thực sự, cho phép họ sống một cuộc đời có ý nghĩa và mang đến cho họ một đích đến tươi đẹp. Đây là sự thật của vấn đề.

Một số người, sau khi trở thành lãnh đạo và người làm công trong hội thánh, tưởng mình là vàng và nghĩ rằng cuối cùng họ cũng có cơ hội tỏa sáng. Họ cảm thấy hài lòng về bản thân và bắt đầu sử dụng thế mạnh của mình; họ buông thả những tham vọng của mình và thể hiện hết khả năng của mình. Những người này có đẳng cấp và trình độ học vấn, kỹ năng tổ chức, phong thái và tác phong của lãnh đạo. Họ đứng đầu lớp và là chủ tịch hội sinh viên ở trường, họ là quản lý hoặc chủ tịch công ty mình làm việc, và khi bắt đầu tin vào Đức Chúa Trời rồi đến nhà Ngài, họ được bầu làm lãnh đạo, thế nên họ thầm nghĩ: “Trời không bao giờ phụ mình. Một người có năng lực như mình khó mà tránh được sự chú ý. Ngay khi rời khỏi vị trí chủ tịch công ty, mình đã đến nhà Đức Chúa Trời và đảm nhận vai trò lãnh đạo. Mình có cố cũng không thể là người bình thường được. Đây là sự tôn cao của Đức Chúa Trời dành cho mình, đó là điều Ngài đã sắp đặt cho mình làm, vì vậy mình sẽ quy phục”. Sau khi trở thành lãnh đạo, họ phát huy kinh nghiệm, kiến thức, kỹ năng tổ chức và phong cách lãnh đạo của mình. Họ nghĩ rằng họ có năng lực, táo bạo, và là một cá nhân thực sự lão luyện, tài năng. Thế thì thật đáng tiếc là có một vấn đề ở đây. Những lãnh đạo lão luyện, tài năng, có khả năng lãnh đạo bẩm sinh này – họ giỏi làm gì nhất trong hội thánh? Thành lập một vương quốc độc lập, tiếm đoạt mọi quyền lực và chi phối các cuộc thảo luận. Sau khi trở thành lãnh đạo, họ không làm gì khác ngoài làm việc, chạy đôn chạy đáo, chịu đựng gian khổ và trả giá vì danh vọng và địa vị của chính mình. Họ không quan tâm đến điều gì khác. Họ tưởng rằng sự bận rộn và công việc của họ phù hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời, rằng họ không có tâm tính bại hoại, rằng hội thánh luôn cần họ và các anh chị em cũng cần họ. Họ tưởng rằng không có công việc nào hoàn thành được nếu thiếu họ, rằng họ có thể tự mình gánh vác mọi việc và độc chiếm quyền lực. Và họ rất biết cách để thành lập vương quốc độc lập của mình. Họ có khả năng làm đủ mọi thứ sáng tạo, mới lạ, họ đặc biệt giỏi hành xử như quan chức và ra vẻ, cũng như thành thạo trong việc lên lớp dạy đời người khác. Chỉ có một điều quan trọng họ không thể làm được: sau khi trở thành lãnh đạo, họ không còn khả năng nói thật lòng với người khác, không còn khả năng tự biết mình, nhận ra sự bại hoại của bản thân, hay lắng nghe những lời góp ý của các anh chị em. Nếu có người đưa ra một số ý tưởng khác trong cuộc thảo luận công việc, các lãnh đạo này không những sẽ bác bỏ – mà còn biện minh cho việc làm đó bằng cách nói: “Mấy anh chị chưa nghĩ kỹ về đề xuất đó. Tôi là lãnh đạo hội thánh – nếu tôi làm theo lời mấy anh chị nói và không có gì sai trật thì không sao, nhưng nếu có chuyện xảy ra, trách nhiệm sẽ đổ hết lên đầu tôi. Vì vậy, đa phần mấy anh chị có thể đưa ra ý kiến của mình – chúng ta có thể tuân thủ thủ tục đó – nhưng cuối cùng, chỉ một mình tôi mới là người đưa ra lựa chọn và quyết định mọi việc sẽ được thực hiện như thế nào”. Theo thời gian, hầu hết các anh chị em ngừng tham gia thảo luận hay thông công về công việc, và các lãnh đạo này sẽ chẳng buồn thông công với họ về bất kỳ vấn đề nào trong công việc. Họ sẽ tiếp tục đưa ra quyết định và phán quyết mà không nói một lời nào với bất kỳ ai, và họ vẫn đầy lý do biện minh. Họ tin rằng: “Hội thánh là hội thánh của người lãnh đạo, người lãnh đạo hoạch định lộ trình. Người lãnh đạo mới là người có tiếng nói cuối cùng về phương hướng các anh chị em đi cũng như con đường họ đi”. Đương nhiên, sau đó những lãnh đạo này kiểm soát lối vào sự sống của các anh chị em, con đường họ đi và phương hướng họ theo đuổi. Một khi được phong làm “thuyền trưởng”, họ độc chiếm quyền lực và thành lập một vương quốc độc lập. Hành động của họ không minh bạch, và tự lúc nào không hay, họ trấn áp một số người và loại trừ một số anh chị em mưu cầu lẽ thật và có khả năng hiểu biết. Trong khi đó, họ vẫn nghĩ rằng làm vậy là họ đang bảo vệ công tác của hội thánh và lợi ích của dân sự được Đức Chúa Trời chọn. Họ làm mọi thứ với lý do rất xác đáng, với vô số lời biện minh và bào chữa – và cuối cùng thì sao? Mọi thứ họ làm đều là để bảo vệ địa vị và sự độc chiếm quyền lực của họ. Họ mang các nguyên tắc, đường lối và phương thức cư xử từ xã hội thế tục và đời sống gia đình vào nhà Đức Chúa Trời, nghĩ rằng làm như vậy là họ đang bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Ấy thế nhưng họ chưa bao giờ biết mình hay phản tỉnh bản thân. Ngay cả khi có người chỉ ra họ đang vi phạm các nguyên tắc lẽ thật, ngay cả khi họ gặp được sự khai sáng, sửa dạy và sửa phạt của Đức Chúa Trời, họ cũng sẽ không nhận thức được điều đó. Vấn đề nằm ở đâu? Kể từ ngày đảm nhận vị trí lãnh đạo, họ coi bổn phận của mình như một nghề nghiệp, và điều này tất khiến họ đi trên con đường của những kẻ địch lại Đấng Christ và chắc chắn khiến họ không thể mưu cầu lẽ thật. Ấy thế mà trong “sự nghiệp” này, họ vẫn tin rằng mọi việc họ làm đều là mưu cầu lẽ thật. Họ có quan điểm thế nào về việc mưu cầu lẽ thật? Họ bảo vệ địa vị và thẩm quyền của mình dưới chiêu bài bảo vệ lợi ích của các anh chị em và nhà Đức Chúa Trời, và họ tin rằng đây là biểu hiện của việc họ mưu cầu lẽ thật. Họ hoàn toàn không biết gì về tâm tính bại hoại thể hiện và bộc lộ ra từ họ khi họ ở vị trí này. Ngay cả khi đôi lúc họ có cảm giác mơ hồ rằng đó là một tâm tính bại hoại, rằng Đức Chúa Trời ghê tởm nó, rằng đó là một tâm tính xấu xa, cố chấp, thì họ cũng nhanh chóng đổi ý nghĩ lại: “Không được. Mình là lãnh đạo, và mình cần phải có phẩm giá của một lãnh đạo. Mình không thể để các anh chị em nhìn thấy mình bộc lộ tâm tính bại hoại được”. Và vì vậy, mặc dù họ nhận ra rằng họ đã bộc lộ rất nhiều sự bại hoại, rằng họ đã làm nhiều điều trái với nguyên tắc để bảo vệ địa vị và quyền lực của mình, nhưng khi ai đó vạch trần họ, họ sẽ dùng đến sự ngụy biện hoặc cố chặn lại, để không ai khác biết được chuyện đó. Ngay khi có thẩm quyền và địa vị, họ đã tự đặt mình vào vị trí thiêng liêng, bất khả xâm phạm, tự cho mình là vĩ đại, đúng đắn, không thể chê trách và không thể nghi ngờ. Và khi đã nắm giữ vị trí như vậy, họ luôn kháng cự và bác bỏ bất kỳ ý kiến bất đồng nào, bất kỳ đề xuất hay lời khuyên nào có thể có lợi cho lối vào sự sống của các anh chị em và cho công tác của hội thánh. Họ viện lý do gì để không mưu cầu lẽ thật? Họ nói: “Tôi có địa vị, tôi là người có vị thế – điều đó có nghĩa rằng tôi có phẩm giá, rằng tôi là thiêng liêng và bất khả xâm phạm”. Họ có thể mưu cầu lẽ thật sau khi đưa ra những lý do và bào chữa như vậy không? (Thưa, không thể.) Họ không thể. Họ luôn nói và hành động với giọng bề trên trong khi hưởng thụ những lợi ích của địa vị. Làm vậy là họ tự thiêu mình và khiến người ta cần phải vạch trần họ. Những người như vậy không đáng thương sao? Họ đáng thương và đáng khinh ghét, cũng đáng ghê tởm nữa – thật kinh tởm! Là một lãnh đạo, họ khoác lên mình hình tượng của một vị thánh. Một vị thánh, một người vĩ đại, vinh quang và đúng đắn – những danh hiệu này là gì? Chúng là xiềng xích, và bất cứ ai đeo chúng vào đều không thể mưu cầu lẽ thật được nữa. Nếu ai đó đeo những xiềng xích này, điều đó có nghĩa là họ không còn bất kỳ liên quan nào đến việc mưu cầu lẽ thật nữa. Lý do chính khiến những người này không mưu cầu lẽ thật là gì? Trên thực tế, lý do là họ đã bị địa vị trói buộc. Họ luôn tự nhủ: “Mình là lãnh đạo. Mình phụ trách ở đây. Mình là một người có vị thế và địa vị. Mình là người có phẩm cách. Mình không thể có tâm tính ngạo mạn hoặc xấu xa được. Mình không thể cởi mở và thông công về tâm tính bại hoại của mình được – mình phải bảo vệ phẩm giá và uy tín của mình. Mình phải khiến mọi người ngưỡng mộ và tôn sùng mình”. Họ luôn bị những thứ ấy trói buộc nên không thể cởi mở hay phản tỉnh và biết mình. Họ bị hủy hoại bởi những thứ ấy. Quan điểm và tư duy của họ có phù hợp với lẽ thật không? Quá rõ là không. Những hành vi họ thường thể hiện khi thực hiện bổn phận – kiêu ngạo và tự cho mình là đúng, tự làm theo ý mình, giả vờ, mánh khóe, v.v. – những thực hành này có phải là mưu cầu lẽ thật không? (Thưa, không phải.) Rất rõ ràng, không điều gì trong đó là mưu cầu sự thật. Và đâu là lời biện minh hay lý do họ đưa ra để không mưu cầu lẽ thật? (Thưa, họ tưởng rằng lãnh đạo là những người có địa vị và phẩm cách, và ngay cả khi họ có tâm tính bại hoại thì cũng không thể bị vạch trần được.) Đây chẳng phải là một quan điểm vô lý sao? Nếu một người thừa nhận mình có tâm tính bại hoại nhưng không cho phép vạch trần điều đó, thì họ có phải là người chấp nhận lẽ thật không? Nếu với tư cách lãnh đạo, ngươi không thể chấp nhận lẽ thật thì ngươi sẽ trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời kiểu gì? Làm sao sự bại hoại của ngươi được làm cho tinh sạch? Và nếu sự bại hoại của ngươi không thể được làm cho tinh sạch và ngươi tiếp tục sống theo tâm tính bại hoại của mình, thì ngươi là một lãnh đạo không thể làm công việc thực tế – ngươi là một lãnh đạo giả. Là một lãnh đạo, ngươi có địa vị, nhưng đó chỉ đơn thuần là vấn đề có một công việc khác, một bổn phận khác – chứ không có nghĩa là ngươi đã trở thành một người có vị thế. Ngươi không trở nên có phẩm giá hơn người khác hay là một người có vị thế nổi bật bởi vì ngươi đã đạt được địa vị này và thực hiện một bổn phận khác. Nếu thật sự có người nghĩ như vậy, chẳng phải họ không biết xấu hổ sao? (Thưa, họ không biết xấu hổ.) Nói một cách thông tục hơn là gì? Họ trơ trẽn táo tợn, phải không? Khi không làm lãnh đạo, họ đối xử chân thành với mọi người; họ có thể cởi mở về những bộc phát sự bại hoại của mình và phân tích những tâm tính bại hoại của mình. Một khi đã đảm nhận vị trí lãnh đạo, họ trở thành một con người khác hoàn toàn. Tại sao Ta lại nói họ trở thành một con người khác? Bởi vì họ đeo một chiếc mặt nạ, và con người thật ở đằng sau mặt nạ. Chiếc mặt nạ không để lộ bất kỳ biểu cảm nào, không khóc, không cười, không vui hay giận, không buồn hay vui, không cảm xúc và ham muốn – và chắc chắn là không có tâm tính bại hoại. Lúc nào biểu hiện và tình trạng của nó cũng một màu, trong khi tất cả trạng thái thực sự, những suy nghĩ và ý kiến cá nhân của người lãnh đạo đều ẩn sau chiếc mặt nạ, không ai thấy được. Có một số lãnh đạo và người làm công luôn nghĩ mình có vị thế và địa vị. Họ sợ sẽ bị mất phẩm giá nếu ai đó tỉa sửa và xử lý họ, vì vậy họ không chấp nhận lẽ thật. Họ lợi dụng địa vị và thẩm quyền của mình để nói những lời đường mật, dối trá và che đậy tâm tính bại hoại của mình. Đồng thời, vì địa vị, họ lầm tưởng họ nổi bật và thánh khiết hơn những người khác, và do đó họ không cần phải mưu cầu lẽ thật – rằng việc mưu cầu lẽ thật là việc của người khác. Cách suy nghĩ này là sai lầm, và có phần vô liêm sỉ, vô nghĩa lý. Đó là cách cư xử của loại người này. Từ thực chất hành vi của những người đó, có thể thấy rõ họ không mưu cầu lẽ thật. Thay vào đó, họ đang theo đuổi địa vị và danh vọng. Khi làm việc là họ đang bảo vệ địa vị và thẩm quyền của mình, đồng thời tự huyễn hoặc bản thân rằng họ đang mưu cầu lẽ thật. Họ cũng giống như Phao-lô, thường xuyên tổng kết việc họ đã làm và những bổn phận họ đã thực hiện, những nhiệm vụ họ đã đảm nhận khi làm công tác hội thánh, và những thành tích họ đạt được khi làm công tác của nhà Đức Chúa Trời. Họ thường kiểm đếm những điều này, như khi Phao-lô nói: “Ta đã đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin: Hiện nay mão triều thiên của sự công bình đã để dành cho ta” (2 Ti-mô-thê 4:7-8). Nói thế ý ông là sau khi xong sự chạy và đánh trận tốt lành là lúc để tính toán xem cơ hội cứu rỗi của ông lớn đến mức nào, những đóng góp của ông lớn đến mức nào, phần thưởng của ông sẽ lớn ra sao và đã đến lúc xin Đức Chúa Trời ban thưởng cho những đóng góp của ông. Ý ông là ông sẽ không nghĩ Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời công chính nếu Ngài không ban thưởng mão triều thiên cho ông, rằng ông sẽ không chịu quy phục và thậm chí còn phàn nàn về sự bất công của Đức Chúa Trời. Một người như vậy, với kiểu tư duy và tâm tính này, có đang mưu cầu lẽ thật không? Họ có phải là người thực sự quy phục Đức Chúa Trời không? Họ có thể đặt bản thân dưới sự sắp đặt của Đức Chúa Trời không? Chẳng phải điều này nhìn qua đã rõ sao? Họ nghĩ rằng sự chạy và đánh trận là mưu cầu lẽ thật, họ hoàn toàn không tìm kiếm lẽ thật và họ không có những biểu hiện của việc thực sự mưu cầu lẽ thật – vì vậy họ không phải là người mưu cầu lẽ thật.

Mối thông công của chúng ta vừa rồi chủ yếu vạch trần những vấn đề nào của con người? Cụ thể là chủ yếu vạch trần những tâm tính bại hoại nào của con người? Vấn đề cơ bản là con người chán ghét lẽ thật và từ chối chấp nhận lẽ thật; đây là một loại hành vi rất cụ thể. Một vấn đề chính khác là thứ tồn tại trong thực chất của mỗi con người: tính cố chấp. Điều này cũng biểu lộ khá cụ thể và rõ ràng phải không nào? (Thưa, phải.) Đây là hai trong số những cách chính mà tâm tính bại hoại của con người thể hiện và bộc phát. Những hành vi cụ thể này, những quan điểm, thái độ cụ thể này, v.v. minh họa chân thực và chính xác rằng có một yếu tố chán ghét lẽ thật trong tâm tính bại hoại của con người. Dĩ nhiên, điều nổi bật hơn trong tâm tính của con người là những biểu hiện của sự cố chấp: bất kể Đức Chúa Trời phán điều gì, và bất kể tâm tính bại hoại nào của con người bị vạch trần trong quá trình công tác của Đức Chúa Trời, con người vẫn ngoan cố không thừa nhận và chống đối. Tất nhiên, ngoài sự chống đối rõ ràng hoặc từ chối một cách khinh thường, còn có một loại hành vi khác, đó là khi con người ta không quan tâm đến công tác của Đức Chúa Trời, như thể công tác của Đức Chúa Trời không liên quan gì đến họ. Không quan tâm đến Đức Chúa Trời nghĩa là gì? Đó là khi người ta nói: “Ngài phán gì thì phán – không liên quan gì đến con. Không có sự phán xét hay vạch trần nào của Ngài liên quan đến con cả. Con không chấp nhận hay thừa nhận điều đó”. Chúng ta có thể gọi một thái độ như vậy là “cố chấp” không? (Thưa, có.) Đó là một biểu hiện của sự cố chấp. Những người này nói: “Con sống theo cách con thích, theo bất kỳ cách nào khiến con thoải mái và theo bất kỳ cách nào khiến con hạnh phúc. Những hành vi Ngài nói đến như kiêu ngạo, giả dối, chán ghét lẽ thật, tà ác, xấu xa, v.v. – ngay cả khi con có những hành vi đó thì sao chứ? Con sẽ không xem xét, không biết, hay chấp nhận chúng. Đây là cách con tin Đức Chúa Trời, Ngài định làm gì?”. Đây là một thái độ cố chấp. Khi con người không quan tâm hoặc không chú ý đến lời Đức Chúa Trời, điều đó có nghĩa là họ luôn phớt lờ Đức Chúa Trời, bất kể Ngài phán gì, cho dù Ngài phán dưới hình thức nhắc nhở, cảnh báo hay khuyên nhủ – bất kể Ngài sử dụng cách nói nào, hay nguồn gốc và mục đích lời phán của Ngài là gì – thì thái độ của họ vẫn là thái độ cố chấp. Điều đó có nghĩa là họ không chú ý đến ý muốn khẩn thiết của Đức Chúa Trời, chứ đừng nói đến mong muốn cứu rỗi con người chân thành, thiện chí của Ngài. Bất kể Đức Chúa Trời làm gì, con người cũng không có lòng hợp tác và không sẵn lòng phấn đấu đạt được lẽ thật. Ngay cả khi họ thừa nhận sự phán xét và mặc khải của Đức Chúa Trời là hoàn toàn đúng sự thật, nhưng trong lòng họ không hề hối hận và họ vẫn tiếp tục tin như trước. Cuối cùng, khi đã nghe nhiều bài giảng, họ vẫn nói y một điều: “Dù sao đi nữa tôi cũng là một tín hữu chân chính, nhân tính của tôi không tệ, tôi không cố ý hành ác, tôi có thể từ bỏ mọi thứ, tôi có thể chịu đựng gian khổ và sẵn lòng trả giá vì đức tin của mình. Đức Chúa Trời sẽ không từ bỏ tôi”. Đây chẳng phải giống như cách Phao-lô đã nói: “Ta đã đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin: Hiện nay mão triều thiên của sự công bình đã để dành cho ta”? Đây là kiểu thái độ của mọi người. Tâm tính đằng sau thái độ như vậy là gì? Cố chấp. Tâm tính cố chấp có khó thay đổi không? Có con đường để thay đổi không? Phương pháp đơn giản và trực tiếp nhất là biến chuyển thái độ của ngươi đối với lời Đức Chúa Trời và đối với chính Đức Chúa Trời. Làm thế nào ngươi có thể biến chuyển những điều này? Bằng cách phân tích và nhận biết các trạng thái và tư duy nảy sinh từ thái độ cố chấp của ngươi, và bằng cách xem xét những hành động và lời nói nào của ngươi, những quan điểm và ý định nào ngươi bám vào, và thậm chí cụ thể là những suy nghĩ, tư tưởng nào ngươi bộc lộ, đang bị ảnh hưởng bởi tâm tính cố chấp của ngươi. Hãy xem xét và giải quyết những hành vi, biểu hiện và trạng thái này, từng cái một, rồi xoay chuyển chúng – ngay khi ngươi xem xét và phát hiện ra điều gì đó, hãy nhanh chóng xoay chuyển điều đó. Chẳng hạn, chúng ta vừa nói về việc hành động dựa trên ý thích và tâm trạng của mình, đó là tính thất thường. Tâm tính thất thường chứa đặc tính chán ghét lẽ thật. Nếu ngươi nhận ra mình là loại người như vậy, với kiểu tâm tính bại hoại đó, và ngươi không phản tỉnh bản thân hay tìm kiếm lẽ thật để giải quyết nó, cố chấp nghĩ rằng ngươi vẫn ổn, thì đó là sự cố chấp. Sau bài giảng này, ngươi có thể chợt nhận ra: “Mình đã nói những điều như thế, và mình có những quan điểm như thế. Tâm tính này của mình là tâm tính chán ghét lẽ thật. Vì đúng như vậy nên mình sẽ bắt đầu giải quyết tâm tính đó”. Sau đó, ngươi bắt đầu giải quyết nó như thế nào? Hãy bắt đầu bằng cách buông bỏ cảm giác cao siêu hơn, tính thất thường và tính độc đoán của ngươi; bất kể tâm trạng ngươi tốt hay xấu, hãy xem những yêu cầu của Đức Chúa Trời là gì. Nếu ngươi có thể phản bội xác thịt và thực hành theo yêu cầu của Đức Chúa Trời, Ngài sẽ nhìn nhận ngươi như thế nào? Nếu ngươi thực sự có thể bắt đầu giải quyết những hành vi bại hoại này, đó là dấu hiệu cho thấy ngươi đang tích cực và chủ động hợp tác với công tác của Đức Chúa Trời. Ngươi sẽ chủ tâm từ bỏ và giải quyết tâm tính chán ghét lẽ thật đó, đồng thời, ngươi sẽ giải quyết tâm tính cố chấp của mình. Khi ngươi đã giải quyết được cả hai tâm tính bại hoại này, ngươi sẽ có thể vâng lời và làm thỏa lòng Đức Chúa Trời, và điều này sẽ làm đẹp lòng Ngài. Nếu các ngươi đã hiểu nội dung của mối thông công này và thực hành phản bội xác thịt theo cách này, Ta sẽ rất vui. Vậy là Ta đã không uổng công phán những lời này.

Tính cố chấp là vấn đề của tâm tính bại hoại; đó là một điều gì đó trong bản tính của con người, và không dễ giải quyết. Khi một người có tâm tính cố chấp, nó chủ yếu biểu hiện ở khuynh hướng đưa ra những lời biện minh và lập luận nghe có vẻ hợp lý, bám chặt vào ý kiến riêng của mình và không dễ dàng chấp nhận cái mới. Có những lúc người ta biết ý kiến của mình là sai, nhưng vẫn cố bám lấy vì hư danh và thể diện, cố chấp đến cùng. Tâm tính cố chấp như vậy rất khó biến chuyển, ngay cả khi người ta nhận thức được điều đó. Để giải quyết vấn đề tính cố chấp, người ta phải nhận biết được tính kiêu ngạo, giả dối, xấu xa, chán ghét lẽ thật và những tâm tính khác như vậy của con người. Khi người ta nhận biết được tính kiêu ngạo, giả dối, xấu xa của chính họ, rằng họ chán ghét lẽ thật, rằng họ không muốn phản bội xác thịt mặc dù muốn thực hành lẽ thật, rằng họ luôn viện cớ và thanh minh những khó khăn của mình mặc dù muốn vâng lời Đức Chúa Trời, thì họ sẽ dễ dàng nhận ra mình có vấn đề ở tính cố chấp. Để giải quyết vấn đề này, trước tiên người ta phải sở hữu ý thức bình thường của con người và bắt đầu bằng cách học cách lắng nghe lời Đức Chúa Trời. Nếu ngươi muốn trở thành chiên của Đức Chúa Trời, ngươi phải học cách lắng nghe lời Ngài. Và ngươi nên lắng nghe chúng như thế nào? Bằng cách lắng nghe bất kỳ vấn đề nào Đức Chúa Trời phơi bày trong lời Ngài có liên quan đến ngươi. Nếu ngươi tìm thấy vấn đề nào, ngươi phải chấp nhận nó; ngươi không được tưởng rằng đó là vấn đề của người khác, đó là vấn đề của mọi người, hay vấn đề của nhân loại, và không liên quan gì đến ngươi. Nếu ngươi tưởng như vậy là sai. Ngươi phải suy ngẫm, thông qua sự mặc khải của lời Đức Chúa Trời, xem liệu mình có những tâm tính bại hoại hay quan điểm sai lầm Đức Chúa Trời đang vạch trần hay không. Chẳng hạn như khi ngươi nghe lời Đức Chúa Trời phơi bày những biểu hiện của tâm tính kiêu ngạo bộc phát từ ai đó, ngươi phải tự nghĩ: “Mình có biểu hiện của sự kiêu ngạo không? Mình là một con người bại hoại, nên ắt phải có một số biểu hiện đó; mình phải phản tỉnh xem mình làm thế ở đâu. Mọi người nói mình kiêu ngạo, luôn tỏ ra cao ngạo, chèn ép mọi người khi nói chuyện. Đó có thực sự là tâm tính của mình không?”. Thông qua phản tỉnh, cuối cùng ngươi sẽ nhận ra rằng sự mặc khải của lời Đức Chúa Trời hoàn toàn chính xác – rằng ngươi là một người kiêu ngạo. Và vì sự mặc khải của lời Đức Chúa Trời hoàn toàn chính xác, vì nó hoàn toàn phù hợp với tình trạng của ngươi không chút sai lệch nào, thậm chí còn dường như chính xác hơn khi phản tỉnh thêm, nên ngươi phải chấp nhận sự phán xét và hình phạt của lời Ngài, đồng thời phân định và nhận biết được thực chất tâm tính bại hoại của mình theo lời Ngài. Khi đó ngươi sẽ có thể cảm thấy hối hận thực sự. Khi tin Đức Chúa Trời, chỉ bằng cách ăn uống lời Ngài theo cách này, ngươi mới có thể đi đến chỗ biết mình. Để giải quyết tâm tính bại hoại của mình, ngươi phải chấp nhận sự phán xét và vạch trần của lời Đức Chúa Trời. Nếu ngươi không thể làm thế, sẽ không có cách nào để ngươi loại bỏ được những tâm tính bại hoại của mình. Nếu ngươi là một người khôn ngoan thấy rằng sự mặc khải của lời Đức Chúa Trời nói chung là chính xác, hoặc nếu ngươi có thể thừa nhận nó đúng một nửa, thì ngươi phải ngay lập tức chấp nhận những lời ấy và quy phục trước Đức Chúa Trời. Ngươi cũng phải cầu nguyện với Ngài và phản tỉnh bản thân mình. Chỉ khi đó ngươi mới hiểu rằng tất cả những lời mặc khải của Đức Chúa Trời đều chính xác, rằng chúng đều là sự thật, và thực sự là thế. Chỉ bằng cách quy phục trước Đức Chúa Trời với tấm lòng tôn kính Ngài, con người mới có thể thực sự phản tỉnh bản thân mình. Chỉ khi đó họ mới có thể nhìn thấy đủ loại tâm tính bại hoại tồn tại trong họ, rằng họ thực sự kiêu ngạo và tự cho mình là đúng, không có một chút ý thức nào. Nếu ai đó là người yêu lẽ thật, họ sẽ có thể phủ phục trước Đức Chúa Trời, thừa nhận với Ngài rằng họ đã bị làm cho bại hoại sâu sắc, và có ý chí chấp nhận sự phán xét cùng hình phạt của Ngài. Bằng cách này, họ có thể nảy sinh lòng hối hận, bắt đầu chối bỏ, căm ghét bản thân mình, và hối tiếc vì trước đây không mưu cầu lẽ thật, nghĩ rằng: “Tại sao mình lại không thể chấp nhận sự phán xét và hình phạt của lời Đức Chúa Trời khi mới bắt đầu đọc nhỉ? Thái độ này của mình đối với lời Ngài là thái độ kiêu ngạo, chẳng phải sao? Sao mình lại có thể ngạo mạn đến thế?”. Sau khi thường xuyên phản tỉnh theo cách này một thời gian, họ sẽ nhận ra rằng họ thực sự kiêu ngạo, rằng họ không hoàn toàn có khả năng thừa nhận lời Đức Chúa Trời là lẽ thật và sự thật, và rằng họ thực sự không có một chút ý thức nào. Nhưng thật khó để biết mình. Mỗi khi phản tỉnh, người ta chỉ có thể biết mình thêm một chút và sâu hơn một chút. Để có được hiểu biết rõ ràng về một tâm tính bại hoại không phải là điều có thể đạt được trong một khoảng thời gian ngắn; người ta phải đọc thêm nhiều lời Đức Chúa Trời hơn, cầu nguyện nhiều hơn và phản tỉnh bản thân nhiều hơn. Chỉ như vậy họ mới có thể dần dần biết được chính mình. Tất cả những ai thực sự biết mình đều đã từng thất bại và vấp ngã vài lần trong quá khứ, sau đó họ đọc lời Đức Chúa Trời, cầu nguyện với Ngài và phản tỉnh bản thân, từ đó nhận ra rõ ràng lẽ thật về sự bại hoại của bản thân, đồng thời cảm nhận được họ thực sự đã bị làm cho bại hoại sâu sắc, và hoàn toàn không có thực tế lẽ thật. Nếu ngươi trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời như thế này, và ngươi cầu nguyện với Ngài, tìm kiếm lẽ thật khi có chuyện xảy đến, thì dần dần ngươi sẽ biết được chính mình. Rồi một ngày, cuối cùng ngươi cũng sáng tỏ trong lòng rằng: “Mình có thể có tố chất tốt hơn người khác một chút, nhưng đó là do Đức Chúa Trời ban cho. Mình luôn khoe khoang, cố vượt hơn người khác khi nói chuyện và cố khiến mọi người làm theo ý mình. Mình thực sự thiếu ý thức – đây là sự kiêu ngạo và tự cho mình là đúng! Qua phản tỉnh, mình đã biết được tâm tính kiêu ngạo của bản thân. Đây chính là sự khai sáng và ân điển của Đức Chúa Trời, mình cảm tạ Ngài vì điều đó!”. Biết về tâm tính bại hoại của chính mình là điều tốt hay điều xấu? (Thưa, là điều tốt.) Từ đây, ngươi phải tìm cách nói năng và hành động có ý thức và vâng phục, cách đứng ngang hàng với người khác, cách đối xử công bằng với người khác mà không gò ép họ, cách đánh giá đúng tố chất, ân tứ, điểm mạnh của mình và v.v. Theo cách này, giống như một ngọn núi bị đập thành cát bụi, từng nhát búa một, tâm tính kiêu ngạo của ngươi sẽ được giải quyết. Sau đó, khi ngươi tương tác với người khác hoặc phối hợp với họ để thực hiện một bổn phận, ngươi sẽ có thể đối xử đúng với quan điểm của họ và cẩn thận, chú ý khi lắng nghe họ. Và khi ngươi nghe họ nêu lên một quan điểm đúng đắn, ngươi sẽ phát hiện ra rằng: “Có vẻ như tố chất của mình không phải là giỏi nhất. Thực tế là mọi người đều có thế mạnh riêng; họ không thua kém mình chút nào. Trước đây, mình luôn nghĩ mình có tố chất tốt hơn người khác. Đó là sự tự ngưỡng mộ và ngu dốt thiển cận. Mình đã có một quan điểm rất hạn hẹp, giống như ếch ngồi đáy giếng vậy. Suy nghĩ như vậy thực sự thiếu lý trí – thật vô liêm sỉ! Mình đã bị tâm tính kiêu ngạo của mình bịt mắt, bịt tai. Lời nói của người khác không lọt vào tai mình, và mình nghĩ rằng mình giỏi hơn họ, rằng mình đúng, trong khi thực tế mình không hơn bất kỳ ai cả!”. Từ đó trở đi, ngươi sẽ có cái nhìn sâu sắc và hiểu biết thực sự về những khiếm khuyết và vóc giạc nhỏ bé của mình. Và sau đó, khi thông công với người khác, ngươi sẽ lắng nghe kỹ quan điểm của họ và sẽ nhận ra rằng: “Có rất nhiều người giỏi hơn mình. Tố chất và khả năng hiểu biết của mình cùng lắm đều ở mức trung bình thôi”. Khi nhận ra điều này, chẳng phải ngươi sẽ đạt được một chút nhận thức về bản thân mình sao? Bằng cách trải nghiệm điều này và thường xuyên phản tỉnh bản thân theo lời Đức Chúa Trời, ngươi sẽ có thể đạt được sự hiểu biết thực sự về bản thân ngày càng sâu sắc hơn. Ngươi sẽ có thể nhìn thấu sự thật về sự bại hoại, sự nghèo nàn và thảm hại, sự xấu xí tệ hại của mình, và lúc đó, ngươi sẽ phát ốm với chính bản thân mình và căm ghét tâm tính bại hoại của mình. Sau đó, ngươi sẽ dễ dàng phản bội chính mình. Đó là cách ngươi trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời. Ngươi phải phản tỉnh về việc bộc phát sự bại hoại của mình dựa theo lời Đức Chúa Trời. Đặc biệt là sau khi bộc lộ tâm tính bại hoại trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ngươi phải thường xuyên phản tỉnh và tự biết mình. Khi đó, ngươi sẽ dễ dàng thấy rõ thực chất bại hoại của mình, và từ đáy lòng mình, ngươi sẽ có thể căm ghét sự bại hoại, xác thịt của mình cũng như Sa-tan. Và từ đáy lòng mình, ngươi sẽ có thể yêu và phấn đấu để đạt được lẽ thật. Theo cách này, tâm tính kiêu ngạo của ngươi sẽ ngày càng giảm bớt, và ngươi sẽ dần dần loại bỏ được nó. Ngươi sẽ ngày càng có lý trí hơn, và ngươi sẽ dễ dàng quy phục Đức Chúa Trời hơn. Trong mắt người khác, ngươi có vẻ kiên định và vững vàng hơn, và có vẻ ngươi nói chuyện khách quan hơn. Ngươi sẽ có khả năng lắng nghe người khác, và ngươi sẽ để cho họ có thời gian nói. Khi người khác đúng, ngươi sẽ dễ dàng chấp nhận lời họ, và sự tương tác của ngươi với mọi người sẽ không quá khó khăn. Ngươi sẽ có thể hợp tác hài hòa với bất kỳ ai. Nếu đây là cách ngươi thực hiện bổn phận của mình, chẳng phải khi đó ngươi sẽ có lý trí và nhân tính sao? Đó là cách giải quyết loại tâm tính bại hoại này.

Bây giờ chúng ta sẽ thông công một chút về cách giải quyết các tâm tính bại hoại thông qua vấn đề tâm tính cố chấp Ta vừa đề cập. Để giải quyết một tâm tính bại hoại, trước tiên người ta phải có khả năng chấp nhận lẽ thật. Chấp nhận lẽ thật là chấp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời; đó là chấp nhận những lời Ngài phơi bày thực chất sự bại hoại của con người. Nếu ngươi biết và phân tích được những bộc phát sự bại hoại, trạng thái bại hoại, cùng ý định và hành vi bại hoại của ngươi trên cơ sở lời Đức Chúa Trời, và ngươi có thể phát hiện ra thực chất vấn đề của mình, thì ngươi sẽ có được hiểu biết về tâm tính bại hoại của mình, và ngươi sẽ khởi động quá trình giải quyết tâm tính bại hoại ấy. Trái lại, nếu ngươi không thực hành theo cách này, ngươi không những không thể giải quyết được tâm tính cố chấp của mình, mà ngươi cũng sẽ không có cách nào trừ tiệt được những tâm tính bại hoại của mình. Mỗi người đều có nhiều tâm tính bại hoại. Nên bắt đầu giải quyết chúng từ đâu? Đầu tiên, người ta phải giải quyết sự cố chấp của họ, vì tâm tính cố chấp cản trở con người đến gần Đức Chúa Trời, tìm kiếm lẽ thật và quy phục Đức Chúa Trời. Tính cố chấp là trở ngại lớn nhất đối với sự cầu nguyện và thông công của con người với Đức Chúa Trời; đó là điều cản trở nhiều nhất đến mối quan hệ bình thường của con người với Đức Chúa Trời. Sau khi ngươi giải quyết xong tâm tính cố chấp của mình, những tâm tính khác sẽ dễ dàng giải quyết. Việc giải quyết tâm tính bại hoại bắt đầu bằng việc phản tỉnh bản thân và tự biết mình. Hãy giải quyết bất kỳ tâm tính bại hoại nào ngươi nhận thấy – ngươi càng biết nhiều về chúng, ngươi càng có thể giải quyết được nhiều hơn; hiểu biết của ngươi về chúng càng sâu, ngươi càng có thể giải quyết chúng triệt để hơn. Đây là quá trình giải quyết các tâm tính bại hoại; việc này được thực hiện bằng cách cầu nguyện với Đức Chúa Trời, và bằng cách phản tỉnh, biết mình cũng như phân tích thực chất tâm tính bại hoại của mình thông qua lời Đức Chúa Trời, cho đến khi có thể phản bội xác thịt và thực hành lẽ thật. Biết được thực chất tâm tính bại hoại của mình không phải là việc đơn giản. Biết mình không có nghĩa là nói chung chung: “Tôi là một con người bị làm cho bại hoại; tôi là ma quỷ; tôi là con cháu của Sa-tan, hậu duệ của con rồng lớn sắc đỏ; tôi chống đối và thù địch với Đức Chúa Trời; tôi là kẻ thù của Ngài”. Nói như vậy không nhất thiết có nghĩa là ngươi có hiểu biết thực sự về sự bại hoại của chính mình. Ngươi có thể đã học những lời đó từ người khác và không biết nhiều về bản thân mình. Sự tự biết mình thực sự không dựa trên sự học hỏi hay phán đoán của con người, mà dựa trên lời Đức Chúa Trời – đó là nhìn thấy hậu quả của những tâm tính bại hoại và những đau khổ ngươi đã trải qua do chúng gây ra, cảm nhận được rằng tâm tính bại hoại không chỉ gây hại cho ngươi mà còn cho những người khác nữa. Đó là nhìn thấu thực tế rằng tâm tính bại hoại bắt nguồn từ Sa-tan, rằng chúng là độc tố và triết lý của Sa-tan, và rằng chúng hoàn toàn thù địch với lẽ thật và Đức Chúa Trời. Khi ngươi nhìn thấu vấn đề này, ngươi sẽ biết được tâm tính bại hoại của mình. Sau khi một số người thừa nhận rằng họ là quỷ Sa-tan, họ vẫn không chấp nhận việc bị tỉa sửa và xử lý. Họ không thừa nhận mình đã làm điều gì sai hay vi phạm lẽ thật. Có vấn đề gì với họ vậy? Họ vẫn chưa biết mình. Một số người nói rằng họ là quỷ Sa-tan, nhưng nếu ngươi hỏi họ: “Tại sao anh lại nói rằng mình là quỷ Sa-tan?”, họ sẽ không trả lời được. Điều này cho thấy họ không biết tâm tính bại hoại, hay thực chất bản tính của mình. Nếu họ có thể thấy bản tính của họ là bản tính của ma quỷ, thấy tâm tính bại hoại của họ là tâm tính của Sa-tan, và do đó thừa nhận rằng họ là ma quỷ, là Sa-tan, thì khi đó họ đã biết được thực chất bản tính của chính mình. Sự tự biết mình thực sự đạt được thông qua sự vạch trần, phán xét, thực hành và trải nghiệm lời Đức Chúa Trời. Nó đạt được thông qua việc hiểu lẽ thật. Nếu người ta không hiểu được lẽ thật, thì bất kể họ có nói gì về sự biết mình của họ, thì điều đó cũng đều sáo rỗng và không thực tế, bởi vì họ không thể tìm ra hoặc nắm bắt được những điều về căn nguyên và bản chất. Để biết mình, người ta phải thừa nhận họ đã bộc lộ những tâm tính bại hoại nào trong những trường hợp cụ thể, ý định của họ là gì, họ đã cư xử như thế nào, họ đã bị nhiễm tạp điều gì và tại sao họ không thể chấp nhận lẽ thật. Họ phải có thể nói ra rõ ràng những điều này thì mới có thể biết mình. Khi một số người phải đối mặt với việc bị tỉa sửa và xử lý, họ thừa nhận rằng họ chán ghét lẽ thật, rằng họ ngờ vực và hiểu lầm về Đức Chúa Trời, và rằng họ đề phòng Ngài. Họ cũng thừa nhận tất cả những lời Đức Chúa Trời phán xét và vạch trần con người đều là sự thật. Điều này cho thấy họ có một chút tự biết mình. Nhưng vì họ không có hiểu biết về Đức Chúa Trời hay công tác của Ngài, vì họ không hiểu được ý muốn của Ngài, nên sự tự biết mình của họ khá nông cạn. Nếu ai đó chỉ thừa nhận sự bại hoại của bản thân mà không tìm ra căn nguyên của vấn đề, thì liệu những ngờ vực, hiểu lầm và sự đề phòng của họ đối với Đức Chúa Trời có thể được giải quyết không? Không, không thể được. Đây là lý do tại sao việc tự biết mình không chỉ đơn thuần là thừa nhận sự bại hoại và các vấn đề của bản thân – mà còn phải hiểu lẽ thật và giải quyết tận gốc vấn đề tâm tính bại hoại của mình. Đó là cách duy nhất để nhìn thấu sự thật về sự bại hoại của một người và có được sự ăn năn thật sự. Khi những người yêu lẽ thật biết được chính mình, họ cũng có thể tìm kiếm và hiểu lẽ thật để giải quyết vấn đề của mình. Chỉ có kiểu tự biết mình này mới mang lại kết quả. Bất cứ khi nào một người yêu lẽ thật đọc một đoạn lời Đức Chúa Trời mặc khải và phán xét con người, trước tiên hết họ có niềm tin rằng những lời Đức Chúa Trời mặc khải con người là thật và thực tế, rằng những lời Đức Chúa Trời phán xét con người là lẽ thật, và rằng chúng thể hiện sự công chính của Đức Chúa Trời. Những người yêu lẽ thật chí ít phải có thể nhận ra điều này. Nếu ai đó thậm chí không tin lời Đức Chúa Trời, và không tin rằng lời Đức Chúa Trời vạch trần và phán xét con người là sự thật và lẽ thật, liệu họ có thể biết mình qua lời Ngài không? Chắc chắn là không – dù có muốn, họ cũng không thể làm được. Nếu ngươi có thể vững tin rằng tất cả những lời Đức Chúa Trời đều là lẽ thật, và tin tất cả những lời đó, bất kể Đức Chúa Trời phán gì hay cách Ngài phán như thế nào, nếu ngươi có thể tin và chấp nhận lời Đức Chúa Trời ngay cả khi ngươi chưa hiểu, thì ngươi sẽ dễ dàng phản tỉnh bản thân và biết mình thông qua lời Ngài. Việc phản tỉnh bản thân phải dựa trên lẽ thật. Đó là điều chắc chắn. Chỉ có lời Đức Chúa Trời mới là lẽ thật – không lời nào của con người và không lời nào của Sa-tan là lẽ thật cả. Sa-tan đã làm bại hoại nhân loại bằng đủ loại kiến thức, giáo lý và lý thuyết trong hàng nghìn năm, và con người đã trở nên tê liệt, trì độn đến mức họ không những không có chút hiểu biết nào dù là nhỏ nhất về bản thân, mà thậm chí còn ủng hộ những dị giáo, ngụy biện và không chịu chấp nhận lẽ thật. Những con người như thế này là không thể cứu chuộc được. Những người có đức tin thực sự vào Đức Chúa Trời tin rằng chỉ có lời Ngài là lẽ thật, họ có thể biết mình trên cơ sở lời Đức Chúa Trời và lẽ thật, và nhờ đó có được sự ăn năn thực sự. Một số người không mưu cầu lẽ thật; họ chỉ tự phản tỉnh dựa trên sự học hỏi của con người, và họ không thừa nhận gì khác ngoài hành vi tội lỗi, đồng thời không thể nhìn thấu thực chất bại hoại của chính mình. Tự biết mình như vậy là một nỗ lực vô ích và không mang lại kết quả gì. Người ta phải phản tỉnh dựa trên lời Đức Chúa Trời, và sau khi phản tỉnh, dần nhận biết được những tâm tính bại hoại mình bộc lộ. Người ta phải có khả năng đo lường và biết được những thiếu sót của họ, thực chất con người họ, quan điểm của họ về mọi sự, nhân sinh quan và giá trị của họ, dựa trên lẽ thật, sau đó đi đến đánh giá và nhận định chính xác về tất cả những điều này. Bằng cách này, họ có thể dần dần có được hiểu biết về bản thân. Nhưng sự tự biết mình sẽ ngày càng sâu sắc hơn khi người ta trải nghiệm nhiều hơn trong sự sống, và trước khi đạt được lẽ thật, người ta sẽ không thể nhìn thấu hoàn toàn được thực chất nhân tính của mình. Nếu một người thực sự biết mình, họ có thể thấy rằng loài người đã bị làm cho bại hoại thực sự là con cháu và hiện thân của Sa-tan. Họ sẽ cảm thấy rằng họ không xứng đáng sống trước mặt Đức Chúa Trời, rằng họ không xứng đáng với tình yêu thương và sự cứu rỗi của Ngài, và họ sẽ có thể hoàn toàn phủ phục trước Ngài. Chỉ những người có khả năng hiểu biết ở mức độ như vậy mới thực sự biết mình. Tự biết mình là điều kiện tiên quyết để bước vào thực tế lẽ thật. Nếu ai đó muốn thực hành lẽ thật và bước vào thực tế, họ phải biết mình. Tất cả mọi người đều có những tâm tính bại hoại và dù không muốn, họ vẫn luôn bị những tâm tính bại hoại này trói buộc và điều khiển. Họ không thể thực hành lẽ thật hay vâng lời Đức Chúa Trời. Vì vậy, nếu họ muốn làm những điều này, trước tiên họ phải biết mình và giải quyết được những tâm tính bại hoại của mình. Chỉ thông qua quá trình giải quyết tâm tính bại hoại, người ta mới có thể hiểu lẽ thật và có được hiểu biết về Đức Chúa Trời; chỉ khi đó người ta mới có thể quy phục Đức Chúa Trời và làm chứng cho Ngài. Đó là cách một người đạt được lẽ thật. Quá trình bước vào thực tế lẽ thật là quá trình giải quyết tâm tính bại hoại của một người. Vậy người ta phải làm gì để giải quyết tâm tính bại hoại của họ? Đầu tiên, người ta phải biết thực chất bại hoại của mình. Cụ thể, điều này có nghĩa là biết tâm tính bại hoại của mình nảy sinh như thế nào, và những lời dối trá, ngụy biện nào của Sa-tan mà họ chấp nhận đã làm phát sinh ra tâm tính bại hoại đó. Một khi người ta hoàn toàn hiểu được những nguyên nhân gốc rễ này trên cơ sở lời Đức Chúa Trời và có sự phân định về chúng, họ sẽ không còn muốn sống theo tâm tính bại hoại của mình nữa, họ sẽ chỉ muốn quy phục Đức Chúa Trời và sống theo lời Ngài. Bất cứ khi nào bộc lộ tâm tính bại hoại, họ sẽ có thể nhận ra nó, chối bỏ nó và phản bội xác thịt của mình. Bằng cách thực hành và trải nghiệm theo cách này, họ sẽ từ từ loại bỏ được mọi tâm tính bại hoại của mình.

Một số người nói: “Khi đọc những lời vạch trần và phán xét của Đức Chúa Trời, tôi đã phản tỉnh bản thân và nhận ra rằng mình kiêu ngạo, giả dối, ích kỷ, tà ác, cố chấp và không có nhân tính”. Một số người thậm chí còn nói rằng họ cực kỳ kiêu ngạo, rằng họ là dã thú, rằng họ là ác quỷ Sa-tan. Đây có phải là sự biết mình thực sự không? Nếu họ đang nói thật lòng chứ không phải chỉ bắt chước, thì điều đó cho thấy chí ít họ cũng có một chút tự biết mình, vấn đề chỉ là nông hay sâu thôi. Nếu họ đang bắt chước, lặp lại lời người khác thì đó không phải là tự biết mình thực sự. Hiểu biết về tâm tính bại hoại của bản thân phải cụ thể, chi tiết đến từng vấn đề và trạng thái – có nghĩa là các chi tiết như trạng thái, biểu hiện, hành vi, suy nghĩ và tư tưởng liên quan đến tâm tính bại hoại đó. Chỉ khi đó người ta mới có thể thực sự biết mình. Và khi người ta thực sự biết mình, lòng họ sẽ tràn ngập hối hận, và họ sẽ có khả năng ăn năn thực sự. Điều đầu tiên người ta phải thực hành để ăn năn là gì? (Thưa, người ta phải thừa nhận sai lầm của mình.) “Thừa nhận sai lầm của mình” không phải là cách diễn đạt đúng; đúng hơn, đó là vấn đề thừa nhận và biết rằng mình có một tâm tính bại hoại nhất định. Nếu một người nói tâm tính bại hoại của họ là một dạng sai lầm, thì họ sai. Tâm tính bại hoại là thứ thuộc về bản tính của một người, là thứ điều khiển con người. Nó không giống như một sai lầm nhất thời. Một số người sau khi bộc lộ sự bại hoại đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, con đã phạm sai lầm. Con xin lỗi”. Nói thế không chính xác. “Xưng nhận tội lỗi” sẽ thích hợp hơn. Cách cụ thể để người ta thực hành ăn năn là biết mình và giải quyết các vấn đề của mình. Khi một người bộc lộ tâm tính bại hoại hoặc phạm phải một sự vi phạm, và nhận ra rằng họ đang chống đối Đức Chúa Trời, khiến Ngài căm ghét, thì họ nên phản tỉnh và biết mình trong những lời có liên quan của Đức Chúa Trời. Từ đó, họ sẽ có được chút hiểu biết về tâm tính bại hoại của mình và thừa nhận rằng tâm tính bại hoại đó đến từ những chất độc và sự bại hoại của Sa-tan. Sau đó, khi họ đã tìm ra các nguyên tắc để thực hành lẽ thật và có thể đưa lẽ thật vào thực hành, thì đấy mới là sự ăn năn thực sự. Bất kể một người bộc lộ sự bại hoại như thế nào, nếu trước hết họ có thể biết được tâm tính bại hoại của mình, tìm kiếm lẽ thật để giải quyết nó và đi đến việc thực hành lẽ thật, thì đó chính là sự ăn năn thực sự. Một số người biết chút ít về bản thân họ, nhưng trong họ không có dấu hiệu ăn năn, cũng không có bất kỳ lời chứng nào về việc thực hành lẽ thật. Nếu họ vẫn không thay đổi sau khi biết mình, thì đó còn lâu mới là sự ăn năn thực sự. Để đạt được sự ăn năn thực sự, người ta phải giải quyết tâm tính bại hoại của họ. Vậy, để giải quyết những tâm tính bại hoại của mình, cụ thể, người ta phải thực hành và bước vào như thế nào? Đây là một ví dụ. Con người có tâm tính giả dối, họ luôn nói dối và gian lận. Nếu ngươi nhận ra điều đó thì nguyên tắc thực hành đơn giản nhất và trực tiếp nhất để giải quyết sự giả dối của ngươi là trở thành một người trung thực, nói sự thật và làm những điều trung thực. Đức Chúa Jêsus phán: “Song ngươi phải nói rằng: phải, phải; không, không”. Để trở thành một người trung thực, người ta phải tuân theo các nguyên tắc của lời Đức Chúa Trời. Cách thực hành đơn giản này là hiệu quả nhất, dễ hiểu và dễ thực hành. Tuy nhiên, vì con người đã bị làm cho bại hoại quá sâu sắc, vì tất cả bọn họ đều có bản tính Sa-tan và đang sống theo tâm tính Sa-tan, nên họ rất khó thực hành lẽ thật. Họ muốn làm người trung thực, nhưng không thể làm được. Họ không thể không nói dối và giở trò gian trá, và mặc dù họ có thể cảm thấy hối hận sau khi nhận ra điều này, nhưng họ vẫn không thể rũ bỏ những trói buộc của tâm tính bại hoại của mình, và họ sẽ tiếp tục nói dối và lừa gạt như đã từng. Vấn đề này nên được giải quyết như thế nào? Một phần là biết thực chất tâm tính bại hoại của mình là xấu xa, đáng khinh bỉ, và có thể căm ghét nó từ tận đáy lòng; một phần khác là rèn luyện bản thân thực hành theo nguyên tắc lẽ thật: “Song ngươi phải nói rằng: phải, phải; không, không”. Khi ngươi thực hành nguyên tắc này, ngươi đang trong quá trình giải quyết tâm tính giả dối của mình. Tất nhiên, nếu ngươi có thể thực hành theo các nguyên tắc lẽ thật trong khi giải quyết tâm tính giả dối của mình, thì đó là biểu hiện của việc ngươi quay đầu và khởi đầu cho sự ăn năn thực sự của ngươi, và Đức Chúa Trời tán thành điều đó. Điều này có nghĩa là khi ngươi quay đầu, Đức Chúa Trời sẽ đổi ý về ngươi. Trên thực tế, việc Đức Chúa Trời làm điều này là một hình thức tha thứ cho tâm tính bại hoại và sự phản nghịch của con người. Ngài tha thứ cho con người và không nhớ đến tội lỗi hay vi phạm của họ. Như vậy đã đủ cụ thể chưa? Các ngươi đã hiểu điều này chưa? Đây là một ví dụ khác. Giả sử ngươi có tâm tính kiêu ngạo, bất kể gặp chuyện gì, ngươi cũng rất ngoan cố, luôn muốn làm người quyết định, bắt người khác vâng lời ngươi và làm theo ý ngươi. Rồi sẽ có ngày ngươi nhận ra rằng điều này là do tâm tính kiêu ngạo gây ra. Việc ngươi thừa nhận về tâm tính kiêu ngạo là bước đầu tiên để biết mình. Sau đó, ngươi nên tìm kiếm một vài đoạn lời Đức Chúa Trời vạch trần tâm tính kiêu ngạo để so sánh bản thân, rồi phản tỉnh và biết mình. Nếu ngươi thấy rằng sự so sánh là hoàn toàn phù hợp, thừa nhận rằng tâm tính kiêu ngạo mà Đức Chúa Trời vạch trần hiện hữu trong ngươi, rồi sau đó ngươi phân định, khám phá tâm tính kiêu ngạo của mình đến từ đâu, tại sao nó lại phát sinh, và chất độc nào, tà thuyết hay ngụy biện nào của Sa-tan chi phối nó, thì khi đó, khi đã nhìn thấu suốt tất cả những vấn đề này, ngươi sẽ đào sâu được đến gốc rễ sự kiêu ngạo của mình. Đây là sự tự biết mình thật sự. Khi ngươi có định nghĩa chính xác hơn về cách mình bộc lộ tâm tính bại hoại này thì điều này sẽ tạo điều kiện để ngươi nhận thức sâu sắc và thực tế hơn về bản thân. Ngươi nên làm gì tiếp theo? Ngươi nên tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời, và hiểu dạng cách hành xử cũng như lời nói nào của con người là biểu hiện của nhân tính bình thường. Sau khi tìm thấy con đường thực hành, ngươi phải thực hành phù hợp với lời Đức Chúa Trời, và khi lòng ngươi đã xoay chuyển, ngươi sẽ thực sự ăn năn. Sẽ không chỉ có nguyên tắc trong lời nói và hành động của ngươi, mà ngươi cũng sẽ sống thể hiện ra hình tượng giống con người và dần dần rũ bỏ được tâm tính bại hoại của mình. Người khác sẽ thấy ngươi là một con người mới: ngươi sẽ không còn là con người cũ, bại hoại trước đây nữa, mà là một người được tái sinh trong lời Đức Chúa Trời. Một người như vậy là người có tâm tính sống đã được thay đổi.

Biết mình không phải là việc đơn giản. Đó là kết quả của việc tiếp nhận lẽ thật, cũng như thực hành và trải nghiệm lời Đức Chúa Trời, và hiểu biết thật sự về bản thân chỉ có thể đạt được bằng cách chấp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời. Những ai chưa trải qua sự phán xét và hình phạt cùng lắm chỉ có thể thừa nhận lỗi lầm mình mắc phải và những việc mình làm sai. Sẽ rất khó để họ thấy rõ được thực chất bản tính của mình. Tại sao mặc dù những tín hữu trong Thời đại Ân điển đã ngừng phạm một số tội lỗi và thay đổi hành vi theo hướng tốt hơn, nhưng họ vẫn chưa bao giờ đạt được sự chuyển biến trong tâm tính sống của mình? Tại sao dù họ tin Đức Chúa Trời nhưng vẫn chống đối Ngài, thậm chí còn phản bội Ngài? Nhân loại bại hoại khó mà nhận ra được căn nguyên của vấn đề này. Tại sao tất cả mọi người lại có tâm tính Sa-tan? Đó là vì Sa-tan đã làm nhân loại bại hoại, và con người đã chấp nhận những lời dối trá cùng triết lý của nó. Đó là điều đã làm phát sinh tâm tính bại hoại, và đó là cách tâm tính của Sa-tan đã trở thành căn nguyên sự chống đối Đức Chúa Trời của con người. Đây là điều con người khó nhận ra nhất. Đức Chúa Trời đang làm công tác phán xét của Ngài trong thời kỳ sau rốt để cứu rỗi nhân loại khỏi ảnh hưởng của Sa-tan, cũng như để giải quyết căn nguyên tội lỗi và sự chống đối Đức Chúa Trời của nhân loại. Sa-tan đã làm nhân loại bại hoại hàng nghìn năm nay, và bản tính của nó đã ăn sâu vào lòng người. Do đó, không có loại tâm tính bại hoại nào có thể được giải quyết và loại bỏ chỉ bằng một, hai nỗ lực tự kiểm điểm và tự biết mình. Những tâm tính bại hoại bộc phát liên tục và lặp đi lặp lại, vì vậy con người cần phải tiếp nhận lẽ thật và tiến hành một trận chiến lâu dài với những tâm tính Sa-tan của mình cho đến khi chiến thắng được Sa-tan. Chỉ khi đó họ mới có thể hoàn toàn loại bỏ được những tâm tính bại hoại của mình. Vì vậy, con người phải không ngừng cầu nguyện với Đức Chúa Trời, tìm kiếm lẽ thật, tự phản tỉnh, biết mình và thực hành lẽ thật cho đến khi sự bại hoại không còn bộc phát từ họ, tâm tính sống của họ thay đổi, và họ đạt được sự quy phục Đức Chúa Trời. Chỉ khi đó họ mới được Đức Chúa Trời ưng thuận. Kết quả của từng trận chiến có thể chưa thấy rõ ngay, và sau đó ngươi có thể vẫn còn bộc lộ những tâm tính bại hoại. Ngươi có thể cảm thấy hơi tiêu cực và nản lòng nhưng không muốn bỏ cuộc, và ngươi vẫn có thể tiếp tục nỗ lực hết sức, hướng lên Đức Chúa Trời và dựa cậy nơi Ngài. Nếu ngươi kiên trì như thế hai, ba năm, ngươi sẽ thực sự có thể đưa lẽ thật vào thực hành và trong lòng ngươi sẽ cảm thấy bình an, vui vẻ. Khi đó ngươi sẽ thấy rõ mọi thất bại, mọi nỗ lực và mọi thành tựu ngươi đạt được đều là dấu hiệu tốt, cho thấy ngươi đang hướng tới sự biến chuyển tâm tính mình cũng như khiến Đức Chúa Trời đổi ý về ngươi. Mặc dù nhận thức của con người không thể cảm nhận được từng thay đổi, nhưng sự chuyển biến tâm tính đi kèm với mỗi lần quay đầu không thể nào đạt được bằng bất kỳ hành động hay điều gì khác. Đây là con đường một người phải đi để thay đổi tâm tính mình và bước vào sự sống. Đây là cách thực hành phải có để mưu cầu sự thay đổi tâm tính. Tất nhiên con người nên có hiểu biết chính xác về cách sự thay đổi tâm tính diễn ra: đó không phải là một sự thay đổi đột ngột, chấn động gây ngạc nhiên và thích thú như họ tưởng tượng. Nó không diễn ra như thế. Đó là vấn đề thay đổi một cách vô thức, từ từ, từng chút một. Khi một người có thể đưa lẽ thật vào thực hành, họ sẽ thấy được thành quả lao động của mình. Khi ngươi nhìn lại sau khi đã đi con đường này ba năm, năm năm, mười năm, ngươi sẽ ngạc nhiên khi phát hiện ra tâm tính mình đã thay đổi rất nhiều trong mười năm đó, rằng ngươi đã hoàn toàn khác. Có thể tính cách và tính khí ngươi chưa thay đổi, hoặc lối sống của ngươi, v.v. chưa thay đổi, nhưng tâm tính, trạng thái và hành vi ngươi bộc lộ sẽ khác hoàn toàn, như thể ngươi đã thực sự trở thành một con người khác. Vì sao lại xảy ra một sự thay đổi như vậy? Bởi vì trong mười năm đó, ngươi đã nhiều lần bị phán xét, hành phạt, tỉa sửa và xử lý, thử thách và tinh luyện bởi lời Đức Chúa Trời, và ngươi đã hiểu được nhiều lẽ thật. Bắt đầu sẽ là sự thay đổi trong quan điểm của ngươi về mọi sự, sự thay đổi trong nhân sinh quan và những giá trị của ngươi, tiếp theo là sự thay đổi trong tâm tính sống của ngươi, sự thay đổi trong nền tảng ngươi dựa vào để tồn tại – và khi những thay đổi này diễn ra, ngươi sẽ dần dần trở thành một con người khác, một con người mới. Mặc dù tính cách, tính khí, lối sống và thậm chí cả cách nói năng cũng như cách cư xử của ngươi có thể không đổi, nhưng ngươi đã chuyển biến tâm tính sống của mình, và chỉ riêng điều đó thôi đã là một sự thay đổi cơ bản, thực chất rồi. Các dấu hiệu của sự thay đổi tâm tính là gì? Nó biểu hiện cụ thể như thế nào? Nó bắt đầu từ sự thay đổi trong quan điểm của một người về mọi sự – đó là khi vô số quan điểm về mọi sự của người ngoại đạo mà một người chứa chấp thay đổi khi họ hiểu được lẽ thật, và những quan điểm đó ngày càng gần với lẽ thật của lời Đức Chúa Trời. Đây là giai đoạn đầu tiên của sự thay đổi tâm tính. Ngoài ra, thông qua việc tự phản tỉnh và tự biết mình, con người có thể chú tâm vào việc thực hành lẽ thật. Bằng cách suy ngẫm về những ý định, động cơ, suy nghĩ và tư tưởng, quan niệm, quan điểm và thái độ khác nhau nảy sinh trong lòng, họ có thể xác định được vấn đề của mình và bắt đầu cảm thấy hối hận về chúng. Sau đó, họ có thể phản bội xác thịt và đưa lẽ thật vào thực hành. Và khi làm như vậy, họ sẽ càng trân quý lời Đức Chúa Trời và lẽ thật hơn, đồng thời thừa nhận Đấng Christ là lẽ thật, đường đi và sự sống. Họ sẽ càng sẵn lòng đi theo Đấng Christ và quy phục Ngài, và họ sẽ cảm thấy Đức Chúa Trời bày tỏ lẽ thật để vạch trần, phán xét và hành phạt con người cũng như để thay đổi tâm tính bại hoại của con người, và rằng bằng cách làm như vậy, Đức Chúa Trời cứu rỗi và hoàn thiện con người theo một cách thực sự thực tế. Họ sẽ cảm thấy nếu không có sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời hay sự chu cấp và dẫn dắt của lời Ngài, con người sẽ không có cách nào đạt được sự cứu rỗi, cũng như không thể gặt hái được những phần thưởng như vậy. Họ sẽ bắt đầu yêu mến lời Đức Chúa Trời và sẽ cảm thấy phụ thuộc vào lời Đức Chúa Trời trong cuộc sống thực, cảm thấy họ cần lời Ngài chu cấp cho họ, hướng dẫn và mở đường cho họ. Lòng họ sẽ tràn ngập bình an, và khi có chuyện xảy đến, họ sẽ vô thức tìm kiếm lời Đức Chúa Trời để làm cơ sở cho mình, đồng thời tìm kiếm các nguyên tắc và con đường thực hành trong đó. Đây là một kết quả đạt được thông qua việc biết mình. Còn một kết quả khác: con người sẽ không còn đối xử với những sự bộc phát tâm tính bại hoại của mình bằng thái độ ngoan cố như trước nữa. Thay vào đó, họ sẽ có thể lắng lòng và lắng nghe lời Đức Chúa Trời bằng thái độ trung thực, và họ sẽ có thể tiếp nhận lẽ thật cũng như những điều tích cực. Điều này có nghĩa là khi bộc phát tâm tính bại hoại, họ sẽ không còn như trước nữa – ngoan cố, khó thuần phục, hung hăng điên cuồng, kiêu ngạo, xấc xược và xấu xa – thay vào đó, họ sẽ chủ động kiểm điểm bản thân và hiểu được những vấn đề thực sự của mình. Họ có thể không biết thực chất tâm tính bại hoại của mình là gì, nhưng họ sẽ có thể tĩnh tâm, cầu nguyện với Đức Chúa Trời và tìm kiếm lẽ thật, sau đó họ sẽ thừa nhận những vấn đề cũng như tâm tính bại hoại của mình, ăn năn với Đức Chúa Trời, và quyết tâm sau này hành xử khác đi. Đó hoàn toàn là một thái độ quy phục. Bằng cách này, họ sẽ có được tấm lòng quy phục Đức Chúa Trời. Bất cứ điều gì Đức Chúa Trời phán, bất cứ điều gì Đức Chúa Trời yêu cầu ở họ, bất cứ công tác gì Ngài làm hay môi trường nào Ngài sắp đặt cho họ, con người cũng dễ dàng quy phục. Những tâm tính bại hoại của họ sẽ không còn gây trở ngại quá lớn đối với họ, họ sẽ dễ dàng giải quyết và vượt qua được. Khi đó, họ sẽ dễ dàng đưa lẽ thật vào thực hành và có thể quy phục Đức Chúa Trời. Đây là những dấu hiệu của sự thay đổi tâm tính. Khi người ta có thể đưa lẽ thật vào thực hành và thực sự quy phục Đức Chúa Trời, thì công bằng mà nói, tâm tính sống của họ đã trải qua một sự thay đổi – một sự thay đổi thực sự, một sự thay đổi đạt được hoàn toàn thông qua việc mưu cầu lẽ thật. Và tất cả những hành vi nảy sinh nơi con người trong quá trình này, dù là hành vi tích cực hay sự tiêu cực và yếu đuối thông thường, cũng đều là tất yếu và không thể ngừng được. Vì có những hành vi tích cực nên cũng phải có những hành vi tiêu cực và yếu đuối – nhưng sự tiêu cực và yếu đuối chỉ là tạm thời. Một khi đã sở hữu vóc giạc nhất định, một người sẽ có ít trạng thái tiêu cực, yếu đuối hơn và ngày càng có nhiều hành vi cùng sự bước vào tích cực, đồng thời hành động của họ sẽ ngày càng có nguyên tắc. Một người như vậy là người vâng lời Đức Chúa Trời, và là người có tâm tính sống thay đổi sau khi những tâm tính bại hoại của họ đã được làm tinh sạch. Có thể nói đây là những kết quả mà người mưu cầu lẽ thật đạt được thông qua việc trải nghiệm sự phán xét và hình phạt của lời Đức Chúa Trời, cũng như qua nhiều lần bị tỉa sửa và xử lý, thử thách cũng như tinh luyện.

Vì giờ đây tất cả mọi người đều đã nghe và hiểu các quá trình cụ thể, thông thường để mưu cầu lẽ thật, nên họ không còn bịa ra những lời biện minh hoặc bào chữa khác nhau cho lý do tại sao họ chán ghét lẽ thật, chống đối hay không mưu cầu lẽ thật. Sau khi hiểu được những lẽ thật này và thấy rõ được vấn đề này, giờ các ngươi đã phân định được những lời biện minh và bào chữa người ta đưa ra để không mưu cầu lẽ thật chưa? Một người lớn tuổi nói: “Tôi già rồi. Tôi không còn khí phách hay nhiệt tình như thanh niên. Theo tuổi tác, tôi đã mất đi sự hiếu thắng, tham vọng của tuổi trẻ, và không còn ngạo mạn nữa. Vậy nên anh nói tôi ngạo mạn là vớ vẩn – tôi không ngạo mạn!”. Họ có đúng không? (Thưa, không.) Rõ ràng là không. Giờ thì tất cả các ngươi đều đã phân định được những lời như thế. Các ngươi sẽ có thể vạch trần người đó và nói: “Dù bác lớn tuổi rồi nhưng bác vẫn còn tâm tính ngạo mạn. Bác cả đời ngạo mạn mà chưa bao giờ giải quyết được điều đó. Bác có muốn tiếp tục ngạo mạn nữa không?”. Một số người trẻ tuổi thì nói: “Tôi còn quá trẻ, chưa từng trải những sự hỗn độn trong xã hội hay vật lộn và phiêu bạt trong các nhóm khác nhau. Tôi không có kinh nghiệm của những người từng đi khắp thế gian – và quan trọng hơn là tất nhiên tôi không phải là người láu cá hay gian dối như những con cáo già đó. Là người trẻ tuổi nên việc tôi có chút tâm tính ngạo mạn cũng là bình thường; chí ít tôi không toan tính, lừa lọc và xấu xa như người già”. Nói vậy có phù hợp không? (Thưa, không.) Ai cũng có tâm tính bại hoại. Việc này chẳng liên quan gì đến tuổi tác hay giới tính cả. Người khác có gì ngươi có nấy, ngươi có gì người khác có nấy. Không cần ai phải chỉ tay ai. Dĩ nhiên, chỉ đơn thuần thừa nhận mọi người đều có tâm tính bại hoại thôi thì chưa đủ. Vì các ngươi đã thừa nhận mình có tâm tính bại hoại, nên các ngươi phải tìm kiếm lẽ thật để giải quyết nó – các ngươi sẽ không đạt được mục tiêu của mình cho đến khi đạt được lẽ thật và tâm tính thay đổi. Việc giải quyết tâm tính bại hoại cuối cùng phụ thuộc vào việc các ngươi tiếp nhận lẽ thật, buông bỏ những lời biện minh và bào chữa của mình, và có thể đối mặt với tâm tính bại hoại của mình một cách đúng đắn. Các ngươi không được né tránh hoặc trốn tránh bằng những lời bào chữa, và chắc chắn không được chối bỏ nó. Đây là những điều dễ đạt được. Điều khó làm nhất là gì? Ta có thể nghĩ đến một việc. Có những người nói rằng: “Cứ nói tôi mưu cầu hay không mưu cầu lẽ thật đi, cứ nói tôi không yêu lẽ thật hay tôi chán ghét lẽ thật đi, cứ phơi bày là tôi có tâm tính bại hoại đi – mặc kệ anh. Tôi làm bất cứ điều gì nhà Đức Chúa Trời yêu cầu tôi hay bất cứ công việc nào cần làm. Tôi lắng nghe trong những bài giảng và những buổi nhóm họp, tôi đọc theo khi mọi người ăn uống lời Đức Chúa Trời, tôi ngồi xem video chứng ngôn kinh nghiệm bên cạnh mấy người, và tôi ăn khi mấy người ăn. Tôi theo sát bước mấy người. Ai trong số mấy người có thể nói là tôi không mưu cầu lẽ thật chứ? Đây là cách tôi tin, nên mấy người có thể nói hay làm gì thì tùy, tôi không quan tâm!”. Kiểu người này giả vờ là không đưa ra lời bào chữa hay biện minh, nhưng cũng không có ý định mưu cầu lẽ thật. Như thể công tác cứu rỗi của Đức Chúa Trời chẳng liên quan gì đến họ, như thể họ không cần đến điều đó. Loại người này không nói hẳn ra là “Nhân tính của tôi tốt, tôi thực sự tin nơi Đức Chúa Trời, tôi sẵn lòng từ bỏ mọi thứ, tôi có thể chịu khổ và trả giá. Tôi có cần phải chấp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời nữa không?”. Họ không nói hẳn ra như vậy, họ không có thái độ rõ ràng với lẽ thật, và bề ngoài họ không lên án công tác của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đối xử như thế nào với những người như vậy? Nếu họ không mưu cầu lẽ thật, nếu họ rất thờ ơ với lời Đức Chúa Trời và phớt lờ chúng, thì thái độ của Đức Chúa Trời với họ rất rõ ràng. Giống như câu trong Kinh Thánh: “Vậy, vì ngươi hâm hẩm, không nóng cũng không lạnh, nên ta sẽ nhả ngươi ra khỏi miệng ta” (Khải Huyền 3:16). Đức Chúa Trời không muốn họ và thế là có rắc rối rồi. Những người như vậy có trong hội thánh không? (Thưa, có.) Vậy họ sẽ được phân loại như thế nào? Họ nên được phân loại vào đâu? Không cần phải phân loại họ. Tóm lại, những người như vậy không mưu cầu lẽ thật. Họ không tiếp nhận lẽ thật hay suy ngẫm và biết mình, và họ không có tấm lòng ăn năn – thay vào đó họ có đức tin mù mờ và mơ hồ vào Đức Chúa Trời. Họ làm bất cứ điều gì nhà Đức Chúa Trời yêu cầu mà không gây ra sự nhiễu loạn hay gián đoạn nào. Hỏi họ là: “Anh chị có quan niệm gì không?” “Không.” “Anh chị có tâm tính bại hoại gì không?” “Không.” “Anh chị có muốn đạt được sự cứu rỗi không?” “Tôi không biết.” “Anh chị có thừa nhận rằng lời Đức Chúa Trời là lẽ thật không?” “Tôi không biết”. Hỏi gì họ cũng nói không biết. Những người này có vấn đề không? (Thưa, có.) Có vấn đề, nhưng họ cảm thấy đó không phải là vấn đề và không cần phải giải quyết. Kinh Thánh có nói: “Vậy, vì ngươi hâm hẩm, không nóng cũng không lạnh, nên Ta sẽ nhả ngươi ra khỏi miệng Ta”. Câu “Ta sẽ nhả ngươi ra khỏi miệng Ta” – là nguyên tắc để xử lý những người như vậy; đây là kết quả đến với họ. Không lạnh cũng không nóng nghĩa là những người này không có bất kỳ quan điểm gì; nghĩa là dù ngươi có thông công về những vấn đề thay đổi tâm tính hay sự cứu rỗi như thế nào, họ vẫn thờ ơ. “Thờ ơ” ở đây nghĩa là gì? Nghĩa là họ không quan tâm đến những vấn đề như vậy và không muốn nghe về chúng. Một số người có thể nói “Không có quan điểm hay bộc phát sự bại hoại thì có gì sai chứ?”. Thật quá vớ vẩn! Đây là những kẻ đã chết, không có linh hồn, không lạnh cũng không nóng, và Đức Chúa Trời không có cách nào làm công tác trên họ được. Đối với những kẻ không thể được cứu rỗi, Đức Chúa Trời chỉ việc nhả họ ra là xong. Ngài không làm công tác trên họ, và chúng ta sẽ không đánh giá gì những người như vậy, chúng ta chỉ việc mặc kệ họ. Nếu có những người như thế trong hội thánh, họ có thể ở lại miễn là không gây ra bất kỳ sự nhiễu loạn nào – nếu gây ra, họ sẽ bị thanh lọc. Dễ giải quyết thôi. Lời Ta hướng đến những người có thể tiếp nhận lẽ thật, những người mong muốn mưu cầu lẽ thật và có thái độ rõ ràng về lẽ thật, những người thừa nhận mình có tâm tính bại hoại và có thể được cứu rỗi; lời Ta nhắm vào những người có thể hiểu lời Đức Chúa Trời và nghe được tiếng Ngài, nhắm vào chiên của Đức Chúa Trời – đó là những người mà lời Đức Chúa Trời hướng đến. Lời Đức Chúa Trời không hướng đến những người không lạnh cũng không nóng với Ngài. Những kẻ như vậy không quan tâm đến lẽ thật, không lạnh cũng không nóng về công tác và lời của Đức Chúa Trời. Cách xử lý những kẻ như thế là nói: “Đi đi. Ngươi như thế nào không liên quan gì đến Ta” – mặc kệ họ và không phí sức với họ.

Chúng ta vừa thông công về một số ví dụ tiêu cực liên quan đến chủ đề mưu cầu lẽ thật. Mọi người thường vô thức nghĩ ra đủ mọi lý do biện minh, bào chữa cũng như viện cớ để phủ nhận sự bộc phát những tâm tính bại hoại của mình – dĩ nhiên là họ cũng thường che giấu sự tồn tại của những tâm tính bại hoại trong mình, lừa dối bản thân và người khác. Đây là những cách dại dột và ngu xuẩn của con người. Một mặt, mọi người thừa nhận rằng tất cả những lời Đức Chúa Trời phán xét con người đều là lẽ thật; mặt khác, họ phủ nhận sự tồn tại của những tâm tính bại hoại trong bản thân mình, cũng như những hành vi sai trái vi phạm lẽ thật của mình. Đây là dấu hiệu rõ ràng của việc họ không tiếp nhận lẽ thật. Bất kể ngươi phủ nhận hay thừa nhận việc mình có tâm tính bại hoại, hay bất kể ngươi đưa ra lời bào chữa, biện minh hay lập luận có vẻ hợp lý cho việc bộc phát hành vi bại hoại của mình – tóm lại, nếu ngươi không tiếp nhận lẽ thật, ngươi không thể nhận được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Đây là điều không phải bàn cãi. Bất cứ ai hoàn toàn không mưu cầu lẽ thật cuối cùng sẽ bị vạch trần và loại bỏ, dù cho họ đã là một tín hữu bao nhiêu năm đi nữa. Kết cục này thật khủng khiếp. Chẳng bao lâu nữa tai họa sẽ giáng xuống và ngươi sẽ bị phơi bày, và khi tai họa ập đến, ngươi sẽ thấy sợ hãi. Ngươi có thể có nhiều lý do biện minh và vô số lý do bào chữa, hoặc có thể là ngươi ngụy trang và che đậy kỹ càng, nhưng có một sự thật không thể phủ nhận: tâm tính bại hoại của ngươi còn nguyên, chưa hề thay đổi chút nào. Ngươi không thể thực sự biết mình, ngươi không có khả năng thực sự ăn năn, và cuối cùng ngươi sẽ không thể thực sự quay đầu và vâng phục Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời sẽ không đổi ý về ngươi. Khi đó chẳng phải ngươi sẽ gặp rắc rối lớn sao? Ngươi sẽ có nguy cơ bị loại bỏ. Đó là lý do tại sao một người khôn ngoan sẽ bỏ những lời bào chữa thiếu khôn ngoan cùng những lời biện minh ngu ngốc này cũng như rũ bỏ lớp ngụy trang và vỏ bọc của mình. Họ sẽ đối mặt một cách đúng đắn với tâm tính bại hoại mình bộc phát và sử dụng các phương pháp đúng đắn để xử lý và giải quyết chúng, cố gắng khiến mọi việc họ làm và thể hiện đều là những việc lành, để Đức Chúa Trời đổi ý về họ. Nếu Đức Chúa Trời đổi ý về ngươi, điều này chứng tỏ Ngài đã thực sự tha thứ cho ngươi về sự dấy loạn và chống đối trước đây của ngươi. Ngươi sẽ cảm thấy bình an và vui vẻ, và sẽ không còn cảm thấy ức chế, như thể trút bỏ được một gánh nặng. Cảm giác này là sự xác nhận trong tâm hồn ngươi; giờ ngươi đã có hy vọng được cứu rỗi. Hy vọng này là thứ ngươi đã đánh đổi bằng cái giá ngươi phải trả để mưu cầu lẽ thật và làm những việc lành. Đó là kết quả ngươi đạt được bằng cách mưu cầu lẽ thật và chuẩn bị những việc lành. Ngược lại, ngươi có thể nghĩ rằng mình đã đủ khôn ngoan rồi, và ngươi có thể tìm ra nhiều lý do biện minh để bào chữa và minh oan cho bản thân mỗi khi ngươi bộc phát sự bại hoại. Ngươi có thể ngụy trang và che đậy tâm tính bại hoại của mình, nhờ đó khéo léo tránh được việc phải suy ngẫm và nhận biết nó, như thể ngươi đã không bộc phát bất kỳ sự bại hoại nào. Ngươi có thể cho rằng mình thật khôn ngoan, né tránh được hết lần này đến lần khác việc bị vạch trần bởi các môi trường khác nhau mà Đức Chúa Trời đã sắp đặt. Ngươi đã không tự phản tỉnh hay tự biết mình, ngươi đã không đạt được lẽ thật, và ngươi đã bỏ lỡ nhiều cơ hội được Đức Chúa Trời làm cho hoàn thiện. Hậu quả của việc này là gì? Giờ hãy tạm gác việc liệu ngươi có khả năng ăn năn hay đạt được sự cứu rỗi hay không sang một bên, cứ cho rằng nếu Đức Chúa Trời ban cho ngươi cơ hội ăn năn hết lần này đến lần khác, và chưa từng có lần nào thôi thúc được ngươi thay đổi suy nghĩ của mình, thì ngươi sẽ gặp rắc rối lớn đấy. Ngươi tự bào chữa cho mình giỏi như thế nào, ngươi giỏi thể hiện bản thân như thế nào, ngươi ngụy trang bản thân giỏi ra sao, ngươi bào chữa và biện minh cho mình hay ra sao thì quan trọng gì chứ? Nếu Đức Chúa Trời đã ban cho ngươi cơ hội hết lần này đến lần khác, và điều này thậm chí còn không thôi thúc ngươi thay đổi suy nghĩ của mình, thì ngươi gặp nguy rồi. Ngươi có biết mối nguy hiểm đó là gì không? Ngươi cứ ngoan cố bào chữa cho tâm tính bại hoại của mình, đưa ra những lời bào chữa và biện minh cho việc không mưu cầu lẽ thật, chống đối và bác bỏ sự phán xét của Đức Chúa Trời và công tác của Ngài, ấy thế mà ngươi nghĩ bản thân mình hoàn toàn ổn và tin rằng lương tâm mình trong sáng. Ngươi từ chối chấp nhận việc bị nhà Đức Chúa Trời giám sát, tỉa sửa và xử lý, hết lần này đến lần khác né tránh sự phán xét, hình phạt và sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời với một lòng dạ đầy sự phản nghịch Ngài – Đức Chúa Trời đã ghê tởm ngươi và Ngài đã bỏ rơi ngươi rồi, ấy thế nhưng ngươi vẫn nghĩ mình có thể được cứu rỗi. Ngươi có biết rằng ngươi đã lún ngày càng sâu hơn vào con đường sai trái và rằng ngươi đã vô phương cứu chuộc không? Đức Chúa Trời ngự trị trong nhà Đức Chúa Trời. Ngươi có nghĩ ngươi nằm ngoài quyền năng hoặc thẩm quyền của Đức Chúa Trời khi ngươi chống đối Ngài và làm đủ mọi điều ác không? Ngươi không chấp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời, ngươi đã không đạt được lẽ thật và sự sống, và ngươi hoàn toàn không có chứng ngôn kinh nghiệm. Đức Chúa Trời kết tội ngươi vì điều này. Ngươi đang tự chuốc lấy tai họa cho chính mình. Đấy không có gì là khôn ngoan cả – mà là ngu dại, cực kỳ ngu dại! Thật là thảm họa! Chúng ta đã trình bày điều này ở đây – nếu ngươi không tin, cứ chờ xem. Tốt hơn hết ngươi không nên nghĩ rằng nếu ngươi có rất nhiều lý do biện minh cho việc không mưu cầu lẽ thật, và ngươi có tài ăn nói cũng như mưu mô, rằng nếu không ai có thể phản bác lại ngươi và các anh chị em không thể vạch trần ngươi, và rằng nếu hội thánh không có lý do gì để thanh trừ ngươi, thì nhà Đức Chúa Trời hoàn toàn không thể làm gì được ngươi. Ngươi sai rồi. Ngươi cứ tranh đấu với Đức Chúa Trời; để Ta xem ngươi có thể đua tranh với Ngài được bao lâu! Liệu ngươi có thể đua tranh được với Ngài cho đến ngày Đức Chúa Trời thưởng thiện phạt ác sau khi công tác của Ngài hoàn thành không? Liệu ngươi có thể đảm bảo rằng mình sẽ không chết trong thảm họa – rằng ngươi sẽ sống sót qua thảm họa không? Ngươi có thực sự có quyền tối thượng đối với số phận của chính mình không? Những lời biện minh và bào chữa của ngươi có thể khiến ngươi thoát được sự điều tra của nhà Đức Chúa Trời trong một thời gian; chúng có thể cho phép ngươi dây dưa sự tồn tại ô nhục của mình một thời gian. Ngươi có thể tạm thời làm lòa mắt mọi người, và tiếp tục ngụy trang, lừa dối người khác trong hội thánh và giành lấy một chỗ trong đó – nhưng ngươi không thể thoát được sự kiểm tra và dò xét của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời quyết định kết cục của một con người dựa trên việc liệu họ có lẽ thật hay không; Ngài thực hiện công tác của chính mình và tự đập lúa. Dù ngươi là loại người nào hay loại ma quỷ nào, ngươi cũng không thể thoát khỏi sự phán xét và kết án của Đức Chúa Trời. Ngay khi dân sự được Đức Chúa Trời chọn hiểu được lẽ thật và có sự phân định thì không một ai có thể trốn thoát được, đó là lúc ngươi sẽ bị thanh trừ khỏi hội thánh. Một số người có thể hoài nghi và lầm bầm: “Tôi đã chạy ngược xuôi rất nhiều vì Đức Chúa Trời, làm rất nhiều việc cho Ngài, và trả giá đắt như vậy. Tôi từ bỏ gia đình và hôn nhân; tôi dâng tuổi thanh xuân của mình cho Đức Chúa Trời và công tác của Ngài. Tôi từ bỏ sự nghiệp và tiêu tốn sức lực nửa đời mình, nghĩ rằng mình nhất định sẽ đạt được phước lành Ngài ban cho. Tôi chưa bao giờ ngờ rằng mình sẽ bị đào thải vì không mưu cầu lẽ thật và không bao giờ thực hành lẽ thật!”. Ngươi không biết rằng lẽ thật ngự trị trong nhà Đức Chúa Trời sao? Ngươi không rõ Đức Chúa Trời ban thưởng cho ai và ban phước cho ai sao? Nếu sự từ bỏ và dâng mình của ngươi đã dẫn đến chứng ngôn kinh nghiệm thực sự, và chúng cũng làm chứng cho công tác của Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời sẽ ban thưởng và ban phước cho ngươi. Nếu sự từ bỏ và dâng mình của ngươi không phải là chứng ngôn kinh nghiệm thực sự, và càng không phải là chứng ngôn cho công tác của Đức Chúa Trời, nếu thay vào đó chúng lại là chứng ngôn cho chính ngươi, một yêu cầu xin Đức Chúa Trời công nhận thành tích của ngươi, thì ngươi đang đi trên con đường giống như Phao-lô. Những gì ngươi đang làm là xấu xa và chống đối Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời sẽ phán với ngươi: “Tránh xa Ta ra, kẻ hành ác!”. Và điều này có nghĩa gì? Nó sẽ là bằng chứng cho thấy ngươi bi thảm rồi, chắc chắn sẽ bị rơi vào thảm họa và bị trừng phạt. Ngươi sẽ gặp thảm họa. Phao-lô vượt trội hơn người thường cùng thời về địa vị, công việc ông đã làm, năng lực và ân tứ của ông – nhưng kết quả thì sao? Từ đầu chí cuối trong đức tin của Phao-lô nơi Đức Chúa Trời, ông cố thỏa thuận với Đức Chúa Trời, đặt ra các điều kiện; ông đòi hỏi phần thưởng và mão triều thiên từ Đức Chúa Trời. Cuối cùng, ông đã không thực sự ăn năn hay chuẩn bị nhiều việc lành – và lẽ tất nhiên là ông còn xa mới sở hữu được nhiều chứng ngôn kinh nghiệm thực sự. Liệu ông có thể nhận được sự tha thứ của Đức Chúa Trời mà thậm chí không thực sự ăn năn không? Liệu ông có thể khiến Đức Chúa Trời đổi ý về ông không? Điều đó là không thể. Phao-lô đã dành cả cuộc đời mình cho Chúa, nhưng vì ông đã đi trên con đường của một kẻ địch lại Đấng Christ và tuyệt đối không chịu ăn năn, nên ông không những không được ban thưởng – mà còn bị Đức Chúa Trời trừng phạt. Hiển nhiên hậu quả ông phải gánh chịu thật thảm khốc. Vì vậy, giờ Ta nói rõ với ngươi rằng nếu ngươi không phải là người mưu cầu lẽ thật, thì chí ít ngươi nên có một chút lý trí và đừng tranh luận với Đức Chúa Trời hay đánh cược kết cục và đích đến của ngươi như thể đánh bạc. Đó là cố thỏa thuận với Đức Chúa Trời, đó là một cách chống đối Ngài. Kết cục tốt đẹp nào có thể đến với những người tin vào Đức Chúa Trời nhưng lại chống đối Ngài? Mọi người trở nên ngoan ngoãn khi đối mặt với cái chết; những kẻ vô tri sẽ không rơi nước mắt cho đến khi nhìn thấy quan tài. Để được cứu rỗi, cách tốt nhất, đơn giản nhất và khôn ngoan nhất là bỏ tất cả những lời bào chữa, biện minh và điều kiện của ngươi đi, đồng thời chấp nhận và mưu cầu lẽ thật một cách thiết thực, nhờ đó khiến Đức Chúa Trời đổi ý về ngươi. Khi Đức Chúa Trời đổi ý về ngươi, ngươi có hy vọng được cứu rỗi. Hy vọng được cứu rỗi của con người là do Đức Chúa Trời ban cho, và điều kiện tiên quyết để Đức Chúa Trời ban cho ngươi hy vọng này là ngươi phải buông bỏ mọi thứ ngươi trân quý và từ bỏ tất cả để đi theo Ngài cũng như mưu cầu lẽ thật, mà không cố thỏa thuận với Ngài. Không quan trọng ngươi già hay trẻ, là đàn ông hay đàn bà, có học thức hay thất học, cũng không quan trọng ngươi sinh ra ở đâu. Đức Chúa Trời không nhìn vào những điều này. Ngươi có thể nói: “Tôi có tính khí tốt. Tôi kiên nhẫn, khoan dung và nhân ái. Nếu tôi cứ kiên nhẫn cho đến cùng thì điều đó sẽ khiến Đức Chúa Trời đổi ý về tôi”. Những điều đó là vô ích. Đức Chúa Trời không nhìn vào tính khí, tính cách, trình độ học vấn hay tuổi tác của ngươi, cũng không quan trọng ngươi đã chịu khổ bao nhiêu hay đã làm được bao nhiêu công việc. Đức Chúa Trời sẽ hỏi ngươi: “Trong suốt những năm ngươi có đức tin, tâm tính ngươi đã thay đổi chưa? Ngươi đang sống theo điều gì? Ngươi đã mưu cầu lẽ thật chưa? Ngươi đã tiếp nhận lời Đức Chúa Trời chưa?”. Ngươi có thể thưa: “Con đã nghe và tiếp nhận rồi”. Sau đó Đức Chúa Trời sẽ hỏi ngươi: “Ngươi đã lắng nghe và tiếp nhận chúng, thế thì tâm tính bại hoại của ngươi đã được giải quyết chưa? Ngươi đã thực sự ăn năn chưa? Ngươi đã thực sự quy phục lời Đức Chúa Trời và tiếp nhận chúng chưa?”. Ngươi thưa rằng: “Con đã chịu khổ và phải trả giá; con đã dâng mình và từ bỏ mọi thứ, và con đã dâng của lễ – con cũng đã dâng các con của mình cho Đức Chúa Trời”. Tất cả những của lễ của ngươi đều vô ích. Những thứ như thế không thể đổi lấy phước lành của thiên quốc hoặc không thể dùng để khiến Đức Chúa Trời đổi ý về ngươi được. Cách duy nhất để khiến Đức Chúa Trời đổi ý về ngươi là dấn thân vào con đường mưu cầu lẽ thật. Không còn lựa chọn nào khác. Con người không được cơ hội hay quỷ quyệt khi nói đến sự cứu rỗi, và không có cửa sau đâu. Ngươi có hiểu không? Ngươi phải nắm rõ vấn đề này. Không được mù mờ về việc này – ngay cả nếu ngươi có vậy thì Đức Chúa Trời cũng không như vậy. Vậy từ giờ trở đi, ngươi nên làm gì? Hãy đảo ngược thái độ và thay đổi quan điểm của ngươi, và bất kể là ngươi đang làm gì, hãy để lời Đức Chúa Trời làm nền tảng cho mình. Không có “sự thiện lành” nào do con người tạo ra, không có lời bào chữa nào của con người, không có triết lý, kiến thức, luân lý, đạo đức, hay thậm chí là lương tâm của con người, cũng như cái gọi là nhân cách và phẩm giá của con người, có thể thay thế cho lẽ thật. Hãy gạt tất cả những điều này sang một bên, lắng lòng mình và tìm cơ sở cho mọi cách cư xử và hành động của người trong lời Đức Chúa Trời. Và khi ngươi làm vậy, hãy tìm trong lời Ngài sự mặc khải của Đức Chúa Trời về các khía cạnh khác nhau trong tâm tính bại hoại của con người. Hãy soi mình vào đó và giải quyết những tâm tính bại hoại của ngươi. Hãy nỗ lực để biết mình càng sớm càng tốt, loại bỏ sự bại hoại, và mau chóng ăn năn, quay đầu. Hãy buông bỏ sự tà ác của ngươi và tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật trong cách cư xử và hành động của mình, tất cả đều dựa trên lời Đức Chúa Trời – ngươi tuyệt đối không được dựa trên những quan niệm và tưởng tượng của con người. Ngươi tuyệt đối không được cố thỏa thuận với Đức Chúa Trời; ngươi không được cố đổi những đau khổ và hy sinh tầm thường của mình lấy phần thưởng và phước lành của Đức Chúa Trời. Đừng làm những điều ngu dại như vậy nữa, kẻo Đức Chúa Trời sẽ nổi giận với ngươi, rủa sả ngươi và triệt hạ ngươi. Rõ chưa? Các ngươi đã hiểu điều này chưa? (Thưa, đã hiểu.) Thế thì từ nay trở đi phải suy ngẫm kỹ vào.

Tất cả mọi điều chúng ta vừa thông công đều liên quan đến việc mưu cầu lẽ thật, và mặc dù không đưa ra câu trả lời cụ thể cho câu hỏi mang tính khái niệm rằng mưu cầu lẽ thật là gì, nhưng chúng ta đã tham gia một vài mối thông công nhằm vào những hiểu lầm và hiểu sai khác nhau của con người về việc mưu cầu lẽ thật, cũng như những khó khăn và vấn đề khác nhau tồn tại khi một người mưu cầu lẽ thật. Để kết thúc, Ta sẽ tóm tắt mưu cầu lẽ thật là gì, những biểu hiện của việc mưu cầu lẽ thật, và chính xác thì con đường thực hành để mưu cầu lẽ thật là gì. Vậy mưu cầu lẽ thật là gì? Mưu cầu lẽ thật là bắt đầu thực hành và trải nghiệm lời Đức Chúa Trời, sau đó đạt được sự hiểu biết về lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật thông qua quá trình trải nghiệm lời Đức Chúa Trời, đồng thời trở thành một người thực sự biết và vâng lời Đức Chúa Trời. Đó là kết quả cuối cùng đạt được khi mưu cầu lẽ thật. Tất nhiên, mưu cầu lẽ thật là một quá trình gồm nhiều bước và được chia thành nhiều giai đoạn. Khi ngươi đã đọc lời Đức Chúa Trời và thấy chúng là lẽ thật và thực tế, ngươi sẽ bắt đầu phản tỉnh về bản thân trong lời Đức Chúa Trời và có được hiểu biết về bản thân. Ngươi sẽ thấy mình quá dấy loạn và bộc lộ quá nhiều sự bại hoại. Ngươi sẽ khao khát có thể đưa lẽ thật vào thực hành và đạt được sự quy phục Đức Chúa Trời, và ngươi sẽ bắt đầu phấn đấu hướng tới lẽ thật. Đó chính xác là kết quả của việc tự phản tỉnh và tự biết mình. Từ đó trở đi, kinh nghiệm sự sống của ngươi bắt đầu có. Khi ngươi bắt đầu tìm hiểu và xem xét các trạng thái và vấn đề phát sinh từ tâm tính bại hoại của mình, điều này chứng tỏ ngươi đã bắt đầu mưu cầu lẽ thật. Ngươi sẽ có thể chủ động suy ngẫm và xem xét bất kỳ vấn đề nào nảy sinh hay bất kỳ sự bại hoại nào mình bộc lộ. Và khi ngươi nhận ra chúng thực sự là sự bộc phát sự bại hoại và tâm tính bại hoại, ngươi sẽ tự nhiên tìm kiếm lẽ thật và bắt đầu giải quyết những vấn đề đó. Lối vào sự sống khởi đầu từ việc tự phản tỉnh; đó là bước đầu tiên trong việc mưu cầu lẽ thật. Ngay sau đó, thông qua việc tự phản tỉnh và tự biết mình, ngươi sẽ thấy tất cả những lời phơi bày của Đức Chúa Trời đều phù hợp với sự thật. Sau đó, ngươi sẽ có thể quy phục chúng từ tận đáy lòng mình, và chấp nhận sự phán xét cũng như hình phạt của lời Đức Chúa Trời. Đó là bước thứ hai trong việc mưu cầu lẽ thật. Hầu hết mọi người đều có thể chấp nhận những lời Đức Chúa Trời vạch trần những hành vi bại hoại của con người, nhưng lại không thể dễ dàng chấp nhận những lời Đức Chúa Trời vạch trần thực chất bại hoại của con người. Sau khi đọc lời Đức Chúa Trời, họ không thừa nhận mức độ bại hoại sâu sắc của chính mình; họ chỉ thừa nhận những lời Đức Chúa Trời vạch trần hành vi bại hoại của con người. Chính vì vậy, trong thâm tâm, họ không thể chấp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời. Thay vào đó, họ gạt sang một bên. Một số người nói: “Tôi chỉ có một vài hành vi bại hoại nhưng tôi có thể làm một số việc lành. Tôi là người lành, tôi không thuộc về Sa-tan. Tôi tin Đức Chúa Trời nên tôi thuộc về Đức Chúa Trời”. Đây chẳng phải là điều vớ vẩn sao? Ngươi sinh ra trong thế giới con người, ngươi sống dưới sự ảnh hưởng của Sa-tan, và ngươi được giáo dục theo văn hóa truyền thống. Di sản tự nhiên và kiến thức ngươi học được đến từ Sa-tan. Tất cả những vĩ nhân và người nổi tiếng ngươi tôn sùng đều thuộc về Sa-tan. Nói rằng ngươi không thuộc về Sa-tan có giúp ngươi thoát khỏi sự bại hoại của nó không? Giống như việc trẻ nhỏ mở miệng ra là có thể nói dối và xúc phạm người khác. Ai dạy chúng làm thế? Không ai cả. Đó chẳng phải là hậu quả của sự bại hoại của Sa-tan thì là gì? Những điều này là sự thật. Con người không thể nhìn thấy Sa-tan và các tà linh của linh giới, nhưng ma quỷ sống và quỷ vương ở khắp mọi nơi trong thế giới loài người. Tất cả bọn chúng đều là hiện thân của Sa-tan. Đây là thực tế ai cũng phải thừa nhận. Những người hiểu lẽ thật có thể nhìn thấu những điều này, và họ có thể thừa nhận tất cả những lời vạch trần của Đức Chúa Trời đều là sự thật. Một số người có thể nói về việc biết bản thân họ, nhưng họ không bao giờ thừa nhận những sự bại hoại lời Đức Chúa Trời phơi bày là sự thật, hay thừa nhận lời Ngài là lẽ thật. Điều này tương đương với việc không thể chấp nhận lẽ thật. Nếu một người không thừa nhận sự thật rằng họ có tâm tính bại hoại, họ sẽ không thể thực sự ăn năn. Tất nhiên, một người phải trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời một thời gian để thừa nhận và chấp nhận sự thật là tất cả mọi người đều có tâm tính bại hoại. Sau khi bộc lộ nhiều tâm tính bại hoại, đương nhiên họ sẽ cúi đầu quy phục trước sự thật đó. Họ sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc thừa nhận rằng tất cả những lời Đức Chúa Trời mặc khải, phán xét và lên án con người đều là sự thật và lẽ thật, và hoàn toàn chấp nhận chúng. Đó là ý nghĩa của việc bị lời Đức Chúa Trời chinh phục. Khi con người có thể biết được những tâm tính bại hoại và thực chất bại hoại của mình trên cơ sở lời Đức Chúa Trời, đồng thời thừa nhận rằng họ có tâm tính Sa-tan và sự bại hoại của họ đã ăn sâu, thì sau đó họ có thể hoàn toàn chấp nhận và quy phục sự phán xét cùng hình phạt của Đức Chúa Trời. Họ sẽ sẵn sàng vâng phục những lời Đức Chúa Trời mặc khải và phán xét loài người, bất kể chúng nghiêm khắc hay nhức nhối đến đâu. Khi ngươi đã hiểu và biết một chút về cách lời Đức Chúa Trời định nghĩa, phân loại và lên án nhân loại bại hoại, cũng như cách chúng phán xét và vạch trần nhân loại bại hoại, khi ngươi đã thực sự chấp nhận sự phán xét và hình phạt của lời Đức Chúa Trời và đã bắt đầu biết tâm tính bại hoại cũng như thực chất bại hoại của chính mình, khi ngươi bắt đầu căm ghét tâm tính bại hoại của mình, Sa-tan, cùng xác thịt của chính mình – và khi ngươi khao khát đạt được lẽ thật, sống như một con người đúng nghĩa, và trở thành người thực sự quy phục Đức Chúa Trời – đó là lúc ngươi sẽ bắt đầu tập trung vào việc theo đuổi sự thay đổi trong tâm tính mình. Đây là bước thứ ba trong việc mưu cầu lẽ thật.

Thực sự biết mình là tự phản tỉnh và biết tâm tính bại hoại của mình dựa trên lời Đức Chúa Trời, từ đó có được hiểu biết về thực chất bại hoại của mình và sự thật về sự bại hoại của mình. Khi người ta làm điều này, họ sẽ thấy hoàn toàn rõ về mức độ bại hoại sâu sắc của nhân loại – họ sẽ thấy nhân loại không sống như con người đúng nghĩa, rằng nhân loại chỉ sống thể hiện ra những tâm tính bại hoại, và rằng nhân loại thậm chí không còn chút lương tâm hay lý trí nào. Họ sẽ thấy rằng quan điểm của con người về mọi sự đều thuộc về Sa-tan, và không có quan điểm nào là đúng hoặc phù hợp với lẽ thật, và rằng sở thích, sự mưu cầu và con đường họ chọn đều nhiễm độc tố của Sa-tan, và rằng tất cả những điều này đều chứa đựng những ham muốn ngông cuồng và ý định đạt được phước lành của con người. Họ sẽ thấy những tâm tính con người bộc lộ chính xác là tâm tính và thực chất bản tính của Sa-tan. Biết mình đến mức độ đó không phải là vấn đề đơn giản; nó chỉ có thể đạt được trên cơ sở lời Đức Chúa Trời. Nếu nó được thực hiện dựa trên cơ sở các lý thuyết đạo đức, câu nói và tư tưởng của văn hóa truyền thống, liệu người ta có thể đạt được hiểu biết thực sự về bản thân mình không? Tuyệt đối không. Tâm tính bại hoại của ngươi xuất phát từ bên trong những triết lý và lý thuyết Sa-tan này. Lấy những thứ thuộc về Sa-tan này làm nền tảng cho hiểu biết về bản thân mình chẳng phải ngớ ngẩn sao? Chẳng phải là vô nghĩa mù quáng sao? Do đó, sự hiểu biết về bản thân phải dựa trên lời Đức Chúa Trời. Chỉ có lời Đức Chúa Trời mới là lẽ thật, và chỉ có lời Đức Chúa Trời mới là tiêu chuẩn để đo lường mọi con người, sự việc và sự vật. Nếu ngươi thực sự thấy rằng lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, rằng chúng là cơ sở đúng đắn duy nhất để dựa vào đó đo lường mọi con người, sự việc và sự vật, thì ngươi sẽ có một con đường tiến lên. Khi đó ngươi có thể sống trong sự sáng, tức là sống trước Đức Chúa Trời. Khi con người có được hiểu biết thực sự về thực chất bại hoại của chính mình trong lời Đức Chúa Trời, thì sau đó họ sẽ cư xử và thực hành như thế nào? (Họ sẽ ăn năn.) Đúng thế. Khi người ta có được hiểu biết về thực chất bản tính của mình, tự nhiên sự hối hận sẽ nảy sinh trong lòng họ và họ sẽ bắt đầu ăn năn. Điều này có nghĩa là họ sẽ tìm cách loại bỏ những tâm tính bại hoại của mình và không còn sống theo những tâm tính Sa-tan nữa. Thay vào đó, họ sẽ sống và cư xử theo lời Đức Chúa Trời, đồng thời có khả năng quy phục sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời. Đây là ăn năn thực sự. Đây là bước thứ tư trong việc mưu cầu lẽ thật. Giờ tất cả các ngươi đã nắm rõ ăn năn thực sự là gì, vậy các ngươi nên thực hành như thế nào? Tập quay đầu. Điều này có nghĩa là từ bỏ những điều ngươi bám vào và cho là đúng, không sống theo tâm tính Sa-tan, và sẵn sàng thực hành lẽ thật theo lời Đức Chúa Trời. Đó là ý nghĩa của việc quay đầu. Cụ thể, trước tiên ngươi phải tự chối mình và dựa trên lời Đức Chúa Trời, xác định xem liệu những suy nghĩ, tư tưởng, hành động và việc làm của ngươi có phù hợp với lẽ thật hay không và chúng đã phát sinh như thế nào. Nếu ngươi xác định rằng những điều này thuộc về một tâm tính bại hoại và sinh ra từ triết lý của Sa-tan, thì ngươi phải có thái độ lên án và nguyền rủa chúng. Làm vậy có lợi cho việc phản bội xác thịt và Sa-tan. Đây là kiểu hành vi gì? Chẳng phải đó là phủ nhận, từ bỏ, loại bỏ và phản bội tâm tính bại hoại của ngươi sao? Phủ nhận những điều ngươi tin là đúng, buông bỏ lợi ích của mình, phản bội ý định sai trái của mình, do đó đạt được sự quay đầu lại không đơn giản như vậy, mà có nhiều chi tiết cụ thể. Nếu ngươi sẵn lòng ăn năn, nhưng ngươi chỉ nói mà không phủ nhận, từ bỏ, loại bỏ hoặc phản bội tâm tính bại hoại của mình, thì đây không phải là biểu hiện của sự ăn năn, và ngươi chưa thực sự bước vào sự ăn năn. Thực sự ăn năn biểu hiện ra như thế nào? Thứ nhất, ngươi phủ nhận những điều mà mình tin là đúng, chẳng hạn như những quan niệm và yêu cầu của ngươi đối với Đức Chúa Trời, cũng như những thứ như quan điểm của ngươi về mọi sự, phương pháp và cách thức giải quyết vấn đề, kinh nghiệm con người của ngươi, v.v. Phủ nhận tất cả những điều này là một sự thực hành cụ thể để ăn năn tận đáy lòng và hướng về Đức Chúa Trời. Ngươi chỉ có thể buông bỏ những điều sai trái khi đã nhìn thấu được chúng và phủ nhận chúng. Nếu ngươi không phủ nhận những điều này, mà vẫn tin rằng chúng là tốt và đúng, thì ngươi sẽ không thể buông bỏ chúng được, ngay cả khi người khác bảo ngươi làm vậy. Ngươi sẽ nói: “Tôi có học thức cao và giàu kinh nghiệm. Tôi tin những điều này là đúng, tại sao tôi phải buông bỏ chúng?”. Nếu ngươi bám vào đường lối của mình và khăng khăng làm như vậy, liệu ngươi có thể chấp nhận lẽ thật không? Không dễ chút nào. Nếu ngươi muốn đạt được lẽ thật, trước tiên ngươi phải phủ nhận những điều mình cho là đúng và tích cực, sau đó nhìn rõ bản chất của chúng là tiêu cực, rằng chúng bắt nguồn từ Sa-tan, rằng chúng đều là những ngụy biện nghe có vẻ hợp lý – và việc bám chấp vào những thứ của Sa-tan sẽ chỉ khiến ngươi hành ác, chống đối Đức Chúa Trời, và cuối cùng bị trừng phạt, hủy diệt. Nếu ngươi có thể thấy rõ những suy nghĩ và độc tố Sa-tan dùng để làm bại hoại con người có khả năng dẫn đến sự diệt vong của con người, thì ngươi sẽ có thể từ bỏ chúng hoàn toàn. Tất nhiên, phủ nhận, từ bỏ, loại bỏ, phản bội, v.v. đều là những thái độ và phương pháp người ta phải vận dụng để chống lại các thế lực và bản tính của Sa-tan, cũng như chống lại các triết lý, logic, suy nghĩ và quan điểm Sa-tan dùng để lừa dối con người. Chẳng hạn như: buông bỏ lợi ích của xác thịt; từ bỏ sở thích và sự theo đuổi của xác thịt; từ bỏ các triết lý, tư tưởng, dị giáo và ngụy biện của Sa-tan; phản bội ảnh hưởng của Sa-tan cùng các thế lực tà ác của nó. Toàn bộ loạt thực hành này đều là các phương pháp và con đường để mọi người có thể thực hành ăn năn. Để bước vào sự ăn năn thực sự, một người phải hiểu được rất nhiều lẽ thật, chỉ khi đó họ mới có thể hoàn toàn tự chối mình và phản bội xác thịt của mình. Chẳng hạn giả sử ngươi tin rằng mình là người hiểu biết và giàu kinh nghiệm, rằng mình phải là vốn liếng đối với nhà Đức Chúa Trời và phải được trọng dụng. Tuy nhiên, sau nhiều năm nghe giảng về lẽ thật và hiểu được một số lẽ thật, ngươi cảm thấy những hiểu biết và kiến thức của mình thật vô giá trị và không có chút ích lợi gì cho nhà Đức Chúa Trời. Ngươi nhận ra chính lẽ thật và lời Đức Chúa Trời mới có thể cứu rỗi con người, và chính lẽ thật mới có thể là sự sống của con người. Ngươi cảm thấy rằng cho dù một người có bao nhiêu kiến thức hay kinh nghiệm cũng không có nghĩa là họ sở hữu lẽ thật, và rằng cho dù những thứ của con người có phù hợp với quan niệm của con người như thế nào đi nữa, chúng cũng không phải là lẽ thật. Ngươi nhận ra tất cả chúng đều đến từ Sa-tan và đều là những thứ tiêu cực không liên quan gì đến lẽ thật. Bất kể ngươi có học thức, hiểu biết hay kinh nghiệm đến đâu, nếu ngươi không hiểu các vấn đề thuộc linh và không thể hiểu được lẽ thật thì cũng chẳng ích gì. Nếu phụng sự với tư cách lãnh đạo, ngươi sẽ không có thực tế lẽ thật, và ngươi sẽ không có khả năng giải quyết vấn đề. Nếu viết một bài chứng ngôn kinh nghiệm, ngươi sẽ không thể viết nên lời. Nếu làm chứng cho Đức Chúa Trời, ngươi sẽ không có hiểu biết về Ngài. Nếu rao truyền Phúc Âm, ngươi sẽ không thể thông công về lẽ thật để giải quyết quan niệm của mọi người. Nếu chăm tưới cho những người mới, ngươi sẽ không hiểu rõ lẽ thật về những khải tượng, và ngươi sẽ chỉ có thể rao giảng câu chữ giáo lý. Nếu không thể giải quyết được quan niệm của chính mình, làm sao ngươi có thể giải quyết được quan niệm của người mới? Ngươi không thể làm được gì trong công việc này – vậy ngươi có thể làm gì? Nếu yêu cầu ngươi lao động, ngươi sẽ nghĩ đó là sự lãng phí tài năng của ngươi. Ngươi nói rằng mình có tài, nhưng ngươi không thể xử lý bất kỳ nhiệm vụ nào, cũng như không thể làm tròn bất kỳ bổn phận nào – vậy thì chính xác ngươi có thể làm việc gì? Không phải là nhà Đức Chúa Trời không muốn sử dụng ngươi, mà là ngươi đã không thực hiện bổn phận mình phải làm. Ngươi không thể đổ lỗi cho hội thánh về chuyện đó. Ấy thế nhưng ngươi vẫn có thể nghĩ thầm: “Chẳng phải Đức Chúa Trời kỳ vọng quá nhiều ở con người sao? Những yêu cầu này nằm ngoài khả năng của mình. Tại sao lại đòi hỏi quá nhiều ở mình như vậy?”. Nếu ai đó chấp chứa một hiểu lầm lớn như vậy về Đức Chúa Trời thì chứng tỏ họ không có hiểu biết gì về Ngài và không hiểu chút lẽ thật nào. Nếu ngươi cảm thấy những quan điểm của mình là đúng và không cần phải đảo ngược, và nếu ngươi thừa nhận lời Đức Chúa Trời là lẽ thật trên lý thuyết, nhưng ngươi không thể buông bỏ những thứ rác rưởi mình đang bám vào, thì chứng tỏ ngươi chưa hiểu lẽ thật. Ngươi phải đến trước Đức Chúa Trời và tìm kiếm nhiều hơn về lẽ thật, và ngươi phải đọc nhiều lời Ngài hơn, lắng nghe nhiều bài giảng và thông công hơn, rồi ngươi sẽ dần dần hiểu ra lời Đức Chúa Trời là lẽ thật. Là con người, cách ngươi phải đối xử với lẽ thật và Đức Chúa Trời trước tiên là vâng phục. Đây là bổn phận bắt buộc của con người. Nếu ngươi có thể hiểu những điều này có nghĩa là ngươi đang quay đầu lại. Quay đầu lại là con đường thực hành ăn năn; đó là hoàn toàn từ bỏ những điều ngươi từng cho là đúng, những điều đến từ Sa-tan, và chọn lại con đường ngươi sẽ đi. Đó là đưa lời Đức Chúa Trời vào thực hành theo yêu cầu của Ngài cùng các nguyên tắc lẽ thật, và bước đi trên con đường mưu cầu lẽ thật. Đây là ý nghĩa của việc quay đầu lại. Đó là đã thực sự đến trước Đức Chúa Trời và đã bước vào thực tế của sự ăn năn. Khi người ta có thể đưa lẽ thật vào thực hành, hiển nhiên họ đã bắt đầu bước vào thực tế lẽ thật và thực sự ăn năn. Chỉ khi con người đã thực sự ăn năn mới có thể nói họ đã bắt đầu bước vào con đường hướng tới sự cứu rỗi. Làm như vậy là đã bước vào bước thứ tư trong việc mưu cầu lẽ thật.

Khi một người thực sự ăn năn, họ đã bắt đầu con đường mưu cầu lẽ thật, về cơ bản họ sẽ không chứa chấp những quan niệm hay hiểu lầm nào về công tác của Đức Chúa Trời, họ sẽ sẵn lòng quy phục sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời, và họ sẽ chính thức bắt đầu trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời. Có một giai đoạn chuyển tiếp dài từ lúc một người lần đầu tiên bắt đầu tin vào Đức Chúa Trời đến lúc họ chính thức trải qua sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời. Giai đoạn chuyển tiếp này là giai đoạn từ khi một người bắt đầu tin vào Đức Chúa Trời cho đến khi họ thực sự ăn năn. Nếu không yêu lẽ thật, người ta sẽ không chấp nhận một chút phán xét và hình phạt nào của Đức Chúa Trời, cũng như không chấp nhận một chút lẽ thật nào, và họ sẽ không bao giờ có khả năng biết mình. Những kẻ như vậy sẽ bị đào thải. Nếu thực sự yêu lẽ thật, thì khi đọc lời Đức Chúa Trời cũng như nghe các bài giảng, người ta sẽ có thể thực sự thu đạt được điều gì đó, và biết rằng công tác của Đức Chúa Trời là công tác cứu rỗi con người, đồng thời tự phản tỉnh và tự biết mình trong những lẽ thật họ hiểu được; họ sẽ ngày càng căm ghét những tâm tính bại hoại của chính mình và ngày càng quan tâm hơn đến lẽ thật, tự lúc nào không hay họ sẽ có được hiểu biết thực sự về bản thân mình, và họ sẽ thực sự hối hận, ăn năn. Khi những người yêu lẽ thật đọc lời Đức Chúa Trời hay nghe các bài giảng, họ sẽ tự nhiên đạt được những kết quả như vậy. Họ dần dần đi đến chỗ biết mình và đạt được sự ăn năn thực sự. Khi một người đã thực sự ăn năn, họ nên thực hành như thế nào? Họ nên tìm kiếm lẽ thật trong mọi sự; cho dù chuyện gì xảy đến, họ cũng phải có khả năng tìm ra các nguyên tắc và con đường thực hành dựa trên lời Đức Chúa Trời, rồi chuyển sang bắt đầu thực hành lẽ thật. Đây là bước thứ năm trong việc mưu cầu lẽ thật. Mục đích của việc tìm kiếm lẽ thật là gì? Để thực hành lẽ thật và đạt được sự quy phục Đức Chúa Trời. Nhưng để thực hành lẽ thật, người ta phải làm vậy theo các nguyên tắc lẽ thật. Chỉ như thế mới là thực hành lẽ thật chính xác; chỉ như thế mới khiến người ta được Đức Chúa Trời ưng thuận. Vậy có thể hành động theo các nguyên tắc lẽ thật là mục tiêu của việc mưu cầu lẽ thật. Đạt đến bước này có nghĩa là người ta đã bước vào thực tế của việc thực hành lẽ thật. Việc tìm kiếm lẽ thật được thực hiện để giải quyết những tâm tính bại hoại của con người. Khi một người có thể đưa lẽ thật vào thực hành, những tâm tính bại hoại của họ sẽ tự nhiên tan biến, và việc thực hành lẽ thật của họ đạt được kết quả Đức Chúa Trời yêu cầu. Đó là quá trình đi từ ăn năn thực sự đến thực hành lẽ thật. Từng sống giữa những tâm tính bại hoại là sống dưới quyền lực của Sa-tan, mọi hành động và hành xử đều bị Đức Chúa Trời lên án và ghê tởm; giờ đây, có thể chấp nhận lẽ thật, đã thực sự ăn năn, có thể thực hành lẽ thật và quy phục Đức Chúa Trời, cũng như sống theo lời Ngài – điều này tất nhiên được Đức Chúa Trời ưng thuận. Những người mưu cầu lẽ thật phải thường xuyên tự phản tỉnh về bản thân mình. Họ phải thừa nhận những tâm tính bại hoại của mình và chấp nhận sự phán xét cùng hình phạt của Đức Chúa Trời, họ phải có được hiểu biết thực sự về thực chất bại hoại của mình và sinh lòng hối hận; họ phải bắt đầu tìm kiếm lẽ thật trong mọi sự sau khi ăn năn, thực hành theo các nguyên tắc lẽ thật và đạt được sự quy phục Đức Chúa Trời. Đây là những gì việc mưu cầu lẽ thật và dần tiến sâu hơn trong lối vào sự sống có thể đạt được. Nếu một người không thực sự biết mình, họ không thể quy phục sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời hay thực sự ăn năn. Và nếu một người không thực sự ăn năn, người đó sẽ tiếp tục sống theo tâm tính Sa-tan. Sự thay đổi thực sự sẽ không diễn ra trong họ, cho dù họ tin vào Đức Chúa Trời bao nhiêu năm đi nữa. Hành vi của họ sẽ thay đổi một chút; chỉ có vậy. Những người không mưu cầu lẽ thật không thể chấp nhận lẽ thật là sự sống của họ, nên chắc chắn những hành động và hành vi của họ vẫn sẽ là sự bộc phát tâm tính bại hoại, chắc chắn những điều này sẽ không tương hợp với lẽ thật và chống đối Đức Chúa Trời. Những người mưu cầu lẽ thật có thể chấp nhận lẽ thật là sự sống của mình, họ có thể loại bỏ những tâm tính bại hoại của mình, đưa lẽ thật vào thực hành, và đạt được sự quy phục Đức Chúa Trời thực sự. Những người mưu cầu lẽ thật sẽ tìm kiếm lẽ thật khi gặp phải những điều họ chưa rõ. Họ sẽ không còn mưu mô vì lợi ích của mình nữa và sẽ lánh khỏi mọi điều ác, với tấm lòng tương hợp với Đức Chúa Trời. Những người mưu cầu lẽ thật sẽ ngày càng quy phục Đức Chúa Trời hơn, và họ có thể kính sợ Đức Chúa Trời cũng như lánh khỏi điều ác, ngày càng sống như một con người. Những thay đổi như vậy là không thể đối với những người không mưu cầu lẽ thật. Những người không mưu cầu lẽ thật theo đuổi điều gì? Họ theo đuổi danh, lợi và địa vị; họ theo đuổi phước lành và phần thưởng. Tham vọng và ham muốn của họ ngày càng lớn hơn và họ không có mục tiêu đúng đắn trong cuộc sống. Bất kể họ thích theo đuổi điều gì, họ cũng sẽ không từ bỏ nếu không thể đạt được mục tiêu của mình, huống gì thay đổi suy nghĩ của mình. Ngay khi môi trường cho phép và bối cảnh thích hợp, họ sẽ có khả năng hành ác và chống đối Đức Chúa Trời, và họ có thể cố thiết lập một vương quốc độc lập. Đó là bởi họ không có lòng tôn kính Đức Chúa Trời hay quy phục Ngài, và cuối cùng họ chỉ có thể bị Đức Chúa Trời xóa sổ vì phạm vô số tội ác và phản bội Ngài. Tất cả những ai không mưu cầu lẽ thật đều là những kẻ chán ghét lẽ thật, và tất cả những ai chán ghét lẽ thật đều là những kẻ yêu cái ác. Trong linh hồn và xương máu của họ, tất cả những gì họ tôn sùng là danh, lợi, địa vị và tầm ảnh hưởng; họ vui vẻ sống theo những tâm tính Sa-tan, và đấu với trời, đất, con người hòng đạt được mục tiêu của mình. Họ nghĩ rằng một cuộc sống như vậy thật vui vẻ; họ muốn sống như một cá nhân kiệt xuất và chết như một anh hùng. Rõ ràng họ đang bước đi trên con đường diệt vong của Sa-tan. Những người mưu cầu lẽ thật càng hiểu về lẽ thật thì càng yêu mến Đức Chúa Trời và cảm thấy lẽ thật quý giá xiết bao. Họ sẵn sàng chấp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời, và cho dù có phải chịu bao nhiêu gian khổ, họ vẫn quyết tâm mưu cầu và đạt được lẽ thật. Điều này nghĩa là họ đã dấn thân vào con đường để được cứu rỗi và hoàn thiện, và rằng họ có khả năng đạt được sự tương hợp với Đức Chúa Trời. Quan trọng nhất là họ có thể quy phục Đức Chúa Trời, họ đã trở lại vị trí ban đầu của mình là loài thọ tạo, và họ có tấm lòng tôn kính Đức Chúa Trời. Họ có thể nhận được sự lãnh đạo, dẫn dắt và phước lành của Đức Chúa Trời một cách chính đáng, và Đức Chúa Trời không còn khinh ghét hay loại bỏ họ nữa. Quả là một điều tuyệt vời! Những ai không mưu cầu lẽ thật không thể loại bỏ các tâm tính bại hoại của mình, vì vậy lòng họ ngày càng xa rời Đức Chúa Trời, và họ chán ghét, chối bỏ lẽ thật. Kết quả là họ ngày càng trở nên chống đối Đức Chúa Trời và bắt đầu đi con đường đối nghịch Ngài. Họ cũng giống như Phao-lô, công khai xin Đức Chúa Trời phần thưởng. Nếu không được nhận phần thưởng, họ sẽ cố tranh cãi với Đức Chúa Trời và chống đối Ngài, và cuối cùng họ sẽ trở thành những kẻ địch lại Đấng Christ, phơi bày hoàn toàn bộ mặt gớm ghiếc của Sa-tan, sau đó Đức Chúa Trời sẽ rủa sả và hủy diệt họ. Mặt khác, những người đi trên con đường mưu cầu lẽ thật có thể chấp nhận và quy phục lẽ thật. Họ có thể loại bỏ tâm tính bại hoại của Sa-tan, họ sẵn lòng từ bỏ mọi thứ để làm tròn bổn phận và đền đáp tình yêu của Đức Chúa Trời, và họ có thể trở thành người vâng lời và thờ phượng Đức Chúa Trời. Một người sẵn lòng quy phục Đức Chúa Trời, và làm như vậy một cách tuyệt đối, đã hoàn toàn trở về vị trí ban đầu của một loài thọ tạo, và họ có khả năng quy phục sự sắp đặt, an bài của Đức Chúa Trời trong mọi sự. Điều này nghĩa là họ sở hữu hình tượng cơ bản giống con người. Hình tượng giống con người thực sự nói đến điều gì? Đó là khi một người vâng lời và tôn kính Đấng Tạo Hóa, giống như Gióp và Phi-e-rơ đã làm. Họ là những người Đức Chúa Trời thực sự ban phước.

Những bước chính trong việc mưu cầu lẽ thật chúng ta đã thông công ngày hôm nay đơn giản như vậy thôi. Hãy nhắc lại các bước này cho Ta nghe. (Trước hết là tự phản tỉnh về bản thân theo lời Đức Chúa Trời; thứ hai là thừa nhận và chấp nhận những sự thật lời Đức Chúa Trời mặc khải; thứ ba là biết tâm tính và thực chất bại hoại của chính mình, và bắt đầu căm ghét tâm tính bại hoại của mình và Sa-tan; thứ tư là thực hành ăn năn, và từ bỏ tất cả những việc làm ác của mình; thứ năm là tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật và thực hành lẽ thật.) Đó là năm bước. Thực hành từng bước đó là rất khó đối với những người sống giữa những tâm tính bại hoại, có rất nhiều trở ngại và khó khăn trong từng bước, và tất cả các bước đều đòi hỏi phải bỏ ra công sức khổ luyện để thực hành mới đạt được, và tất nhiên người ta không thể tránh khỏi việc trải qua những thất bại và trở ngại dọc đường – nhưng điều Ta muốn nói với các ngươi là: Đừng nản lòng. Dù người khác có thể lên án ngươi, nói rằng: “Anh tiêu rồi”, “Anh quá tồi”, “Anh là thế rồi – không thay đổi được đâu” – dù lời họ có khó nghe thế nào, ngươi cũng phải có sự phân định rõ ràng. Đừng nản lòng, và đừng bỏ cuộc, bởi vì chỉ có con đường mưu cầu lẽ thật, chỉ có việc bước vào và thực hành những bước này mới thực sự giúp được ngươi tránh khỏi tai ương. Người khôn ngoan sẽ chọn gạt mọi khó khăn sang một bên; họ sẽ không né tránh thất bại và trở ngại, và dù có khó khăn đến đâu họ cũng sẽ tiến bước. Ngay cả khi ngươi vẫn ở bước xem xét và biết mình trong ba hoặc năm năm, hoặc sau tám hay mười năm, ngươi đơn thuần biết mình có những tâm tính bại hoại nào, nhưng ngươi vẫn không thể hiểu lẽ thật hay vứt bỏ tâm tính bại hoại của mình, Ta vẫn sẽ nói với ngươi điều tương tự: Đừng nản lòng. Mặc dù ngươi chưa có khả năng đạt được sự quay đầu thực sự, nhưng ngươi đã bước vào ba bước đầu tiên, vậy thì tại sao phải lo không thể bước vào hai bước còn lại chứ? Đừng lo lắng; hãy chăm chỉ hơn, đẩy mạnh hơn, và ngươi sẽ đến đích. Cũng có thể có một số người đi đến bước thứ tư của sự ăn năn, nhưng họ không tìm kiếm được các nguyên tắc lẽ thật và không thể bước vào bước này. Vậy phải làm gì? Cũng không được nản lòng. Chỉ cần ngươi có ý chí làm điều đó, thì ngươi phải kiên trì theo đuổi việc tìm kiếm lẽ thật trong mọi sự, và cầu nguyện nhiều hơn với Đức Chúa Trời – làm như vậy thường mang lại kết quả. Hãy mưu cầu hết sức có thể, dựa trên tố chất và hoàn cảnh của ngươi, và nỗ lực để đạt được những gì ngươi có thể đạt được. Chỉ cần ngươi đang làm hết mình, lương tâm ngươi trong sáng, thì ngươi chắc chắn sẽ có thể thu được nhiều hơn. Ngay cả việc hiểu thêm được một lẽ thật cũng là điều tốt – cuộc sống của ngươi sẽ trở nên hạnh phúc và vui vẻ hơn một chút vì điều đó. Tóm lại, việc mưu cầu lẽ thật không phải là điều sáo rỗng; mỗi bước trong đó đều có một con đường thực hành cụ thể, và nó đòi hỏi con người phải chịu một chút đau đớn cũng như trả một cái giá nhất định. Lẽ thật không phải là một lĩnh vực nghiên cứu học thuật, hay một lý thuyết, một khẩu hiệu, hay một lý lẽ; nó không sáo rỗng. Mỗi lẽ thật đều đòi hỏi con người phải trải nghiệm và thực hành trong nhiều năm mới có thể hiểu và biết được. Nhưng dù ngươi có phải trả giá nào, nỗ lực ra sao, chỉ cần cách tiếp cận, phương pháp, con đường và hướng đi của ngươi đúng đắn, thì sớm muộn gì cũng sẽ đến ngày ngươi gặt hái được rất nhiều, đạt được lẽ thật và có thể biết Đức Chúa Trời cũng như quy phục Ngài – và như thế, ngươi sẽ hoàn toàn mãn nguyện.

Ngày 8 tháng 1 năm 2022

Tiếp theo: Mưu cầu lẽ thật là gì (2)

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger