Mưu cầu lẽ thật là gì (11)
Trong mỗi thời kỳ và ở mỗi giai đoạn đều có một số chuyện đặc biệt xảy ra trong hội thánh đi ngược lại với quan niệm của con người. Chẳng hạn như một số người trở bệnh, các lãnh đạo và người làm công bị thay thế, một số người bị vạch trần và đào thải, một số người phải đối mặt với thử thách sinh tử, một số hội thánh thậm chí còn xuất hiện kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ gây nhiễu loạn, v.v. Những chuyện này thường xuyên xảy ra, nhưng hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên. Tất cả đều là kết quả của quyền tối thượng và sự an bài của Đức Chúa Trời. Một khoảng thời gian rất yên bình có thể đột nhiên bị phá vỡ bởi vài biến cố hoặc sự việc bất thường, xảy ra xung quanh các ngươi hoặc với cá nhân các ngươi, và việc xảy ra những chuyện này phá vỡ trật tự bình thường cũng như trạng thái bình thường của cuộc sống con người. Nhìn từ bên ngoài, những điều này không phù hợp với quan niệm và tưởng tượng của con người, chúng là những điều con người không muốn xảy đến với mình hoặc không muốn chứng kiến. Vậy việc xảy ra những điều này có ích lợi gì cho con người không? Con người nên đối xử, trải nghiệm và nhận thức chúng như thế nào? Trong các ngươi, có bất kỳ ai từng nghĩ đến điều này không? (Thưa, chúng con nên biết rằng đây là kết quả của quyền tối thượng của Đức Chúa Trời.) Nó có phải chỉ là vấn đề biết rằng đây là kết quả của quyền tối thượng của Đức Chúa Trời không? Các ngươi đã học được bài học gì từ đó chưa? Các ngươi có thể biết thêm về cách Đức Chúa Trời nắm quyền tối thượng trên tất cả những điều này không? Cụ thể thì quyền tối thượng của Đức Chúa Trời bao hàm những gì? Con người nên biết và hiểu những điều cụ thể nào biểu hiện nơi họ? Các ngươi đã học được bài học nào từ những chuyện xảy ra quanh mình chưa? Các ngươi đã có thể tiếp nhận chúng như là những điều đến từ Đức Chúa Trời và thu hoạch được chút gì từ đó chưa? Hay các ngươi vẫn cứ hồ đồ, tự nhủ rằng: “Tất cả đều là kết quả của quyền tối thượng của Đức Chúa Trời, chỉ cần quy phục Đức Chúa Trời thôi, không việc gì phải suy nghĩ về chuyện này cả”, rồi để nó trôi qua với những suy nghĩ đơn giản như vậy? Các ngươi thuộc tình trạng nào trong đây? Đôi khi trong hội thánh xảy ra những chuyện lớn, chẳng hạn như việc truyền bá Phúc Âm đạt kết quả tốt ngoài mong đợi, hoặc có một số khó khăn, thăng trầm, trở ngại bất ngờ, thậm chí bị những thế lực bên ngoài gây nhiễu loạn và phá hoại. Đôi khi có chuyện bất thường xảy ra trong một hội thánh nào đó hoặc giữa một số người đang thực hiện bổn phận của mình. Dù trong thời điểm bình thường hay đặc biệt, các ngươi đã bao giờ suy ngẫm về những chuyện bất thường xảy đến này chưa? Kết luận cuối cùng các ngươi rút ra là gì? Hay là đa phần các ngươi không hiểu gì cả? Một số người chỉ suy nghĩ về điều này trong lòng, rồi chỉ đơn giản cầu nguyện vài câu, thậm chí còn không tìm kiếm lẽ thật để có được chút hiểu biết về những điều này. Họ chỉ thừa nhận rằng những điều này đến từ Đức Chúa Trời, hết. Chẳng phải như thế là làm chiếu lệ sao? Hầu hết mọi người chỉ lơ mơ cho qua chuyện. Và khi những người có tố chất cực kỳ kém gặp phải những chuyện này, trong họ sẽ hình thành rất nhiều sự khó hiểu và không biết xử trí thế nào, đồng thời họ có thể dễ dàng nảy sinh những quan niệm và hiểu lầm về Đức Chúa Trời, cũng như nghi ngờ về quyền tối thượng và sự sắp đặt của Đức Chúa Trời. Ngay từ đầu mọi người đã không có hiểu biết về Đức Chúa Trời, và khi gặp phải một số chuyện mâu thuẫn với quan niệm của mình, họ không tìm kiếm lẽ thật hay tìm người để thông công cùng, mà chỉ xử lý dựa trên những quan niệm và tưởng tượng của mình, để rồi cuối cùng đi đến kết luận rằng “Những chuyện này có đến từ Đức Chúa Trời hay không vẫn chưa biết được”, và họ bắt đầu có những nghi ngờ về Đức Chúa Trời, thậm chí còn nghi ngờ lời Ngài. Kết quả là những nghi ngờ, suy đoán và đề phòng của họ đối với Đức Chúa Trời ngày càng trở nên nghiêm trọng, và họ mất động lực thực hiện bổn phận. Họ không sẵn sàng chịu khổ và trả giá, và họ chểnh mảng, làm đối phó cho qua ngày. Sau khi đã trải qua một vài biến cố đặc biệt, chút nhiệt huyết, quyết tâm và khao khát ít ỏi của họ trước đây đã rơi rụng và không còn sót lại gì, chỉ còn lại những suy nghĩ về việc làm sao để lên kế hoạch riêng cho tiền đồ của mình và tìm lối thoát cho mình. Những người như vậy không phải là thiểu số. Bởi vì mọi người không yêu lẽ thật và không tìm kiếm lẽ thật, nên mỗi khi có chuyện xảy đến, họ đều nhìn nhận qua lăng kính riêng của mình, mà không bao giờ học cách chấp nhận nó như một điều đến từ Đức Chúa Trời. Họ không tìm kiếm lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời để tìm câu trả lời, họ cũng không tìm kiếm những người hiểu lẽ thật để thông công cùng và giải quyết những điều này. Thay vào đó, họ luôn sử dụng những tri thức và kinh nghiệm xử thế của bản thân để phân tích và phán đoán những chuyện xảy đến với mình. Và kết quả cuối cùng là gì? Họ tự mắc kẹt trong tình trạng lúng túng không có đường nào để đi – đây là hậu quả của việc không tìm kiếm lẽ thật. Không có gì xảy ra ngẫu nhiên cả, mọi sự đều nằm dưới sự tể trị của Đức Chúa Trời. Mặc dù con người có thể hiểu và chấp nhận điều này trên lý thuyết, nhưng họ nên hành xử như thế nào đối với quyền tối thượng của Đức Chúa Trời? Đây là lẽ thật mà con người nên mưu cầu và hiểu rõ, cũng như nên thực hành cụ thể. Nếu con người chỉ thừa nhận quyền tối thượng của Đức Chúa Trời trên lý thuyết, mà không thực sự nhận thức, và những quan niệm, tưởng tượng của bản thân họ chưa được giải quyết, thì dù họ có tin vào Đức Chúa Trời bao nhiêu năm và trải qua bao nhiêu chuyện đi chăng nữa, cuối cùng họ vẫn không thể đạt được lẽ thật. Nếu con người không mưu cầu lẽ thật, họ sẽ không thể biết được công tác của Đức Chúa Trời. Càng trải nghiệm nhiều, họ sẽ càng có nhiều quan niệm về Đức Chúa Trời, họ sẽ càng nghi ngờ về Ngài, và tất nhiên, những suy đoán, hiểu lầm và đề phòng của họ đối với Đức Chúa Trời sẽ càng trở nên nghiêm trọng. Thực tế là mọi sự xảy ra đều là kết quả của quyền tối thượng và sự an bài của Đức Chúa Trời. Mục đích và ý nghĩa của việc Đức Chúa Trời làm tất cả những điều này không phải là để làm tăng thêm sự hiểu lầm và nghi ngờ của ngươi về Ngài, mà là để làm sáng tỏ và giải quyết những quan niệm và tưởng tượng bên trong ngươi, những nghi ngờ, hiểu lầm và đề phòng của ngươi đối với Đức Chúa Trời, cùng những điều tiêu cực khác. Nếu ngươi không giải quyết vấn đề kịp thời khi chúng nảy sinh, thì một khi những vấn đề này bên trong ngươi tích tụ và ngày càng trở nên nghiêm trọng, đồng thời chút nhiệt huyết hay quyết tâm của ngươi đã không còn đủ để hỗ trợ ngươi thực hiện bổn phận nữa, là ngươi sẽ sa vào tiêu cực rồi sụp đổ, thậm chí có nguy cơ rời bỏ Đức Chúa Trời, và chắc chắn không thể đứng vững được. Bây giờ một số người miễn cưỡng ra sức một chút trong khi thực hiện bổn phận, nhưng chỉ để đạt được phước lành, chứ không hề mưu cầu lẽ thật, và họ trở nên tiêu cực mỗi khi gặp phải chút khó khăn. Những người không mưu cầu lẽ thật là như vậy. Bởi vì họ hoàn toàn không hiểu rõ lẽ thật về những khải tượng và họ không có hiểu biết thực sự về công tác của Đức Chúa Trời, nên ngay cả khi thực hiện bổn phận và dâng mình cho Đức Chúa Trời, họ cũng không có sức mạnh trong lòng, và chút ít giáo lý họ hiểu được không thể giúp họ chống đỡ được lâu trước khi sụp đổ. Nếu mọi người không thường xuyên nhóm họp, nghe giảng, hoặc không thể tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề, thì họ không thể đứng vững. Vì vậy, những người thực hiện bổn phận cần thường xuyên thông công về lẽ thật, và mỗi khi một số chuyện xảy đến và họ nảy sinh quan niệm, họ phải khắc phục điều này bằng cách kịp thời tìm kiếm lẽ thật. Chỉ bằng cách này, họ mới có thể chắc chắn rằng mình luôn trung thành trong việc thực hiện bổn phận và có thể đi theo Đức Chúa Trời đến cùng.
Con đường tin vào Đức Chúa Trời chông gai, gập ghềnh. Đó là do Đức Chúa Trời định đoạt. Cho dù chuyện gì xảy đến, bất kể nó có như mong muốn của con người, có phù hợp với những quan niệm và tưởng tượng của họ, hoặc có thể dự kiến được đối với họ hay không, thì việc nó xảy đến cũng không thể tách rời khỏi quyền tối thượng của Đức Chúa Trời và sự sắp đặt của Ngài. Việc Đức Chúa Trời làm tất cả những gì Ngài làm có ý nghĩa quan trọng ở chỗ nó cho phép con người rút ra bài học từ đó và biết được quyền tối thượng của Đức Chúa Trời. Mục đích của việc biết quyền tối thượng của Đức Chúa Trời không phải là để con người chống lại Đức Chúa Trời, cũng không phải là để sau khi đã hiểu Đức Chúa Trời, con người sẽ có nhiều sức mạnh và vốn liếng hơn để so đo với Ngài. Mà đó là để khi có chuyện xảy đến, con người sẽ học được cách chấp nhận nó như là một điều đến từ Đức Chúa Trời, tìm kiếm lẽ thật để hiểu được lẽ thật, sau đó thực hành lẽ thật để đạt được sự quy phục thực sự và hình thành đức tin thực sự nơi Ngài. Các ngươi đã hiểu điều này chưa? (Thưa, rồi.) Vậy thì các ngươi đã đưa nó vào thực hành như thế nào? Con đường thực hành của các ngươi đối với những điều như vậy đã đúng đắn hay chưa? Các ngươi có xử lý mọi việc xảy đến với mình bằng tấm lòng quy phục và thái độ tìm kiếm lẽ thật không? Nếu ngươi là người mưu cầu lẽ thật, ngươi sẽ có một tâm thái như vậy. Bất kể chuyện gì xảy đến với ngươi, ngươi sẽ đều chấp nhận nó như là một việc đến từ Đức Chúa Trời, và ngươi sẽ tiếp tục tìm kiếm lẽ thật, nắm bắt ý muốn của Ngài, và nhìn nhận con người, sự việc trên cơ sở lời Ngài. Trong mọi chuyện xảy đến, ngươi sẽ đều có thể trải nghiệm và biết công tác của Đức Chúa Trời, cũng như có thể quy phục Ngài. Nếu ngươi không phải là người mưu cầu lẽ thật, thì bất kể chuyện gì xảy đến, ngươi cũng sẽ không xử lý nó dựa trên lời Đức Chúa Trời, cũng như không tìm kiếm lẽ thật. Ngươi sẽ chỉ lơ mơ cho qua chuyện, và kết quả là hoàn toàn không đạt được bất kỳ lẽ thật nào. Đức Chúa Trời hoàn thiện con người bằng cách sắp đặt nhiều điều không phù hợp với những quan niệm của họ, nhằm tập cho họ tìm kiếm lẽ thật, hiểu được những việc làm của Ngài, và nhìn thấy được sự toàn năng cũng như sự khôn ngoan của Ngài, để sự sống của họ dần dần trưởng thành. Tại sao những người mưu cầu lẽ thật thì biết trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời, đạt được lẽ thật và được Đức Chúa Trời hoàn thiện, trong khi những người không mưu cầu lẽ thật lại bị đào thải? Đó là bởi vì những người mưu cầu lẽ thật có thể tìm kiếm lẽ thật trong bất kể chuyện gì xảy đến với họ, nên họ có được công tác và sự khai sáng của Đức Thánh Linh, nhờ đó có thể thực hành lẽ thật, bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời và được Ngài hoàn thiện; trong khi đó, những người không yêu lẽ thật thấy công tác của Đức Chúa Trời không phù hợp với quan niệm của họ, nhưng lại không tìm kiếm lẽ thật để giải quyết, thậm chí có thể trở nên tiêu cực và oán trách. Theo thời gian, những quan niệm của họ về Đức Chúa Trời ngày càng nhiều, và họ bắt đầu nghi ngờ, chối bỏ Ngài. Kết quả là họ bị công tác của Đức Chúa Trời vứt bỏ và đào thải. Đó là lý do tại sao thái độ của con người đối với lẽ thật nên là tìm kiếm lẽ thật, thực hành lẽ thật, và nỗ lực đáp ứng yêu cầu của Đức Chúa Trời, thay vì tiêu cực và thụ động. Để trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời, họ phải đối mặt với nhiều chuyện và phải nhìn nhận mọi sự dựa trên lời Đức Chúa Trời, cũng như phải dành nhiều thời gian hơn để suy ngẫm, tìm kiếm lẽ thật và thông công về lẽ thật, như vậy họ mới có thể biết và theo kịp công tác của Đức Chúa Trời. Chỉ bằng cách này, họ mới có thể hiểu lẽ thật và mỗi ngày một đi sâu hơn vào lẽ thật; chỉ bằng cách này, lời Đức Chúa Trời cùng mọi khía cạnh của lẽ thật mới có thể bén rễ trong con người. Việc trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời không thể tách rời đời thực, càng không thể tách rời hoàn cảnh với những con người, sự việc và sự vật khác nhau mà Đức Chúa Trời sắp đặt; nếu không, con người sẽ không thể hiểu và đạt được lẽ thật. Hầu hết mọi người không biết cách trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời mỗi khi gặp chuyện. Họ không biết cách tìm kiếm lẽ thật để giải quyết những quan niệm và tưởng tượng của mình, không biết cách giải quyết những hiểu biết sai lầm và quan điểm phi lý của mình. Kết quả là mặc dù đã trải qua nhiều điều, nhưng họ vẫn không thể hiểu được lẽ thật, thay vào đó chẳng đạt được gì cả – đây là sự lãng phí thời gian. Bất kể chuyện gì xảy đến, cuối cùng thì điều con người nên thực hành là quy phục sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời. Sự quy phục này không có nghĩa là con người nên quy phục một cách tiêu cực, thụ động hay bất đắc dĩ, mà là nên có lòng tích cực, chủ động và con đường thực hành lẽ thật. Quy phục sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời nghĩa là gì? Nghĩa là bất kể Đức Chúa Trời an bài điều gì, bất kể chuyện gì xảy đến với ngươi, hãy để Đức Chúa Trời làm điều đó và học cách quy phục Ngài. Đừng có bất kỳ ham muốn hay kế hoạch cá nhân nào, và đừng cố làm mọi thứ theo cách riêng của mình. Mọi thứ con người yêu thích, mưu cầu và khao khát đều sai lầm và hoang đường. Con người quá bất tuân với Đức Chúa Trời. Ngài yêu cầu con người đi về phía Đông, nhưng họ không muốn đi về phía Đông. Ngay cả khi họ miễn cưỡng quy phục, thì trong thâm tâm họ vẫn nghĩ về việc đi về phía Tây. Đây không phải là sự quy phục thực sự. Quy phục thực sự có nghĩa là khi Đức Chúa Trời bảo ngươi đi về phía Đông, thì ngươi nên đi về phía Đông, từ bỏ và gạt bỏ mọi suy nghĩ về việc đi về phía Nam, phía Bắc hay phía Tây, và có thể từ bỏ ý muốn của xác thịt, sau đó đi thực hành bằng cách đi theo con đường và phương hướng Đức Chúa Trời đã chỉ bày cho ngươi. Như vậy mới là quy phục. Nguyên tắc để thực hành quy phục là gì? Con người phải lắng nghe lời Đức Chúa Trời và quy phục, cũng như thực hành theo những điều Đức Chúa Trời phán dạy. Đừng nuôi những ý định riêng, cũng không được thất thường. Dù ngươi có hiểu rõ lời Đức Chúa Trời hay không, ngươi cũng nên ngoan ngoãn bắt đầu đưa chúng vào thực hành và làm mọi việc theo yêu cầu của Ngài. Từ quá trình thực hành và trải nghiệm, tự lúc nào không hay, ngươi sẽ bắt đầu hiểu được lẽ thật. Nếu miệng ngươi nói rằng ngươi quy phục Đức Chúa Trời, nhưng ngươi lại không bao giờ buông bỏ và chống lại những kế hoạch và ham muốn trong lòng mình, thì chẳng phải đây là nói một đằng nghĩ một nẻo sao? (Thưa, phải.) Đây không phải là quy phục thực sự. Nếu ngươi không thực sự quy phục, thì ngươi sẽ có nhiều yêu cầu đối với Đức Chúa Trời mỗi khi có chuyện xảy đến, và trong thâm tâm ngươi sẽ nôn nóng mong Đức Chúa Trời đáp ứng các yêu cầu của ngươi. Nếu Đức Chúa Trời không làm theo mong muốn của ngươi, thì ngươi sẽ cảm thấy rất đau đớn và buồn bã, ngươi sẽ phải chịu nhiều đau khổ, và ngươi sẽ không thể quy phục quyền tối thượng, sự an bài của Đức Chúa Trời, cũng như những hoàn cảnh Ngài đã sắp đặt cho ngươi. Tại sao lại thế? Bởi vì ngươi luôn có những yêu cầu và mong muốn riêng, ngươi không thể buông bỏ ý riêng của mình, và ngươi muốn là người nắm quyền. Do đó mỗi khi gặp phải chuyện gì không phù hợp với quan niệm của mình, ngươi không thể quy phục, và thật khó để ngươi quy phục Đức Chúa Trời. Mặc dù trên lý thuyết, con người biết rằng họ nên quy phục Đức Chúa Trời và buông bỏ ý riêng của mình, nhưng họ đơn giản là không thể buông bỏ, luôn lo sợ mình sẽ bị thiệt thòi và tổn hại. Nói Ta nghe, chẳng phải điều này khiến họ gặp khó khăn lớn sao? Chẳng phải vì thế mà nỗi thống khổ của họ tăng lên sao? (Thưa, phải.) Nếu ngươi có thể từ bỏ mọi thứ, buông bỏ những thứ mà mình thích và đòi hỏi nhưng lại trái với ý định của Đức Chúa Trời, nếu ngươi có thể chủ động và sẵn lòng buông bỏ chúng, không đặt điều kiện với Đức Chúa Trời, mà sẵn lòng làm những gì Ngài yêu cầu, thì khó khăn trong ngươi sẽ bớt đi nhiều và những trở ngại cũng sẽ bớt đi nhiều. Nếu những trở ngại đối với việc người ta quy phục Đức Chúa Trời giảm bớt, thì chẳng phải nỗi thống khổ của họ sẽ giảm bớt sao? Khi nỗi thống khổ giảm bớt, những đau khổ không cần thiết mà họ phải chịu đựng cũng giảm đi đáng kể. Các ngươi có biết cách trải nghiệm như thế này chưa? Có lẽ là chưa. Một số người khi thấy ai đó gặp khó khăn liền nghĩ cho bản thân bằng cách đặt mình vào vị trí của người đó. Hễ thấy ai gặp khổ đau, bệnh tật, hoạn nạn hay tai họa nào đó, họ liền nghĩ về bản thân mình và tự hỏi: “Nếu điều này xảy đến với mình, thì mình sẽ làm gì? Hóa ra người tin Đức Chúa Trời vẫn có thể gặp phải những điều này và chịu đựng những đau khổ này. Vậy chính xác thì Ngài là kiểu Đức Chúa Trời gì? Nếu Đức Chúa Trời không quan tâm đến ý muốn người đó như thế, liệu Ngài có đối xử với mình như vậy không? Điều này cho thấy Đức Chúa Trời không đáng tin cậy. Ngài sắp đặt hoàn cảnh bất ngờ cho con người mọi lúc mọi nơi, và có thể liên tục đặt họ vào những tình huống khó xử, cũng như vào bất kỳ hoàn cảnh nào”. Họ sợ nếu không tin thì không được phước, còn nếu tiếp tục tin thì gặp họa. Theo cách này, khi con người cầu nguyện trước Đức Chúa Trời, họ chỉ nói: “Lạy Đức Chúa Trời, cầu xin Ngài ban phước cho con”, mà không dám nói: “Lạy Đức Chúa Trời, cầu xin Ngài thử luyện con, sửa dạy con, và làm theo ý Ngài, con sẵn lòng chấp nhận” – họ không dám cầu nguyện như vậy. Sau khi trải qua một vài trở ngại và thất bại, quyết tâm và dũng khí của con người giảm đi, và họ có “nhận thức” khác về tâm tính công chính của Đức Chúa Trời, hình phạt và sự phán xét của Ngài, cũng như quyền tối thượng của Ngài, đồng thời hình thành cảm giác đề phòng đối với Đức Chúa Trời. Bằng cách này, có một bức tường, một sự ngăn cách, giữa con người và Đức Chúa Trời. Con người có những tình trạng này thì có ổn không? (Thưa, không.) Vậy những tình trạng này có xu hướng hình thành bên trong các ngươi không? Các ngươi có đang sống trong những tình trạng này không? (Thưa, có.) Nên giải quyết những vấn đề này như thế nào? Không tìm kiếm lẽ thật thì có ổn không? Nếu không hiểu lẽ thật và không có đức tin, các ngươi sẽ khó mà đi theo Đức Chúa Trời đến cùng, và các ngươi sẽ gục ngã mỗi khi gặp tai họa, tai ương, dù là thiên tai hay nhân họa.
Sau khi Gióp trải qua một sự thử luyện, ông đã thốt lên những lời rằng: “Ðức Giê-hô-va đã ban cho, Ðức Giê-hô-va lại cất đi; đáng ngợi khen danh Ðức Giê-hô-va!” (Gióp 1:21). Ngày nay, nhiều người đọc thuộc lòng câu này, và họ đọc thuộc lòng rất rành mạch. Nhưng mỗi khi đọc thuộc lòng, họ chỉ nghĩ đến việc chính Đức Giê-hô-va là Đấng ban cho, chứ không bao giờ nghĩ đến việc khi Đức Giê-hô-va cất đi sẽ như thế nào, và lúc đó con người sẽ trải qua những dạng khổ đau, khó khăn và tình huống khó xử nào, hay lòng người sẽ thay đổi ra sao theo hoàn cảnh. Họ chưa bao giờ suy nghĩ kỹ về điều đó, mà cứ suốt ngày đọc thuộc lòng câu “Ðức Giê-hô-va đã ban cho, Ðức Giê-hô-va lại cất đi; đáng ngợi khen danh Ðức Giê-hô-va”, thậm chí còn đến mức lấy câu này làm khẩu hiệu và giáo lý mà hễ có dịp lại viện ra. Trong lòng mỗi người, điều duy nhất họ có thể nghĩ đến là tất cả những ân điển, phước lành và lời hứa mà Đức Giê-hô-va ban cho con người, nhưng họ không bao giờ nghĩ đến – hoặc không thể hình dung – viễn cảnh khi Đức Giê-hô-va cất đi tất cả những điều này khỏi họ. Tất cả những ai bắt đầu tin vào Đức Chúa Trời đều chỉ sẵn sàng tiếp nhận ân điển, phước lành và lời hứa của Đức Chúa Trời, cũng như chỉ sẵn lòng tiếp nhận sự ân đãi và lòng thương xót của Ngài. Thế nhưng không ai chờ đợi hoặc chuẩn bị để tiếp nhận hình phạt và sự phán xét của Đức Chúa Trời, sự thử luyện và tinh luyện của Ngài, hoặc sự tước đoạt của Ngài, và không một người nào chuẩn bị để tiếp nhận sự phán xét và hình phạt, sự tước đoạt, hoặc sự rủa sả của Đức Chúa Trời. Mối quan hệ này giữa con người và Đức Chúa Trời là bình thường hay bất thường? (Thưa, là bất thường.) Tại sao ngươi nói bất thường? Nó khiếm khuyết ở đâu? Nó khiếm khuyết ở chỗ con người không có lẽ thật. Đó là bởi vì con người có quá nhiều quan niệm và tưởng tượng, luôn hiểu lầm về Đức Chúa Trời, không tìm kiếm lẽ thật để giải quyết những điều này – và nó khiến cho các vấn đề dễ nảy sinh nhất. Đặc biệt, con người chỉ tin vào Đức Chúa Trời để được ban phước. Họ chỉ muốn thỏa thuận với Đức Chúa Trời, và đòi hỏi các thứ từ Ngài, chứ không mưu cầu lẽ thật. Điều này rất nguy hiểm. Ngay khi gặp phải điều gì đó không phù hợp với quan niệm của mình, họ lập tức nảy sinh những quan niệm, hiểu lầm và oán trách đối với Đức Chúa Trời, thậm chí có thể đi xa đến mức phản bội Ngài. Hậu quả của việc này có nghiêm trọng không? Hầu hết mọi người đi theo con đường nào khi tin vào Đức Chúa Trời? Mặc dù các ngươi có thể đã nghe rất nhiều bài giảng và cảm thấy mình đã hiểu ra được khá nhiều lẽ thật, nhưng thực tế là các ngươi vẫn đang đi trên con đường tin vào Đức Chúa Trời chỉ để được ăn bánh no bụng. Nếu như lòng ngươi đã sẵn sàng chấp nhận sự phán xét và hình phạt, sự thử luyện và tinh luyện, và ngươi cũng đã chuẩn bị tâm lý để chịu đựng tai họa, và nếu như, bất kể ngươi đã dâng mình bao nhiêu cho Đức Chúa Trời, cũng như đã trả giá bao nhiêu khi thực hiện bổn phận, ngươi vẫn thực sự phải đối mặt với những sự thử luyện như của Gióp, và Đức Chúa Trời tước đoạt toàn bộ tài sản của ngươi, thậm chí đến mức mạng sống của ngươi sắp kết thúc, thì khi đó ngươi sẽ làm gì? Ngươi nên hành xử như thế nào đối với quyền tối thượng và sự an bài của Đức Chúa Trời? Ngươi nên hành xử như thế nào đối với bổn phận của mình? Ngươi nên hành xử như thế nào đối với sự ủy thác của Đức Chúa Trời dành cho mình? Ngươi đã có được sự hiểu biết đúng đắn và thái độ đúng đắn chưa? Những câu hỏi này có dễ trả lời không? Đây là một rào cản lớn đặt ra trước mắt các ngươi. Vì nó là một rào cản và là một vấn đề, nên chẳng phải nên giải quyết nó sao? (Thưa, phải.) Giải quyết nó như thế nào? Có dễ giải quyết không? Giả sử sau khi tin vào Đức Chúa Trời trong ngần ấy năm, đọc ngần ấy lời Đức Chúa Trời, lắng nghe ngần ấy bài giảng, và hiểu được ngần ấy lẽ thật, ngươi đã sẵn sàng để cho Đức Chúa Trời sắp đặt mọi sự, dù là phước lành hay tai họa. Và giả sử bất chấp sự từ bỏ và dâng mình của ngươi, sự trả giá và cả một đời dốc sức của ngươi, tất cả những gì ngươi nhận lại là bị Đức Chúa Trời rủa sả hoặc tước đoạt. Nếu ngay cả khi đó, ngươi cũng không có một lời oán trách, không có những ham muốn hay yêu cầu riêng, mà chỉ cố gắng quy phục Đức Chúa Trời và đặt mình dưới sự sắp đặt của Ngài, và ngươi cảm thấy rằng việc thậm chí có thể có một chút hiểu biết và một chút quy phục quyền tối thượng của Đức Chúa Trời thôi cũng đã khiến cho cuộc đời ngươi đáng giá rồi – nếu ngươi có thái độ đúng đắn như vậy, thì chẳng phải sẽ dễ dàng giải quyết khi gặp phải một số khó khăn sao? Bây giờ các ngươi đã có sự hiểu biết thực sự về quyền tối thượng và sự an bài của Đức Chúa Trời chưa? Các ngươi có còn những kế hoạch riêng cho tiền đồ và vận mệnh của mình trong thâm tâm không? Các ngươi có thể bỏ lại phía sau mọi thứ và chân thành dâng mình cho Đức Chúa Trời không? Các ngươi đã dành thời gian, sức lực để suy ngẫm và suy nghĩ kỹ càng về những vấn đề này chưa? Hay các ngươi đã trải nghiệm một số điều rồi đạt được sự hiểu biết về lẽ thật và biết được quyền tối thượng của Đức Chúa Trời chưa? Nếu các ngươi thậm chí còn chưa bao giờ nghĩ về một vấn đề thiết thực như việc người đi theo Đức Chúa Trời nên hành xử như thế nào đối với quyền tối thượng của Ngài và sự sắp đặt, an bài của Đấng Tạo hóa, mà cũng là vấn đề lớn nhất trước mắt các ngươi, và các ngươi không nhận thức được đây là lẽ thật lớn nhất về khải tượng, thì nếu có ngày một đại sự hoặc tai họa xảy ra, liệu các ngươi có khả năng đứng vững trong chứng ngôn của mình không? Khó nói lắm, đó vẫn còn là một ẩn số, phải không? (Thưa, phải.) Chẳng phải vấn đề này nên được suy ngẫm thấu đáo sao? (Thưa, phải.) Vậy làm thế nào để ngươi có thể có đủ vóc giạc để đối mặt với một tương lai mình không thể thấy trước? Làm thế nào để ngươi có thể đứng vững trong chứng ngôn của mình trong những hoàn cảnh Đức Chúa Trời sắp đặt? Đây chẳng phải là một vấn đề nên được xem xét và suy ngẫm nghiêm túc sao? Nếu ngươi luôn nghĩ rằng: “Bản tính mình là người tốt, và mình đã được hưởng rất nhiều ân điển, phước lành cũng như sự bảo vệ của Đức Chúa Trời. Người khác gặp khó khăn thì ở thế bất lực, nhưng mỗi khi mình gặp khó khăn lại đều được Đức Chúa Trời chu cấp, dẫn dắt và trợ giúp. Giờ đây mình đã có thể chịu đựng gian khổ và trả giá khi thực hiện bổn phận, đức tin của mình nơi Đức Chúa Trời ngày càng mạnh mẽ, và mình cũng đang thực hiện một bổn phận quan trọng. Mình thấy Đức Chúa Trời đặc biệt ân đãi mình, và mình có được sự bảo vệ cũng như phước lành của Ngài. Nếu mình cứ duy trì như vậy, thì dù trong tương lai có phải chịu một số hình phạt, sự phán xét, thử luyện và tinh luyện, mình cũng sẽ có khả năng vượt qua. Cuối cùng, mình nhất định sẽ là một trong những người được ban phước, nhất định mình sẽ được Đức Chúa Trời đưa vào vương quốc, và nhất định mình sẽ thấy ngày Đức Chúa Trời được vinh hiển!”. Nghĩ như thế này là sao? Ngươi tin rằng mình khác biệt, rằng Đức Chúa Trời đặc biệt ân đãi ngươi và nếu Ngài có đào thải và vứt bỏ ai thì cũng không đào thải và vứt bỏ ngươi. Những suy nghĩ này có đúng không? (Thưa, không.) Tại sao không đúng? (Thưa, nghĩ như vậy là không khách quan ạ.) Những lời này có phải là hiểu biết thực sự về Đức Chúa Trời không? Hay nó quá chủ quan và suy đoán? Người có những suy nghĩ này có phải là người mưu cầu lẽ thật không? (Thưa, không.) Vậy họ có thể thực sự quy phục Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Họ có sẵn sàng tiếp nhận hình phạt, sự phán xét, thử luyện và tinh luyện của Đức Chúa Trời, thậm chí cả những lời rủa sả của Ngài không? (Thưa, không.) Họ sẽ làm gì khi hình phạt, sự phán xét, thử luyện và tinh luyện của Đức Chúa Trời thực sự xảy đến với họ? Liệu họ có nảy sinh những quan niệm hay oán trách về Đức Chúa Trời không? Liệu họ có thể chấp nhận những điều này như là những điều đến từ Đức Chúa Trời và thực sự quy phục không? (Thưa, không.) Phải nói là khó mà đạt được. Đó là bởi họ tin vào Đức Chúa Trời chỉ để tìm kiếm ân điển hoặc để ăn bánh no nê. Họ không biết rằng Đức Chúa Trời cũng có sự thịnh nộ và sự oai nghi, và tâm tính Đức Chúa Trời không dung thứ sự xúc phạm của con người. Đức Chúa Trời đối xử công bằng với tất cả mọi người, và đối với bất kỳ loài thọ tạo nào, tâm tính của Đức Chúa Trời cũng là lòng thương xót và nhân từ, nhưng đồng thời có cả sự oai nghi và sự thịnh nộ. Trong cách Đức Chúa Trời đối xử với mỗi người, thương xót và nhân từ, sự oai nghi và thịnh nộ trong tâm tính công chính của Ngài không thay đổi. Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ chỉ tỏ lòng thương xót và nhân từ với một số người, với số khác lại chỉ thể hiện sự oai nghi và thịnh nộ. Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ làm như thế, bởi vì Ngài là Đức Chúa Trời công chính, và Ngài công bằng với tất cả mọi người. Lòng thương xót và nhân từ, sự oai nghi và thịnh nộ của Đức Chúa Trời tồn tại đối với bất kỳ ai. Ngài có thể ban ân điển, phước lành cho con người, và có thể cho họ sự bảo vệ. Đồng thời, Đức Chúa Trời cũng có thể phán xét và hành phạt con người, rủa sả họ, và tước đi tất cả những gì Ngài đã ban cho họ. Đức Chúa Trời có thể ban cho con người, nhưng Ngài cũng có thể tước đi mọi thứ khỏi họ. Đây là tâm tính của Đức Chúa Trời, và đây là điều Ngài phải làm với mỗi người. Do vậy, nếu ngươi nghĩ rằng: “Mình thật quý giá trong mắt Đức Chúa Trời, giống như con ngươi trong mắt Ngài. Ngài chắc chắn sẽ không nỡ hành phạt, phán xét mình, và Ngài chắc chắn sẽ không nỡ lòng nào tước đi mọi thứ Ngài đã ban cho mình, sợ mình buồn lòng, đau khổ”, suy nghĩ như vậy chẳng sai lầm sao? Đây chẳng phải là một quan niệm về Đức Chúa Trời sao? (Thưa, phải.) Vì vậy, trước khi hiểu được những lẽ thật này, chẳng phải ngươi chỉ nghĩ đến việc vui hưởng ân điển, lòng thương xót và nhân từ của Đức Chúa Trời sao? Kết quả là ngươi luôn quên mất rằng Đức Chúa Trời cũng có sự oai nghi và thịnh nộ. Mặc dù môi miệng ngươi nói rằng Đức Chúa Trời là công chính, và ngươi có thể cảm tạ, ngợi ca Đức Chúa Trời khi Ngài tỏ lòng thương xót và nhân từ với ngươi, nhưng mỗi khi Đức Chúa Trời thể hiện sự oai nghi và thịnh nộ khi hành phạt và phán xét ngươi, thì ngươi lại cảm thấy rất khó chịu. Ngươi nghĩ rằng: “Giá như một Đức Chúa Trời như vậy không tồn tại. Giá như Đấng làm điều này không phải là Đức Chúa Trời, giá như Đức Chúa Trời không nhắm vào mình, giá như đây không phải là ý định của Đức Chúa Trời, giá như những điều này được thực hiện với người khác. Bởi vì mình là người thiện lương, mình không làm gì xấu, và mình đã phải trả giá đắt cho việc tin vào Đức Chúa Trời trong nhiều năm, nên Đức Chúa Trời không nên nhẫn tâm như vậy. Mình nên có quyền và đủ tư cách để được tận hưởng lòng thương xót và nhân từ của Đức Chúa Trời, cũng như những ân điển và phước lành dư dật của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời sẽ không phán xét hay hành phạt mình đâu, và Ngài cũng không nỡ lòng làm điều đó”. Đây chẳng phải là suy nghĩ mơ tưởng và sai lầm sao? (Thưa, phải.) Sai ở đâu? Cái sai ở đây là ngươi không coi mình là một loài thọ tạo, là một thành viên của loài người thọ tạo. Ngươi đã nhầm lẫn tự tách mình ra khỏi nhân loại thọ tạo và coi mình thuộc về một nhóm hoặc một giống loài thọ tạo đặc biệt, tự ban cho mình một thân phận đặc biệt. Đây chẳng phải là kiêu ngạo và tự cho mình là đúng sao? Đây chẳng phải là không có lý trí sao? Đây có phải là một người thực sự quy phục Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Tuyệt đối không phải.
Trong nhà Đức Chúa Trời, giữa các anh chị em, bất kể thân phận hay địa vị của ngươi cao đến đâu, hoặc bổn phận của ngươi quan trọng đến mức nào, và bất kể tài năng cùng những đóng góp của ngươi lớn đến đâu, hoặc ngươi đã tin vào Đức Chúa Trời được bao lâu, thì trong mắt Đức Chúa Trời, ngươi là một loài thọ tạo, một loài thọ tạo bình thường, và những danh hiệu, tên gọi cao quý ngươi đã tự phong cho mình không tồn tại. Nếu ngươi luôn coi chúng là mão triều thiên hoặc là vốn liếng cho phép ngươi thuộc về một nhóm đặc biệt hoặc làm một nhân vật đặc biệt, thì làm như vậy là ngươi đang chống đối và mâu thuẫn với quan điểm của Đức Chúa Trời, cũng như không tương hợp với Đức Chúa Trời. Hậu quả của việc này sẽ là gì? Nó có khiến ngươi chống đối lại những bổn phận mà một loài thọ tạo nên thực hiện không? Trong mắt Đức Chúa Trời, ngươi chỉ là một loài thọ tạo, nhưng lại không coi mình là một loài thọ tạo. Mang tâm thái như vậy, liệu ngươi có thể thực sự quy phục Đức Chúa Trời không? Ngươi luôn mơ tưởng rằng: “Đức Chúa Trời không nên đối xử với mình như thế này, Ngài không bao giờ có thể đối xử với mình như thế này”. Chẳng phải điều này tạo ra xung đột với Đức Chúa Trời sao? Khi Đức Chúa Trời hành động không phù hợp với quan niệm của ngươi, lòng ngươi và nhu cầu của ngươi, thì ngươi sẽ nghĩ gì trong lòng? Đối với những hoàn cảnh Đức Chúa Trời đã sắp đặt cho mình, ngươi sẽ hành xử như thế nào? Ngươi có quy phục không? (Thưa, không.) Ngươi sẽ không quy phục, và chắc chắn ngươi sẽ chống đối, kháng cự, càu nhàu và oán trách, đắn đo mãi trong lòng, nghĩ rằng: “Nhưng Đức Chúa Trời đã từng bảo vệ mình và ân đãi mình mà. Tại sao bây giờ Ngài lại thay đổi chứ? Không thể sống nổi nữa!”. Thế là ngươi bắt đầu nổi cơn càn quấy. Nếu ở nhà mà ngươi cư xử như vậy với cha mẹ mình thì có thể tha thứ được và họ sẽ không làm gì ngươi. Nhưng điều đó không thể chấp nhận được trong nhà Đức Chúa Trời. Bởi vì ngươi là người lớn rồi, lại còn là người tin Đức Chúa Trời, nên ngay cả những người khác còn không chịu nổi sự càn quấy của ngươi – ngươi nghĩ Đức Chúa Trời sẽ dung thứ cho hành vi như vậy sao? Ngài sẽ dung túng cho việc ngươi làm như vậy với Ngài sao? Không. Tại sao không? Đức Chúa Trời không phải là cha mẹ ngươi, Ngài là Đức Chúa Trời, Ngài là Đấng Tạo Hóa, và Đấng Tạo Hóa sẽ không bao giờ dung túng cho một loài thọ tạo trở nên càn quấy hoặc nổi cơn ăn vạ trước Ngài. Khi Đức Chúa Trời hành phạt và phán xét ngươi, thử luyện ngươi, hoặc tước đi của ngươi, khi Ngài đặt ngươi vào nghịch cảnh, là Ngài muốn xem thái độ của một loài thọ tạo trong cách đối xử với Đấng Tạo Hóa là gì, Ngài muốn xem loại con đường một loài thọ tạo chọn là gì, và Ngài tuyệt đối không dung túng cho ngươi trở nên càn quấy, hay tuôn ra những lời biện minh phi lý. Sau khi hiểu được những điều này, chẳng phải con người nên suy nghĩ xem mình nên hành xử như thế nào đối với mọi việc làm của Đấng Tạo Hóa sao? Trước hết, con người nên đứng đúng vị trí loài thọ tạo của mình và thừa nhận thân phận loài thọ tạo của mình. Ngươi có thể thừa nhận mình là một loài thọ tạo không? Nếu ngươi có thể thừa nhận điều đó, thì ngươi nên đứng đúng vị trí loài thọ tạo của mình và quy phục sự an bài của Đấng Tạo Hóa, và cho dù có phải chịu khổ một chút thì cũng không oán trách. Là một người có lý trí nghĩa là như vậy. Nếu ngươi không nghĩ rằng mình là một loài thọ tạo, mà cho rằng mình có chức tước và vầng hào quang trên đầu, rằng mình là người có địa vị, một nhà lãnh đạo, người chỉ huy, biên tập viên, hoặc đạo diễn vĩ đại trong nhà Đức Chúa Trời, và rằng ngươi đã có những đóng góp đáng giá cho công tác của nhà Đức Chúa Trời – nếu ngươi nghĩ như vậy, thì ngươi là người không có lý trí và vô liêm sỉ nhất. Các ngươi có phải là những người có thân phận, địa vị, và giá trị không? (Thưa, không.) Vậy thì ngươi là gì? (Thưa, con là một loài thọ tạo.) Đúng vậy, ngươi chỉ là một loài thọ tạo bình thường. Giữa mọi người, ngươi có thể phô trương trình độ, viện đến tư cách thâm niên, khoe khoang về những công lao của mình, hoặc nói về những chiến công hiển hách của mình. Nhưng trước Đức Chúa Trời, những thứ này không tồn tại, và ngươi đừng bao giờ nói về chúng, khoe khoang chúng, hoặc nói đến chuyện tư cách. Nếu ngươi phô trương tư cách của mình thì mọi chuyện sẽ tồi tệ. Đức Chúa Trời sẽ xem ngươi là kẻ cực kỳ thiếu lý trí và kiêu ngạo đến tột độ. Ngài sẽ thấy khinh ghét và ghê tởm ngươi, cho ngươi ra rìa, và khi đó ngươi sẽ gặp rắc rối. Trước tiên, ngươi phải thừa nhận thân phận và vị trí loài thọ tạo của mình. Bất kể giữa những người khác, thân phận của ngươi như thế nào, có địa vị cao quý ra sao, hoặc ngươi có những ưu thế nào, hoặc Đức Chúa Trời có ban cho ngươi dạng tài năng đặc biệt gì để ngươi có thể tận hưởng thừa đủ cảm giác vượt trội giữa mọi người không – thì khi ngươi đến trước Đức Chúa Trời, những điều này đều không có giá trị hay ý nghĩa gì. Vì vậy, ngươi không được khoe khoang, mà thay vào đó hãy là một loài thọ tạo ngoan ngoãn trước Đức Chúa Trời. Trước Đức Chúa Trời, ngươi chỉ là một thành viên của loài người thọ tạo. Dù danh vọng của ngươi cao đến đâu, ngươi có ân tứ hay tài năng ra sao, và dù ngươi có sự nghiệp to lớn như thế nào giữa mọi người, thì trước Đức Chúa Trời, những điều này đều không đáng để nhắc đến, chứ đừng nói là khoe khoang, và ngươi chỉ nên đứng đúng vị trí loài thọ tạo của mình. Đây là điều thứ nhất. Điều thứ hai là không được chỉ tìm cách tận hưởng ân điển và phước lành của Đức Chúa Trời trong khi trong lòng lại chống đối, cự tuyệt hình phạt và sự phán xét của Đức Chúa Trời, hoặc sợ hãi sự thử luyện và tinh luyện của Đức Chúa Trời dành cho ngươi. Những nỗi sợ hãi và chống đối này đều vô ích. Một số người nói: “Nếu con sẵn sàng chấp nhận sự phán xét, hình phạt, sự thử luyện và tinh luyện của Đức Chúa Trời, thì liệu con có thể được miễn khỏi những đau khổ này không?”. Đức Chúa Trời không làm tất cả những điều này tùy theo việc ngươi có thích hay không, hay theo mong muốn chủ quan hoặc sự lựa chọn của ngươi, mà là theo ý muốn, suy nghĩ và kế hoạch của Ngài. Vì vậy, với tư cách là một loài thọ tạo, ngoài việc tiếp nhận ân điển và phước lành của Đức Chúa Trời, ngươi còn phải có khả năng thực sự tiếp nhận và trải nghiệm trong lòng mình hình phạt, sự phán xét, thử luyện và tinh luyện của lời Đức Chúa Trời. Lại có người nói rằng: “Có phải ý Ngài là ân điển của Đức Chúa Trời có thể được ban cho con người mọi lúc mọi nơi, nhưng hình phạt, sự phán xét, thử luyện, tinh luyện và tai họa của Đức Chúa Trời cũng có thể giáng xuống con người mọi lúc mọi nơi không?”. Các ngươi có nghĩ rằng hình phạt, sự phán xét, thử luyện và tinh luyện của Đức Chúa Trời sẽ tùy tiện giáng xuống con người, khiến họ không thể đề phòng không? (Thưa, không.) Tuyệt đối là không, hoàn toàn không phải như vậy. Những con người bại hoại không xứng đáng với sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời – đây là điều các ngươi nên biết. Nhưng ngươi phải hiểu rằng Đức Chúa Trời phơi bày, vạch trần, sửa dạy, sửa phạt và hành phạt ngươi, cũng như phán xét, thử luyện và tinh luyện, thậm chí là rủa sả ngươi, tất cả đều dựa trên vóc giạc, hoàn cảnh của ngươi, và tất nhiên là cả những mưu cầu cá nhân của ngươi. Nếu Đức Chúa Trời chấp thuận ngươi, thì sự phán xét, hình phạt, thử luyện và tinh luyện của Ngài sẽ giáng xuống ngươi vào thời điểm thích hợp. Trong suốt quá trình ngươi tin vào Đức Chúa Trời, phước lành và ân điển của Ngài sẽ đồng hành cùng ngươi mọi lúc mọi nơi, sự phơi bày, sửa phạt, sửa dạy, hành phạt và phán xét, thử luyện và tinh luyện, v.v. của Ngài cũng vậy. Tất nhiên, mọi lúc mọi nơi có nghĩa là trong chừng mực đích đáng, vào đúng thời điểm và dựa trên kế hoạch của Đức Chúa Trời. Nó không xảy ra với con người một cách tùy tiện, và điều đó không có nghĩa là chỉ cần họ sơ sẩy một chút là tai ương lớn sẽ bất ngờ ập đến. Hoàn toàn không phải như vậy. Nếu ngươi chưa có một vóc giạc nhất định và Đức Chúa Trời chưa có dự định làm gì với ngươi, thì đừng lo, có thể là ngươi chỉ có những ân điển, phước lành và sự hiện diện của Đức Chúa Trời đồng hành cùng mình trong cuộc đời. Nếu ngươi chưa đủ vóc giạc, hoặc ngươi đặc biệt chống đối và sợ hãi trước hình phạt, sự phán xét, thử luyện và tinh luyện của Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời sẽ không ép buộc ngươi phải chịu những điều trái với ý muốn của ngươi, vì vậy ngươi không cần phải lo lắng về điều này. Bất kể những điều này có xảy đến hay không, con người cũng đều nên biết về công tác của Đức Chúa Trời và hiểu ý muốn của Ngài. Chỉ khi có hiểu biết chính xác về lời Đức Chúa Trời, con người mới có thể có thái độ đúng đắn, có tình trạng bình thường, và có khả năng đối mặt với bất cứ điều gì xảy đến một cách đúng đắn. Bây giờ các ngươi đã sẵn sàng tiếp nhận hình phạt, sự phán xét, thử luyện và tinh luyện của Đức Chúa Trời chưa? Các ngươi đã sẵn lòng tiếp nhận chưa? (Thưa, đã sẵn sàng.) Miệng nói có, nhưng trong lòng các ngươi vẫn rất sợ hãi. Nếu ngay sau khi ngươi nói sẵn sàng, một tai ương đột nhiên giáng xuống ngươi, thì ngươi sẽ đối diện như thế nào? Ngươi có bật khóc không? Ngươi có sợ chết không? Ngươi có lo mình sẽ không được ban phước không? Ngươi có lo mình sẽ không thể nhìn thấy ngày Đức Chúa Trời được vinh hiển không? Đây là tất cả những vấn đề con người phải đối mặt khi có chuyện xảy đến với họ. Nói tóm lại, nếu muốn đứng vững giữa những sự thử luyện và hoạn nạn, người ta phải có hai điều. Đầu tiên là phải đứng đúng vị trí loài thọ tạo của mình. Ngươi nên hiểu rõ trong lòng rằng mình là một loài thọ tạo bình thường, một con người bình thường giữa nhân loại bại hoại, không có gì phi thường hay đặc biệt, và ngươi nên đứng đúng vị trí loài thọ tạo của mình. Thứ hai là phải có tấm lòng chân thành, quy phục Đức Chúa Trời, và luôn sẵn sàng tiếp nhận phước lành và ân điển từ Đức Chúa Trời, cũng như tiếp nhận hình phạt, sự phán xét, thử luyện và tinh luyện từ Ngài. Như Gióp đã nói: “Sự phước mà tay Ðức Chúa Trời ban cho chúng ta, chúng ta lãnh lấy, còn sự tai họa mà tay Ngài giáng trên chúng ta, lại chẳng lãnh lấy sao?” (Gióp 2:10) và “Ðức Giê-hô-va đã ban cho, Ðức Giê-hô-va lại cất đi; đáng ngợi khen danh Ðức Giê-hô-va!” (Gióp 1:21). Đây là sự thật, và là sự thật sẽ không bao giờ thay đổi. Các ngươi hiểu mà, phải không? (Thưa, đã hiểu.) Nếu ngươi có được hai điều này, thì về cơ bản ngươi sẽ có thể đứng vững và vượt qua được những tai họa và hoạn nạn nói chung. Mặc dù ngươi có thể không có khả năng làm chứng mạnh mẽ và vang dội, nhưng ít nhất ngươi sẽ không thể đi lạc lối, vấp ngã hoặc làm chuyện gì đại nghịch bất đạo. Chẳng phải khi đó ngươi sẽ được an toàn sao? (Thưa, phải.) Vì vậy các ngươi nên thực hành theo hai điều này, và xem liệu chúng có dễ đạt được hay không, và liệu các ngươi có thể tiếp nhận chúng trong sâu thẳm lòng mình hay không. Một khi đã biết những điều này, thì khi gặp phải một số thử luyện, việc ngươi sẽ nhìn nhận và hiểu về chúng khác đi ra sao là việc của bản thân ngươi. Đến đây kết thúc mối thông công của chúng ta về chủ đề này.
Về những câu nói về đức hạnh trong văn hóa truyền thống, lần trước chúng ta đã thông công những câu nào? (Thưa, chúng ta đã thông công về ba câu nói: “Nhận ơn một giọt, trả ơn một dòng”, “Điều bản thân không muốn thì đừng áp đặt cho người khác”, và “Xả thân vì bạn bè”.) Lần trước, chúng ta đã thông công về ba yêu cầu và câu nói về đức hạnh này, cũng như về thực chất của các câu nói về đức hạnh. Về thực chất của những câu nói về đức hạnh, chúng ta đã thông công những gì? (Thưa, Đức Chúa Trời đã phán dạy về sự khác biệt giữa những câu nói về đức hạnh và lẽ thật. Những câu nói về đức hạnh chỉ hạn chế hành vi của con người và khiến họ chỉ biết tuân theo quy tắc, trong khi lẽ thật của lời Đức Chúa Trời cho con người biết các nguyên tắc lẽ thật mà họ nên hiểu, và chỉ ra một số con đường thực hành cho họ, để họ có nguyên tắc và phương hướng thực hành mỗi khi có chuyện xảy đến. Đây là những khía cạnh khác biệt giữa các câu nói về đức hạnh và lẽ thật.) Lần trước chúng ta đã thông công rằng những câu nói về đức hạnh chủ yếu yêu cầu con người tuân theo các thông lệ và quy tắc nhất định, đồng thời chú trọng hơn vào việc sử dụng quy tắc để hạn chế hành vi của con người. Trong khi đó, những yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người chủ yếu chỉ ra con đường thực hành cho họ dựa trên những gì nhân tính bình thường có thể đạt được, và mọi phương diện khác nhau của những con đường thực hành này gọi là các nguyên tắc. Điều này có nghĩa là mỗi khi có vấn đề xảy đến với ngươi, Đức Chúa Trời sẽ cho ngươi biết con đường thực hành chính xác và tích cực, cũng như cho ngươi biết các nguyên tắc, mục tiêu và phương hướng thực hành. Ngài không muốn ngươi tuân thủ quy tắc, mà là tuân theo các nguyên tắc này. Bằng cách này, con người sống thể hiện ra thực tế lẽ thật, và con đường họ đi sẽ đúng đắn. Hôm nay, chúng ta sẽ xem xét thêm có những vấn đề mang tính thực chất nào khác ở các câu nói về đức hạnh. Nhiều câu nói về đức hạnh không chỉ giam hãm suy nghĩ của con người, mà còn mê hoặc, làm tê liệt tư duy của họ. Đồng thời, còn có một số câu nói cực đoan hơn cướp đi mạng sống của con người. Ví dụ: câu nói khủng khiếp trong mối thông công lần trước của chúng ta là “Xả thân vì bạn bè” không chỉ khống chế và giam hãm suy nghĩ của con người, mà còn cướp đi mạng sống của họ, bằng cách khiến cho họ không những không biết quý trọng mạng sống của bản thân, mà còn do huyết khí nên dễ bốc đồng và xem nhẹ mà tùy tiện vứt bỏ mạng sống mình. Đây chẳng phải là cướp đi mạng sống của người ta sao? (Thưa, phải.) Thậm chí trước cả khi con người ta kịp hiểu đời là gì và tìm thấy con đường đúng đắn trong đời thì họ đã tùy tiện từ bỏ mạng sống của mình vì cái gọi là bạn bè để đáp lại một chút xíu ân tình, và coi mạng sống của bản thân là thứ vô cùng rẻ mạt và vô giá trị. Đây là hậu quả của một kiểu tư duy mà văn hóa truyền thống dạy con người. Nhìn vào cách những câu nói về đức hạnh có thể giam hãm suy nghĩ của con người, thì không có một điều tích cực nào ở chúng, và nhìn vào cách chúng tùy tiện cướp đi mạng sống của con người, thì chắc chắn chúng không có những tác dụng hay lợi ích tích cực đối với con người. Ngoài ra, con người còn bị mê hoặc và làm cho tê dại bởi những tư tưởng này. Vì hư vinh và thể diện của bản thân, cũng như để không bị dư luận xã hội lên án, họ buộc phải hành động theo những yêu cầu về đức hạnh. Con người đã hoàn toàn bị trói buộc, kìm hãm và xiềng xích bởi những câu nói và tư tưởng khác nhau về đức hạnh, khiến cho họ không còn lựa chọn nào khác. Nhân loại sẵn sàng sống trong xiềng xích của những câu nói về đức hạnh và không có được sự tự do lựa chọn nào chỉ để có thêm thể diện, trông tốt đẹp hơn trước người khác, được đánh giá cao và nhận được những lời khen có cánh từ mọi người, cũng như để tránh trở thành mục tiêu nói xấu sau lưng, và làm rạng danh gia tộc. Nhìn vào những tư tưởng, quan điểm này của con người, cũng như những hiện tượng con người bị chi phối bởi những câu nói về đức hạnh, thì mặc dù ở một mức độ nào đó, những câu nói như vậy hạn chế và ràng buộc hành vi của con người, nhưng phần lớn chúng che đậy sự thật rằng Sa-tan làm bại hoại con người và sự thật rằng con người có những tâm tính bại hoại và bản tính Sa-tan. Chúng dùng hành vi bên ngoài để tạo vỏ bọc cho con người sao cho bề ngoài họ sống một cuộc sống có thể diện, nho nhã, phong độ, thiện lương, tôn quý và cao thượng. Vì vậy, những người khác chỉ có thể xác định họ là loại người gì – cao quý hay thấp hèn, thiện hay ác – thông qua hành vi bên ngoài của họ. Trong hoàn cảnh đó, ai cũng phán đoán và đánh giá xem một người là tốt hay xấu dựa trên những yêu cầu khác nhau về đức hạnh, nhưng không ai có thể nhìn thấu qua đạo đức bề ngoài vào tận thực chất bại hoại của người ta, cũng như không thể thấy rõ đủ kiểu thâm hiểm và xấu xa ẩn sau vẻ ngoài đạo đức. Bằng cách này, con người sử dụng đạo đức như một cái lốt để che đậy được nhiều hơn thực chất bại hoại của mình. Ví dụ: một người phụ nữ bên ngoài thì hiền lương thục đức, được mọi người xung quanh khen ngợi, ngưỡng mộ. Cô ấy cư xử đúng mực, có khuôn phép, đặc biệt nhẫn nhịn trong tương tác với người khác, không thù oán, hiếu thuận với cha mẹ, làm tốt vai trò người vợ, người mẹ, có thể chịu khổ, và được coi là tấm gương cho những người phụ nữ khác. Không thể phát hiện được vấn đề gì từ vẻ bề ngoài của cô ấy, nhưng không ai biết cô ấy nghĩ gì hoặc nghĩ như thế nào trong thâm tâm. Cô ấy không bao giờ muốn nói ra những ham muốn và tham vọng của mình, cũng như không dám nói. Tại sao cô ấy không dám nói? Vì cô ấy muốn hành xử như một người phụ nữ hiền lương thục đức. Nếu cô ấy thực sự mở lòng và để lộ lòng mình cũng như sự xấu xa của mình, thì cô ấy sẽ không thể trở thành một người phụ nữ hiền lương thục đức được, thậm chí sẽ bị người khác chỉ trích, khinh thường, cho nên cô ấy buộc phải che đậy và ngụy tạo bản thân. Sống dưới cái lốt của hành vi bên ngoài là hiền lương thục đức này đồng nghĩa với việc mọi người chỉ nhìn thấy những việc làm tốt của cô ấy và khen ngợi cô ấy, như vậy là cô ấy đã đạt được mục đích. Nhưng bất kể cô ấy ngụy trang và lừa dối người khác như thế nào, cô ấy có thực sự tốt như mọi người nghĩ không? Chắc chắn là không. Thực ra cô ấy có tâm tính bại hoại không? Cô ấy có thực chất bại hoại không? Cô ấy có giả dối không? Có kiêu ngạo không? Có cương ngạnh không? Có xấu xa không? (Thưa, có.) Cô ấy chắc chắn có những điều này, nhưng tất cả đều được che đậy – đây là sự thật. Một số nhân vật lịch sử Trung Quốc được tôn sùng là cổ thánh tiên hiền. Đâu là cơ sở để đưa ra khẳng định này? Họ được ca ngợi là thánh nhân, hiền nhân chỉ dựa trên một số ghi chép và truyền thuyết hạn chế, không có căn cứ. Thực tế là không ai biết chính xác những hành động và hành vi của họ khi không có ai nhìn là gì. Bây giờ các ngươi đã có sự hiểu biết thấu đáo về những vấn đề này chưa? Một số người các ngươi hẳn đã hiểu biết phần nào thấu đáo rồi, bởi vì các ngươi đã nghe rất nhiều bài giảng và đã thấy khá rõ thực chất và chân tướng sự bại hoại của con người. Chỉ cần con người lĩnh hội được một số lẽ thật, họ sẽ có khả năng nhìn thấu một số con người, sự việc và sự vật. Liệu một người phụ nữ hiền lương thục đức, bất kể hành vi và đạo đức bên ngoài của cô ấy gương mẫu đến đâu và bất kể cô ấy ngụy trang, ngụy tạo bản thân tốt đến đâu – có bộc lộ tâm tính kiêu ngạo của mình không? (Thưa, có.) Chắc chắn là có. Thế cô ấy có tâm tính cương ngạnh không? (Thưa, có.) Cô ấy tự cho mình là đúng và cảm thấy mình là người hiền lương thục đức, rằng mình là người tốt, chứng tỏ cô ấy rất tự nên công chính và cũng rất cương ngạnh. Thực tế là trong thâm tâm, cô ấy nhận ra con người thật cũng như những khiếm khuyết của mình, vậy mà vẫn có thể khoe mẽ về đức hạnh của bản thân. Đây chẳng phải là cương ngạnh sao? Đây chẳng phải là kiêu ngạo sao? Ngoài ra, việc cô ấy tự nhận mình là hiền lương thục đức chỉ là vì muốn để lại tiếng thơm và làm rạng danh gia tộc. Chẳng phải những suy nghĩ và sự mưu cầu như thế là phi lý và xấu xa sao? Cô ấy được mọi người khen ngợi và có tiếng thơm, nhưng trong thâm tâm cô ấy luôn che giấu những ý định, suy nghĩ của mình, cũng như những điều đáng xấu hổ mình đã làm, và không nói một điều gì như vậy với bất kỳ ai. Cô ấy sợ rằng một khi mọi người nhìn thấu cô ấy, họ sẽ bình phẩm, phán xét và chối bỏ cô ấy. Đây là tâm tính gì? Chẳng phải là giả dối sao? (Thưa, phải.) Vì vậy, bất kể hành vi bên ngoài của cô ấy đứng đắn và đáng kính đến đâu, hoặc bất kể đức hạnh của cô ấy cao đến mức nào, thì những tâm tính bại hoại của cô ấy vẫn thực sự tồn tại, chỉ là những người ngoại đạo chưa từng nghe được lời Đức Chúa Trời và không hiểu lẽ thật nên mới không thể nhận thấy hay biết được điều này. Cô ấy có thể lừa dối những người ngoại đạo, nhưng không thể lừa dối những người tin vào Đức Chúa Trời và hiểu lẽ thật. Chẳng phải vậy sao? (Thưa, phải.) Đó là bởi cô ấy đã bị Sa-tan làm cho bại hoại, và cô ấy có tâm tính bại hoại cũng như thực chất bại hoại. Đây là sự thật. Dù đức hạnh của cô ấy tốt đến đâu, hay dù cô ấy đã đạt được tiêu chuẩn cao đến mức nào, thì việc cô ấy có tâm tính bại hoại là điều không thể phủ nhận và bất di bất dịch. Một khi mọi người hiểu được lẽ thật, họ sẽ có khả năng nhận ra con người cô ấy. Thế nhưng Sa-tan lợi dụng những câu nói về đức hạnh này để mê hoặc con người, và tất nhiên cũng là để làm tê dại và giam hãm suy nghĩ của họ, khiến họ lầm tưởng rằng nếu đáp ứng được những yêu cầu và tiêu chuẩn về đức hạnh này, thì họ là người tốt và đang đi đúng đường. Thực tế thì ngược lại. Một số người vẫn chưa bước chân vào con đường nhân sinh đúng đắn ngay cả khi đã thể hiện một số hành vi tốt phù hợp với những câu nói về đức hạnh. Thay vào đó, họ đã dấn thân vào con đường sai trái và đang sống trong tội lỗi. Họ đã dấn thân vào con đường giả hình và rơi vào bẫy của Sa-tan. Đó là bởi những tâm tính bại hoại và thực chất bại hoại của con người sẽ không thay đổi dù chỉ một chút nào chỉ vì họ có chút đạo đức tốt. Đạo đức bề ngoài chỉ là trang trí, chỉ để phô ra cho mọi người xem, còn bản tính thực sự và tâm tính thực sự của họ vẫn sẽ lộ nguyên hình. Sa-tan bắt đầu hạn chế và khống chế con người thông qua hành vi và biểu hiện bên ngoài của họ, khiến con người ngụy trang và ngụy tạo bản thân bằng những hành vi tốt, đồng thời sử dụng hành vi tốt của con người để che đậy sự thật rằng Sa-tan đã làm bại hoại loài người, và tất nhiên cũng là để che đậy sự thật rằng con người có những tâm tính bại hoại. Một mặt, mục đích của Sa-tan là khiến con người phải chịu sự khống chế của những câu nói về đức hạnh này, nhằm làm cho họ làm nhiều việc thiện hơn, giảm việc xấu, và chắc chắn không làm những việc chống lại giai cấp thống trị. Điều này càng có lợi hơn cho sự thống trị và khống chế nhân loại của giai cấp thống trị. Mặt khác, sau khi con người tiếp nhận những câu nói về đức hạnh này làm cơ sở lý luận cho cách hành xử và hành động của mình, họ có xu hướng xa rời, chống đối lẽ thật và những điều tích cực. Tất nhiên vì thế mà đối với những lời phán của Đức Chúa Trời, và những điều tích cực hay lẽ thật Đức Chúa Trời dạy cho con người, họ sẽ phải vật lộn để hiểu và lĩnh hội, hoặc có thể hình thành đủ kiểu chống đối và quan niệm. Một khi con người có những tư tưởng về đức hạnh này, họ thường sẽ khó tiếp nhận lời Đức Chúa Trời và lẽ thật hơn, và tất nhiên họ cũng khó khăn hơn trong việc hiểu và thay đổi được những tâm tính bại hoại. Vì vậy, tất cả những câu nói và tư tưởng khác nhau về đức hạnh đã cản trở đáng kể việc tiếp nhận và hiểu lời Đức Chúa Trời của con người, và tất nhiên cũng đã tác động đến mức độ con người tiếp nhận lẽ thật. Sa-tan sử dụng phương pháp nhồi sọ con người bằng những câu nói về đức hạnh để khiến họ sinh ra đủ loại tư tưởng và quan điểm sai lầm, tiêu cực, để họ nhìn nhận con người và sự việc, hành xử và hành động dựa trên những tư tưởng, quan điểm này. Khi con người dùng những tư tưởng đằng sau các câu nói về đức hạnh này làm cơ sở lý luận và tiêu chuẩn cho quan điểm về con người và sự việc cũng như cách hành xử và hành động của họ, thì những tâm tính bại hoại của họ chẳng những không thể giảm bớt hoặc thay đổi, mà ngược lại, ở một mức độ nào đó còn trở nên nghiêm trọng hơn, và sự bất tuân, chống đối Đức Chúa Trời của họ càng trở nên tồi tệ hơn. Do đó, khi Đức Chúa Trời cứu rỗi con người, khi lời Đức Chúa Trời được ban cho họ, trở ngại lớn nhất không phải là tâm tính bại hoại của con người, mà là các triết lý Sa-tan khác nhau, những câu nói về đức hạnh, và những tư tưởng, quan điểm Sa-tan khác nhau đến từ Sa-tan. Đây là hậu quả của việc Sa-tan làm bại hoại nhân loại, và nó cũng là tác động tiêu cực của các câu nói về đức hạnh khác nhau đối với những con người bại hoại. Đây là mục đích thực sự mà Sa-tan muốn đạt được bằng cách tuyên truyền và cổ xúy những câu nói về đức hạnh.
Trong buổi nhóm họp lần trước, chúng ta chủ yếu thông công về ba câu nói về đức hạnh là “Nhận ơn một giọt, trả ơn một dòng”, “Điều bản thân không muốn thì đừng áp đặt cho người khác” và “Xả thân vì bạn bè”. Hôm nay, chúng ta sẽ thông công về câu nói “Giàu sang không mê hoặc nổi, nghèo hèn không lay chuyển nổi, uy lực không khuất phục nổi”. Câu nói về đức hạnh này cũng đã xuất hiện trong nhân loại, xuất phát từ tư tưởng, quan điểm của nhân loại bại hoại. Tất nhiên, chính xác hơn là nó bắt nguồn từ việc Sa-tan làm bại hoại và mê hoặc nhân loại. Nó có tác động và tính chất giống như những câu nói về đức hạnh chúng ta đã thông công trước đó, mặc dù với một cách tiếp cận khác. Chúng đều là hào ngôn tráng ngữ, rất khẳng khái, sôi nổi và hào hùng. Nếu người ta chưa bao giờ nghe thấy lời Đức Chúa Trời và không hiểu lẽ thật, họ sẽ cảm thấy những câu nói này vô cùng phấn chấn nhân tâm và thổi bừng nhiệt huyết. Sau khi nghe những lời này, họ sẽ ngay lập tức được tiếp thêm sức mạnh và siết chặt nắm đấm. Họ sẽ không thể ngồi yên được nữa hoặc không thể kìm chế tâm trạng phấn khích trong lòng, và sẽ cảm thấy đây chính là văn hóa Trung Quốc và tinh thần của loài rồng. Bây giờ các ngươi có còn cảm thấy như vậy không? (Thưa, không.) Bây giờ các ngươi cảm thấy như thế nào khi nghe những lời này? (Thưa, bây giờ con cảm thấy những lời này không tốt hoặc không tích cực.) Tại sao bây giờ các ngươi lại cảm nhận khác so với trước đây? Có phải vì một khi con người già đi và đã trải qua quá nhiều đau khổ, họ sẽ mất đi nhuệ khí ngông cuồng tuổi trẻ không? Hay là bởi vì một khi con người đã hiểu được một số lẽ thật, họ có thể phân định rằng những câu nói về đức hạnh này quá rỗng tuếch, phi thực tế và vô dụng? (Thưa, chủ yếu là bởi vì những câu nói này không phù hợp với lẽ thật và không thiết thực.) Thật vậy, những câu nói về đức hạnh này quá rỗng tuếch và phi thực tế. Vậy đối với câu nói về đức hạnh: “Giàu sang không mê hoặc nổi, nghèo hèn không lay chuyển nổi, uy lực không khuất phục nổi”, chúng ta sẽ phân tích và mổ xẻ xem nó sai ở đâu dựa trên các nguyên tắc chúng ta đã thông công trước đây, để vạch rõ sự vô lý của câu nói này và những mưu mô xảo quyệt của Sa-tan ẩn chứa trong đó. Các ngươi có biết cách mổ xẻ không? Trước hết, hãy nói Ta nghe xem ý nghĩa của câu này chính xác là gì. (Thưa, đây là ba tiêu chí để trở thành một nam tử hán đại trượng phu do Mạnh Tử đưa ra. Cách diễn giải hiện đại là: Vinh hoa phú quý không thể làm xáo trộn quyết tâm của người ta, hoàn cảnh nghèo khó, thấp hèn không thể lay động ý chí kiên cường của họ, và mối đe dọa của cường quyền, bạo lực không thể khiến họ khuất phục.) Câu nói về đức hạnh chúng ta đã đề cập trước đây – “Hiền lương thục đức” – nhắm vào nữ giới, còn câu này rõ ràng nhắm vào nam giới. Những yêu cầu được đặt ra cho nam giới trong đủ loại môi trường, dù là cuộc sống vinh hoa phú quý, hay hoàn cảnh nghèo khó, hay phải đối mặt với cường quyền, bạo lực. Tổng cộng có bao nhiêu yêu cầu đặt ra cho nam giới? Nam giới được yêu cầu là phải có ý chí kiên cường, quyết tâm sắt đá, và không khuất phục trước cường quyền, bạo lực. Thử nghĩ xem những yêu cầu được đưa ra này có liên quan gì đến nhân tính bình thường không, có liên quan gì đến hoàn cảnh sống trong đời thực của con người không. Nói cách khác, thử nghĩ xem những yêu cầu đặt ra cho nam giới này có rỗng tuếch và phi thực tế không. Yêu cầu của văn hóa truyền thống đối với đạo đức của nữ giới là phụ nữ phải hiền lương thục đức, “hiền” có nghĩa là hiền lành, “lương” có nghĩa là lương thiện, “thục” có nghĩa là làm một thục nữ, và “đức” có nghĩa là làm một người có đạo đức và có đức hạnh tốt. Mỗi yêu cầu trong đó đều rất nhẹ nhàng. Đàn ông không cần phải hiền lương thục đức, trong khi phụ nữ không cần phải có ý chí kiên cường, quyết tâm sắt đá, và có thể khuất phục khi phải đối mặt với cường quyền, bạo lực. Điều đó có nghĩa là yêu cầu về đức hạnh “Giàu sang không mê hoặc nổi, nghèo hèn không lay chuyển nổi, uy lực không khuất phục nổi” cho phụ nữ đủ đường lui ở chỗ nó đặc biệt khoan dung và độ lượng với họ. Ý nghĩa của sự khoan dung và độ lượng này là gì? Có thể hiểu theo cách khác không? (Thưa, đó là một hình thức phân biệt đối xử.) Ta cũng nghĩ vậy. Thực tế đây là phân biệt đối xử với phụ nữ, quan niệm cho rằng phụ nữ không có ý chí kiên cường, rằng họ dè dặt như đàn bà, bẽn lẽn, và rằng chỉ cần họ sinh con đẻ cái, đóng vai trò người vợ, người mẹ đảm đang, chăm lo việc nhà, không cãi vã với người khác hay ngồi lê đôi mách là đủ. Yêu cầu họ phải lập nghiệp và có ý chí kiên cường là bất khả thi – họ không có khả năng đó. Vì vậy, nhìn từ một góc độ khác, những yêu cầu này đối với phụ nữ là hết sức phân biệt đối xử và hạ thấp. Câu nói về đức hạnh: “Giàu sang không mê hoặc nổi, nghèo hèn không lay chuyển nổi, uy lực không khuất phục nổi” này nhằm vào đàn ông. Nó đòi hỏi đàn ông phải có ý chí kiên cường và một quyết tâm sắt đá, cũng như có khí khái nam tử hán đại trượng phu không khuất phục trước cường quyền, bạo lực. Yêu cầu này có đúng không? Có hợp lý không? Những yêu cầu này đối với đàn ông cho thấy người đưa ra câu nói về đức hạnh này đánh giá cao nam giới, bởi vì những yêu cầu của họ đối với nam giới cao hơn đối với nữ giới. Có thể hiểu điều này có nghĩa là xét về cả mặt bản chất giới tính lẫn vị thế xã hội và bản năng nam giới, thì nam giới phải hơn nữ giới. Có phải câu nói về đức hạnh này được hình thành từ quan điểm này không? (Thưa, phải.) Rõ ràng, đây là sản phẩm của một xã hội mà nam nữ không bình đẳng. Trong xã hội này, đàn ông liên tục phân biệt đối xử và hạ thấp phụ nữ, thu hẹp phạm vi cuộc sống của phụ nữ, phớt lờ giá trị tồn tại của phụ nữ, không ngừng phóng đại giá trị của nam giới, đề cao vị thế xã hội của nam giới, và để quyền lợi của nam giới lấn át quyền lợi của phụ nữ. Những tác động và hậu quả của việc này trong xã hội là gì? Xã hội này được cai trị và thống trị bởi đàn ông. Đó là một xã hội phụ quyền, trong đó nữ giới phải chịu sự lãnh đạo, đàn áp và kiểm soát của nam giới. Đồng thời, nam giới có thể tham gia vào bất kỳ ngành nghề công việc nào, trong khi phạm vi việc làm mà nữ giới có thể đảm nhận nên được giảm bớt và hạn chế. Nam giới nên được hưởng đầy đủ mọi quyền lợi trong xã hội, trong khi phạm vi quyền lợi nữ giới được hưởng rõ ràng là hạn chế. Những công việc mà nam giới không muốn hoặc không chọn làm, hoặc những công việc mà nếu làm, họ sẽ bị kỳ thị, thì có thể để cho nữ giới làm. Ví dụ: giặt giũ, nấu ăn, các ngành dịch vụ và một số việc làm có thu nhập khá thấp và địa vị xã hội thấp hoặc bị mọi người kỳ thị, thì dành cho nữ giới làm. Nói cách khác, nam giới được hưởng đầy đủ quyền lợi với tư cách là nam giới về mặt lựa chọn nghề nghiệp, vị thế xã hội, và được hưởng những đặc quyền mà xã hội dành cho nam giới. Trong một xã hội như vậy, nam giới được ưu tiên, còn nữ giới chỉ xếp thứ hai, thậm chí đến mức họ hoàn toàn không được tự do lựa chọn, thậm chí không có quyền lựa chọn. Họ chỉ có thể bị động chờ đợi để được chọn, và cuối cùng bị xã hội này loại bỏ và đào thải. Do đó, những yêu cầu của xã hội này đối với nữ giới là tương đối nhẹ nhàng, trong khi những yêu cầu đối với nam giới lại tương đối khắt khe và hà khắc. Tuy nhiên, dù hướng đến đối tượng là nam giới hay nữ giới, thì xuất phát điểm và mục đích đưa ra những yêu cầu về đức hạnh này là để làm cho mọi người phục vụ xã hội, dân tộc, quốc gia tốt hơn, và tất nhiên cuối cùng là phục vụ giai cấp thống trị cùng những kẻ cai trị. Từ câu nói “Giàu sang không mê hoặc nổi, nghèo hèn không lay chuyển nổi, uy lực không khuất phục nổi”, thật dễ để thấy rằng người đưa ra yêu cầu về đức hạnh này có thiên kiến với nam giới. Trong mắt người đó, nam giới phải có ý chí kiên cường, quyết tâm không gì sắt đá và khí khái không khuất phục trước cường quyền, bạo lực. Từ những yêu cầu này, các ngươi có thể thấy mục đích của người đưa ra câu nói này là gì không? Đó là làm cho những người đàn ông hữu dụng và những người đàn ông có ý chí kiên cường trong xã hội này có thể phục vụ xã hội, dân tộc và đất nước tốt hơn, và cuối cùng là có khả năng phục vụ giới cầm quyền tốt hơn, đồng thời phát huy tốt đa giá trị và tác dụng của đàn ông trong xã hội này. Chỉ những người đàn ông như thế này mới có thể gọi là nam tử hán đại trượng phu. Nếu đàn ông không đáp ứng được những yêu cầu này, thì trong mắt những nhà đạo đức và người cầm quyền này, họ không được gọi là nam tử hán đại trượng phu, mà chỉ có thể gọi là kẻ vô tích sự, kẻ hạ đẳng, và bị kỳ thị. Điều đó có nghĩa là nếu một người đàn ông mà không có ý chí kiên cường, quyết tâm sắt đá và khí khái không khuất phục trước cường quyền, bạo lực như yêu cầu, mà chỉ là một con người bình thường, tầm thường, không có thành tựu gì, và chỉ có thể sống tốt cuộc đời mình, không thể cống hiến được giá trị gì cho xã hội, cho dân tộc, cho quốc gia, không được những người cầm quyền, quốc gia hay dân tộc trọng dụng, thì người đó sẽ không được xã hội chấp nhận và coi trọng, cũng như không được những người cầm quyền coi trọng, và sẽ bị những người cầm quyền hay những nhà đạo đức này coi là một kẻ vô tích sự, một kẻ hạ đẳng, và một kẻ phế vật trong nam giới. Chẳng phải vậy sao? (Thưa, phải.) Các ngươi có đồng ý với câu nói này không? Câu nói này có thích đáng không? Có công bằng với đàn ông không? (Thưa, không công bằng.) Đàn ông có phải mang tâm tư vì thiên hạ, đất nước, và đại nghiệp của dân tộc không? Họ không thể chỉ là những người đàn ông bình thường, có trách nhiệm hay sao? Họ không thể khóc lóc, lụy tình, nuôi những động cơ ích kỷ nhỏ nhen, hay sống một cuộc sống đơn giản bên những người thân yêu hay sao? Họ nhất định phải mang tâm tư vì thiên hạ thì mới được xem là nam tử hán đại trượng phu sao? Họ phải là nam tử hán đại trượng phu thì mới được coi là đàn ông sao? Định nghĩa về một người đàn ông có buộc phải là nam tử hán đại trượng phu không? (Thưa, không.) Những tư tưởng này là một sự xúc phạm nam giới, tương đương với một sự công kích cá nhân vào nam giới. Có ai trong số các ngươi cảm thấy như vậy không? (Thưa, có.) Đàn ông không có ý chí kiên cường thì có sao không? Đàn ông không có quyết tâm sắt đá thì có sao không? Khi đàn ông phải đối mặt với cường quyền, bạo lực, họ nhượng bộ và cố gắng thỏa hiệp để tồn tại thì có sao không? (Thưa, không sao.) Nếu đàn ông không có bất cứ điều gì mà phụ nữ không có, thì có sao không? Đàn ông tự cho mình nghỉ ngơi bằng cách không cần phải làm nam tử hán đại trượng phu, mà chỉ là một người đàn ông bình thường thì có sao không? (Thưa, không sao.) Có như vậy con người mới được giải phóng, con đường làm nam giới mới rộng mở, nam giới mới không còn quá mệt mỏi trong cuộc sống mà có thể sống bình thường được.
Vẫn còn khá nhiều quốc gia giam hãm nam giới bằng những tư tưởng của văn hóa truyền thống như “Giàu sang không mê hoặc nổi, nghèo hèn không lay chuyển nổi, uy lực không khuất phục nổi”. Những quốc gia này vẫn còn là những xã hội phụ quyền, nơi mà nam giới nắm quyền chỉ huy và thống trị tối cao từ gia đình cho đến xã hội và quốc gia nói chung, được ưu tiên về mọi mặt, giành chiến thắng trong mọi tình huống, và có cảm giác rằng mình ưu việt hơn nữ giới trên mọi phương diện. Đồng thời, những xã hội, dân tộc và quốc gia như thế có các yêu cầu cao đối với nam giới, gây áp lực cực lớn cho họ và dẫn đến nhiều hệ lụy xấu. Một số nam giới mất việc thậm chí còn không dám nói với gia đình. Ngày qua ngày, họ vác cặp giả vờ đi làm, nhưng thực ra là ra ngoài dạo phố. Đôi khi buổi tối họ về trễ và thậm chí còn nói dối người nhà rằng mình vừa làm thêm giờ ở văn phòng. Rồi hôm sau, họ tiếp tục giả vờ bằng cách lại ra ngoài dạo phố. Những tư tưởng của văn hóa truyền thống này, cũng như những trách nhiệm xã hội của nam giới và việc định vị họ trong xã hội là nguồn cơn của áp lực và thậm chí là sự sỉ nhục, đồng thời bóp méo nhân tính của nam giới, khiến cho nam giới cảm thấy bực bội, bị kìm nén, và thường xuyên ở trên bờ vực suy sụp mỗi khi bị khó khăn bủa vây. Tại sao lại như vậy? Bởi vì họ cho rằng mình là đàn ông, rằng đàn ông phải kiếm tiền nuôi gia đình, rằng họ phải thực hiện trách nhiệm đàn ông của mình, rằng đàn ông không được khóc lóc hay buồn bã, và rằng đàn ông không được thất nghiệp mà phải là trụ cột của xã hội và điểm tựa của gia đình. Giống như những người ngoại đạo nói: “Đàn ông không dễ rơi nước mắt”, một người đàn ông không được yếu đuối, cũng không được có bất kỳ khuyết điểm nào. Những tư tưởng và quan điểm này là do nhà đạo đức sai lầm khi xác định vị trí của nam giới, cũng như do họ liên tục nâng cao vị thế của nam giới. Những tư tưởng, quan điểm này không chỉ đẩy nam giới vào đủ thứ rắc rối, phiền não và đau khổ, mà còn trở thành xiềng xích trong lòng họ, khiến cho vị trí, hoàn cảnh và những cuộc gặp gỡ của họ trong xã hội ngày càng trở nên khó xử. Khi áp lực đối với nam giới tăng lên, những tác động tiêu cực của các tư tưởng, quan điểm này đối với nam giới cũng tăng theo. Thậm chí, một số nam giới còn tự xếp mình là đại nam nhân do hiểu sai về việc định vị phái nam trong xã hội, cho rằng nam là đại, nữ là tiểu, cho nên nam giới phải chỉ huy mọi sự, phải làm chủ gia đình, và khi mọi việc không như ý, họ có thể bạo hành phụ nữ trong gia đình. Những vấn đề này đều liên quan đến cách nhân loại sai lầm khi xác định vị trí của nam giới, chẳng phải vậy sao? (Thưa, phải.) Ngươi có thể thấy ở hầu hết các nước trên thế giới, vị thế xã hội của nam giới cao hơn nữ giới, đặc biệt là trong gia đình. Đàn ông không phải làm bất cứ việc gì ngoài đi làm kiếm tiền, trong khi phụ nữ làm tất cả việc nhà, dù có mệt mỏi hoặc gian khổ đến đâu cũng không được lý lẽ, phàn nàn, hay dám kể lể với người khác. Vị thế của nữ giới thấp đến đâu? Ví dụ: đàn ông được chọn món ngon nhất trên bàn ăn rồi mới đến phụ nữ, còn trong sổ hộ khẩu, đàn ông được ghi là chủ hộ, còn phụ nữ là thành viên gia đình. Chỉ từ những chuyện vặt vãnh này thôi cũng đã thấy được sự chênh lệch về vị thế giữa nam và nữ. Sự phân công lao động giữa nam và nữ khác nhau là do khác biệt giới tính, nhưng sự chênh lệch về vị thế giữa nam và nữ trong gia đình quá lớn như vậy chẳng phải là bất công hay sao? Đây chẳng phải là do sự giáo dục trong văn hóa truyền thống gây ra hay sao? Trong xã hội, không chỉ phụ nữ cho rằng đàn ông tôn quý và cao quý hơn mình, mà ngay cả đàn ông cũng cho rằng họ cao quý và cao cấp hơn so với phụ nữ, bởi vì đàn ông có thể tạo ra nhiều giá trị hơn và phát huy được nhiều hơn những khả năng của họ trong xã hội, dân tộc và quốc gia, trong khi phụ nữ thì không thể. Đây chẳng phải là bóp méo sự thật sao? Một sự bóp méo sự thật như vậy đã xảy ra như thế nào? Nó có liên quan trực tiếp đến sự tiêm nhiễm và ảnh hưởng của nền giáo dục xã hội và văn hóa truyền thống không? (Thưa, có.) Nó liên quan trực tiếp đến sự giáo dục của văn hóa truyền thống. Trong nhân loại, bất luận là trong xã hội hiện thực, hay trong một dân tộc hay quốc gia, bất luận vấn đề bất thường nào xuất hiện, đều bắt nguồn từ một số tư tưởng sai lầm do một số ít nhà xã hội học hoặc nhà cầm quyền chủ trương, và đều liên quan trực tiếp đến những tư tưởng sai lầm do các nhà lãnh đạo của một xã hội, dân tộc hoặc quốc gia chủ trương. Nếu những tư tưởng, quan điểm họ chủ trương là tích cực hơn và gần hơn với lẽ thật, thì trong nhân loại sẽ có ít vấn đề hơn; nếu những tư tưởng họ chủ trương là thiên vị, sai lầm và bóp méo nhân tính, thì nhiều điều bất thường sẽ xảy ra trong xã hội, trong một nhóm sắc tộc hoặc trong một quốc gia. Nếu các nhà xã hội học bênh vực nam quyền, đề cao giá trị của nam giới mà hạ thấp giá trị và tôn nghiêm của nữ giới, thì trong xã hội này, rõ ràng sẽ có sự chênh lệch rất lớn về vị thế xã hội giữa nam và nữ, kéo theo nhiều bất bình đẳng như bất bình đẳng về nghề nghiệp, địa vị xã hội và phúc lợi xã hội, cũng như sự chênh lệch rất lớn về vị thế giữa hai giới trong gia đình và một sự phân công lao động hoàn toàn khác biệt – tất cả những điều này đều là bất thường. Sự xuất hiện của những vấn đề bất thường này liên quan đến những người chủ trương những tư tưởng, quan điểm này, và do những chính trị gia và nhà xã hội học này gây ra. Nếu từ đầu nhân loại có quan điểm đúng đắn và những câu nói đúng đắn về các vấn đề này, thì những vấn đề bất thường này sẽ giảm đi tương đối ở mọi quốc gia, mọi dân tộc.
Trên cơ sở những gì chúng ta vừa thông công, thì quan điểm đúng đắn về việc đối xử với nam giới nên là gì? Nam giới nên có những biểu hiện, nhân tính, sự mưu cầu và vị thế xã hội như thế nào để trở nên bình thường? Nam giới nên tiếp cận trách nhiệm xã hội của mình như thế nào? Bên cạnh sự khác biệt về giới tính, có nên có sự khác biệt giữa nam và nữ về trách nhiệm xã hội và vị thế xã hội không? (Thưa, không nên.) Vậy nên đối xử với nam giới như thế nào cho đúng đắn, khách quan, đúng nhân tính và phù hợp với các nguyên tắc lẽ thật? Đây chính là những gì chúng ta nên hiểu ngay bây giờ. Giờ chúng ta sẽ nói về việc chính xác nên đối xử với nam giới như thế nào. Có nên phân biệt trách nhiệm xã hội giữa nam và nữ không? Nam và nữ có nên có vị thế xã hội bình đẳng không? Có công bằng không khi đề cao quá mức vị thế của nam giới và hạ thấp nữ giới? (Thưa, không công bằng.) Vậy chính xác thì vị thế xã hội của nam và nữ nên được xử lý như thế nào cho công bằng và hợp lý? Nguyên tắc cho việc này là gì? (Thưa, đó là nam và nữ đều bình đẳng và nên được đối xử công bằng.) Đối xử công bằng là cơ sở lý luận, nhưng nên đưa điều đó vào thực hành như thế nào để phản ánh được sự công bằng và hợp lý? Chẳng phải điều này liên quan đến các vấn đề thực tế sao? Trước hết, chúng ta phải xác định rằng vị thế giữa nam và nữ là bình đẳng – điều này không thể bàn cãi. Vì vậy, sự phân công lao động xã hội giữa nam và nữ cũng nên bình đẳng, và nên được cân nhắc, sắp xếp dựa trên tố chất cũng như khả năng thực hiện công việc của họ. Đặc biệt trong vấn đề nhân quyền thì càng phải bình đẳng, ở chỗ nữ giới cũng nên được hưởng những gì nam giới có thể được hưởng, để đảm bảo vị thế bình đẳng giữa nam và nữ trong xã hội. Bất kỳ ai có thể làm được công việc, hoặc bất kỳ ai đủ năng lực làm lãnh đạo, thì nên để họ làm, không phân biệt nam nữ. Các ngươi nghĩ sao về nguyên tắc này? (Thưa, hay ạ.) Điều này phản ánh sự bình đẳng giữa nam và nữ. Ví dụ: nếu có hai nam và hai nữ ứng tuyển làm lính cứu hỏa, thì nên tuyển ai? Đối xử công bằng là cơ sở lý luận và nguyên tắc. Vậy thì trên thực tế, người ta nên làm điều đó như thế nào? Như Ta vừa nói, ai đáp ứng yêu cầu công việc thì để họ làm, tùy theo khả năng và tố chất của họ. Chỉ cần lựa chọn theo nguyên tắc này, bằng cách xem ai trong số những ứng viên này có đủ sức khỏe và không vụng về. Chữa cháy đòi hỏi phải hành động nhanh trong trường hợp khẩn cấp. Nếu ngươi quá vụng về, đần độn và chậm chạp như con rùa hay con bò già, thì ngươi sẽ làm chậm trễ mọi việc. Sau khi xác định đặc điểm của từng ứng viên, về mặt tố chất, khả năng, kinh nghiệm, trình độ năng lực trong công tác chữa cháy, v.v., kết luận được đưa ra là một nam và một nữ là khá phù hợp: người nam thì cao to, cường tráng, có kinh nghiệm chữa cháy và đã tham gia một số hoạt động chữa cháy và cứu hộ; người nữ thì nhanh nhẹn, đã qua đào tạo nghiêm ngặt, am hiểu về chữa cháy và các quy trình công việc liên quan, có tố chất, đã thể hiện nổi bật trong các công việc khác và được khen thưởng. Vì vậy cuối cùng, cả hai đều được chọn. Làm như vậy có đúng không? (Thưa, đúng.) Đây gọi là chọn người tốt nhất trong những người tốt nhất, không thiên vị bất kỳ ai. Nghĩa là khi tuyển chọn loại người này, không quy định trong đầu phải là nam hay nữ – nam nữ đều như nhau, ai đáp ứng yêu cầu công việc thì làm. Vì vậy, khi quyết định chọn nam hay nữ làm bất cứ việc gì, bên cạnh nguyên tắc chủ đạo là đối xử công bằng, thì nguyên tắc cụ thể cần đưa vào thực hành là ai có năng lực và đáp ứng yêu cầu công việc thì để họ làm, bất kể họ là nam hay nữ. Bằng cách này, ngươi không còn bị bó buộc hoặc ràng buộc bởi tư tưởng rằng “Nam tôn nữ ty”, và sẽ không có tư tưởng cổ hủ nào ảnh hưởng đến phán đoán hoặc lựa chọn của ngươi trong vấn đề này. Theo quan điểm của ngươi, bất cứ ai đáp ứng yêu cầu công việc đều nên để họ làm, bất kể họ là nam hay nữ – chẳng phải như vậy là công bằng sao? Trước hết, khi giải quyết một vấn đề, ngươi không có thiên kiến với nam hay nữ. Ngươi tin rằng có rất nhiều phụ nữ xuất sắc và tài năng, và ngươi biết khá nhiều cá nhân như vậy. Do đó, hiểu biết của ngươi khiến ngươi tin rằng khả năng làm việc của nữ giới không thua kém nam giới và giá trị nữ giới mang lại cho xã hội không kém gì so với nam giới. Khi ngươi có hiểu biết và nhận thức này, ngươi sẽ đưa ra được những đánh giá và lựa chọn chính xác dựa trên thực tế này mỗi khi hành động trong tương lai. Nói cách khác, nếu ngươi không thiên vị bất kỳ ai và không có bất kỳ thiên kiến giới tính nào, thì nhân tính của ngươi sẽ tương đối bình thường ở khía cạnh này và ngươi có thể hành động công bằng. Những cấm đoán của văn hóa truyền thống, theo nghĩa nam tôn nữ ty, sẽ được dỡ bỏ, suy nghĩ của ngươi sẽ không còn bị giam hãm, và ngươi sẽ không còn bị ảnh hưởng bởi khía cạnh này của văn hóa truyền thống nữa. Bất kể các xu hướng tư tưởng hay quy ước thịnh hành trong xã hội, tóm lại, ngươi sẽ vượt qua được những quy ước này, không còn bị chúng giam hãm và ảnh hưởng nữa, đồng thời có thể đối mặt với sự thật và chân tướng vấn đề. Tất nhiên, tốt hơn nữa là ngươi có thể nhìn nhận con người và sự việc, hành xử và hành động theo lời Đức Chúa Trời cũng như các nguyên tắc lẽ thật, và kết quả là những tư tưởng, quan điểm như “đàn ông phải là nam tử hán đại trượng phu, phụ nữ thì lại là dè dặt như đàn bà” không tồn tại đối với ngươi. Vậy thì có phải là những suy nghĩ và quan điểm của ngươi tương đối tiến bộ trong nhân loại không? (Thưa, phải.) Nói một cách tương đối thì đây là sự tiến bộ. Bất kể nam hay nữ, già hay trẻ, mọi người đều có thể được đối xử công bằng khi đến với ngươi. Trên thực tế, điều này xây dựng cho người ta hơn là gây hại. Nếu ngươi vẫn bám vào quan điểm của văn hóa truyền thống bằng cách quả quyết rằng: “Từ ngàn xưa, đàn ông đã có vị thế cao hơn phụ nữ, và trong mọi ngành nghề xã hội đều có nhiều người đàn ông xuất chúng và tài giỏi hơn phụ nữ. Vì vậy, có thể khẳng định rằng nam giới mạnh hơn nữ giới, và giá trị của nam giới đối với xã hội lớn hơn của nữ giới. Nếu giá trị của họ đối với xã hội lớn hơn, chẳng phải vị thế xã hội của họ nên cao hơn sao? Vì vậy trong xã hội này, đàn ông phải có tiếng nói quyết định và ở vị thế thống trị, còn phụ nữ phải nghe theo đàn ông và bị đàn ông kiểm soát, cai trị” – thì lối tư duy này quá lạc hậu và cổ hủ, không phù hợp với các nguyên tắc lẽ thật một chút nào. Nếu ngươi có những tư tưởng, quan điểm như thế này, thì ngươi chỉ có thể phân biệt đối xử và chèn ép phụ nữ, và sẽ bị các trào lưu xã hội lên án, đào thải. Bình đẳng nam nữ là một quan điểm đúng đắn đã được mọi người thừa nhận và hoàn toàn phù hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời. Mọi người nên được đối xử công bằng, không nên trọng nam khinh nữ, không nên thờ ơ giá trị của phụ nữ, cũng như không nên thờ ơ khả năng làm việc và tố chất của phụ nữ. Đây đã là sự đồng thuận cơ bản giữa quần chúng có hiểu biết của mọi quốc gia. Nếu tư tưởng chủ đạo của ngươi vẫn bị ảnh hưởng bởi văn hóa truyền thống, và ngươi vẫn cảm thấy nam giới tôn quý còn nữ giới thấp hèn, thì mỗi khi hành động, tầm nhìn và lựa chọn của ngươi sẽ có xu hướng nghiêng về giới tính nam, và ngươi sẽ cho nam giới tương đối nhiều cơ hội hơn. Ngươi sẽ cho rằng ngay cả khi một số nam giới kém năng lực hơn một chút, thì họ vẫn mạnh hơn nữ giới, và rằng nữ giới không thể sánh kịp hoặc đạt được những gì nam giới có thể làm. Nếu ngươi nghĩ theo cách này, thì quan điểm của ngươi sẽ thiên vị, và phán đoán cũng như quyết định cuối cùng của ngươi sẽ sai lệch do lối tư duy của ngươi. Ví dụ: trong việc lựa chọn lính cứu hỏa mà chúng ta vừa đề cập, ngươi suy ngẫm: “Phụ nữ có thể leo thang không? Phụ nữ có thể làm được đến đâu? Sự nhanh nhẹn ở phụ nữ thì ích lợi gì? Ngay cả khi cô ấy đã trải qua quá trình huấn luyện nghiêm ngặt thì cũng chẳng có tác dụng gì cả”. Nhưng rồi ngươi nghĩ đến việc đối xử công bằng với mọi người, nên cuối cùng ngươi chọn hai nam và một nữ. Thực tế là khi chọn một nữ trong trường hợp này là ngươi đang làm cho có và thể hiện một động thái tượng trưng để xoa dịu người phụ nữ và giữ thể diện cho cô ấy. Cách làm này là sao? Ngươi không những chọn người theo cách này, mà khi giao việc, ngươi còn có quan điểm đánh giá thấp người phụ nữ, thậm chí còn giao cho cô ấy những công việc tầm thường nhẹ nhàng. Ngươi vẫn cho rằng mình có tình người và đang quan tâm đến người phụ nữ bằng cách đối xử ưu ái và bảo vệ cô ấy. Thực tế là đối với người phụ nữ, ngươi đã làm tổn thương rất nhiều đến lòng tự tôn của cô ấy. Ngươi đã gây tổn thương như thế nào? Bởi vì ngươi nghĩ rằng phụ nữ thì yếu đuối và dễ bị tổn thương, rằng phụ nữ thì dè dặt như đàn bà, còn đàn ông thì là đại trượng phu nên phụ nữ nên được bảo vệ. Những tư tưởng này sinh ra từ đâu? Có phải là do ảnh hưởng của văn hóa truyền thống không? (Thưa, phải.) Nguyên nhân gốc rễ nằm ở đây. Cho dù ngươi có nói gì về việc đối xử công bằng với mọi người, thì nhìn từ hành động của ngươi, không thể phủ nhận rằng ngươi vẫn bị trói buộc và giam hãm bởi tư tưởng “Nam tôn nữ ty” này trong văn hóa truyền thống. Có thể thấy rõ ràng từ hành động của ngươi rằng ngươi chưa loại bỏ được tư tưởng này. Có đúng không? (Thưa, đúng.) Nếu muốn thoát khỏi những xiềng xích này, ngươi phải tìm kiếm lẽ thật, hiểu thấu thực chất của những tư tưởng này, và không được hành động dưới sự ảnh hưởng hoặc khống chế của những tư tưởng này trong văn hóa truyền thống. Ngươi nên loại bỏ và từ bỏ chúng một lần và mãi mãi, và tuyệt đối không nhìn nhận con người và sự việc, hành xử và hành động theo những tư tưởng, quan điểm của văn hóa truyền thống nữa, cũng như không còn đưa ra những phán đoán và lựa chọn dựa trên văn hóa truyền thống nữa, mà thay vào đó, nhìn nhận con người và sự việc, hành xử và hành động theo lời Đức Chúa Trời cùng các nguyên tắc lẽ thật. Bằng cách này, ngươi sẽ đi đúng đường, và sẽ là một loài thọ tạo đích thực được Đức Chúa Trời khen ngợi. Nếu không, ngươi sẽ vẫn bị Sa-tan kiểm soát, ngươi sẽ tiếp tục sống dưới quyền lực của Sa-tan, và ngươi sẽ không thể sống theo lời Đức Chúa Trời được: đây là sự thực.
Bây giờ các ngươi đã hiểu được thực chất của câu nói về đức hạnh “Giàu sang không mê hoặc nổi, nghèo hèn không lay chuyển nổi, uy lực không khuất phục nổi” này chưa? Và các ngươi cũng đã hiểu bối cảnh xã hội mà câu nói này được đưa ra chưa? (Thưa, đã hiểu.) Để nâng cao vị thế xã hội của nam giới và trao cho họ nhiều quyền lợi hơn thì cần đặt ra những yêu cầu cao hơn đối với nam giới, tạo dựng hình ảnh về nam giới trong lòng mọi người, và biến nó trở thành một hình ảnh nam tử hán đại trượng phu. Đây chính là hình ảnh được truyền tải bởi câu nói “Giàu sang không mê hoặc nổi, nghèo hèn không lay chuyển nổi, uy lực không khuất phục nổi” mà mọi người nói đến. Khi đưa ra câu nói về đức hạnh này, một mặt, các nhà đạo đức muốn nói với mọi người rằng những người sống theo câu nói này là nam tử hán chân chính, nghĩa là họ muốn nói với mọi người định nghĩa về một người đàn ông; mặt khác, họ đang chủ trương rằng đàn ông nên mạnh dạn đứng lên trong xã hội, thể hiện sự độc đáo, giành được chỗ đứng vững chắc về địa vị xã hội và nắm quyền chủ đạo trong xã hội. Tư duy “Nam tôn nữ ty” này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Mặc dù một số quốc gia, dân tộc đã có những tiến bộ về mặt này, nhưng tư duy đó vẫn ngự trị ở nhiều quốc gia, dân tộc, vẫn điều khiển và chi phối các trào lưu của quốc gia và xã hội, cũng như chi phối sự phân công lao động giữa nam và nữ trong xã hội, vị thế xã hội và giá trị xã hội của họ, thậm chí cho đến ngày nay vẫn không có nhiều thay đổi. Điều đó có nghĩa là ở nhiều quốc gia và dân tộc, phụ nữ vẫn còn bị phân biệt đối xử và loại trừ. Đây là một điều rất đáng tiếc, và là sự bất bình đẳng lớn nhất trên thế giới. Việc phụ nữ bị phân biệt đối xử và loại trừ, hay được bình đẳng với nam giới, là một dấu hiệu rõ ràng để đánh giá liệu một quốc gia hoặc dân tộc là tiến bộ hay lạc hậu.
Vừa rồi chúng ta đã thông công về việc nên nhìn nhận người nam và người nữ mà Đức Chúa Trời đã dựng nên như thế nào, và những quan điểm đúng đắn người ta nên có về họ. Cả nam và nữ đều có nhân tính bình thường và sở hữu lương tâm, lý trí của nhân tính bình thường – những điều này cả nam và nữ đều có. Ngoại trừ sự khác biệt về giới tính, nam và nữ về cơ bản tương đương nhau về mặt tư duy, bản năng, phản ứng với các sự việc khác nhau, tố chất và khả năng, cũng như trên các loại phương diện khác. Không thể nói họ giống nhau y hệt, nhưng về cơ bản họ ít nhiều tương tự nhau. Những thói quen sinh hoạt và quy luật sinh hoạt của họ, những tư tưởng, quan điểm và thái độ của họ đối với xã hội, các trào lưu thế gian, con người, sự việc, sự vật và mọi tạo vật của Đức Chúa Trời, cũng như phản ứng của họ đối với một số vấn đề cụ thể, bao gồm phản ứng cơ thể và phản ứng tâm lý là tương đồng. Tại sao những điều này lại tương đồng? Bởi vì cả nam và nữ đều được tạo dựng bởi Đấng Tạo Hóa có một và duy nhất, và hơi thở sự sống, ý chí tự do, thói quen sống, cũng như tất cả các hoạt động khác nhau họ có thể thực hiện, v.v., đều đến từ Đấng Tạo Hóa. Nhìn từ những hiện tượng này, ngoại trừ sự khác biệt về giới tính, về ưu điểm hoặc kỹ năng chuyên môn mà họ nổi trội, thì không có gì khác biệt giữa nam và nữ. Ví dụ: nữ giới cũng có thể làm nhiều công việc mà nam giới làm được. Có những nữ khoa học gia, phi công, phi hành gia, cũng có nữ tổng thống và nữ quan chức chính phủ, điều này chứng tỏ rằng những công việc mà nam giới và nữ giới có thể làm được hầu như đều giống nhau, bất chấp sự khác biệt về giới tính. Khi nói đến sức bền thể chất và việc thể hiện cảm xúc, nam và nữ ít nhiều đều giống nhau. Khi người thân của một người phụ nữ qua đời, cô ấy khóc đến chết đi sống lại vì đau buồn; khi cha mẹ hoặc người yêu của một người đàn ông qua đời, anh ấy cũng gào khóc đến kinh thiên động địa; khi người phụ nữ phải đối mặt với ly hôn, họ trở nên chán nản, trầm cảm và buồn bã, thậm chí có thể tự tử, trong khi người đàn ông cũng sẽ trở nên trầm cảm nếu bị vợ bỏ, thậm chí có người còn khóc thầm trong chăn. Vì là đàn ông nên họ không dám than thở nỗi khổ này trước mặt người khác, và bề ngoài phải tỏ ra mạnh mẽ, nhưng khi không có ai bên cạnh, họ sẽ khóc như một người bình thường. Hễ có chuyện đặc biệt xảy đến, cả đàn ông và phụ nữ đều trở nên xúc động như thường, nên khóc thì khóc, nên cười thì cười. Ngoài ra, trong số những nhân sự thực hiện các bổn phận và công việc khác nhau trong nhà Đức Chúa Trời, nữ giới có các cơ hội được đề bạt, bồi dưỡng và trọng dụng, trong khi nam giới cũng có cùng các cơ hội được đề bạt, bồi dưỡng và trọng dụng – cơ hội là như nhau và bình đẳng. Những sự bại hoại khác nhau bộc lộ ở nữ giới trong cuộc sống hàng ngày và trong khi thực hiện bổn phận của họ cũng không khác gì so với nam giới. Ngay cả trong số nữ giới cũng có những kẻ hành ác và kẻ địch lại Đấng Christ làm nhiễu loạn và gián đoạn công tác của hội thánh – chẳng phải nam giới cũng vậy sao? Đó là bởi vì những tâm tính bại hoại của con người là giống nhau. Nếu họ là kẻ xấu, hành ác, làm gián đoạn và nhiễu loạn công tác của hội thánh, và cố gắng thành lập vương quốc độc lập của riêng mình, thì khi họ bị thanh trừ, có sự phân biệt nam nữ nào không? Không, tất cả họ sẽ đều bị thanh trừ như nhau. Các ngươi có nghĩ rằng trong số những người bị thanh trừ, nam nhiều hơn nữ không? Số lượng cũng gần tương đương nhau. Tất cả những kẻ hành ác, làm gián đoạn và nhiễu loạn, và bị coi là kẻ địch lại Đấng Christ cũng như kẻ ác, bất kể là nam hay nữ, đều phải bị thanh trừ. Một số người nói: “Phụ nữ không thể làm những chuyện gây gián đoạn và nhiễu loạn được, phụ nữ mà làm những chuyện như vậy thì xấu hổ lắm, phụ nữ càng phải quan tâm đến việc giữ gìn thể diện của mình! Làm sao người phụ nữ nhỏ bé lại có thể phạm phải những tội ác lớn như vậy được? Không thể nào, nên cho họ cơ hội ăn năn. Đàn ông thì to gan, bẩm tính của họ vốn có thể làm điều xấu, trở thành kẻ địch lại Đấng Christ và kẻ hành ác. Ngay cả khi họ chỉ làm một việc ác nhỏ, và ngay cả khi chúng ta chưa hiểu rõ tình hình, thì vẫn nên khai trừ họ”. Nhà Đức Chúa Trời có làm như vậy không? (Thưa, không.) Nhà Đức Chúa Trời không làm như vậy. Nhà Đức Chúa Trời thanh lọc nhân sự dựa trên nguyên tắc, không phân biệt nam nữ, không quan tâm đến việc giữ gìn mặt mũi của phụ nữ hay đàn ông, mà đối xử công bằng với họ. Nếu ngươi là một người nam đã hành ác và phù hợp với nguyên tắc thanh trừ và khai trừ, thì nhà Đức Chúa Trời sẽ loại bỏ ngươi theo nguyên tắc; nếu ngươi là một người nữ đã gây ra sự gián đoạn và nhiễu loạn, và ngươi là một kẻ ác hoặc kẻ địch lại Đấng Christ, thì ngươi cũng sẽ bị thanh trừ hoặc khai trừ, và sẽ không phải vì ngươi là phụ nữ, và ngươi biết khóc lóc hoặc rơi lệ mà không thanh trừ hoặc khai trừ ngươi. Nhà Đức Chúa Trời phải xử lý mọi việc theo nguyên tắc. Nữ giới tin Đức Chúa Trời mà lại theo đuổi phước lành, có ham muốn và ý định được ban phước. Nam giới cũng có điều đó phải không? Đúng, họ cũng như vậy, nam giới có tham vọng và ham muốn được ban phước không kém nữ giới. Sự chống đối Đức Chúa Trời của phái nào nghiêm trọng hơn, của nam giới hay của nữ giới? Như nhau hết. Có người sẽ nói: “Giờ đây cuối cùng con cũng đã hiểu được chân tướng sự việc, hóa ra nam nữ đều bại hoại như nhau! Con từng nghĩ rằng đàn ông là nam tử hán đại trượng phu và phải hành xử như người quân tử, làm gì cũng quang minh chính đại và ngay thẳng, không như đàn bà, nhiều người tâm địa hẹp hòi, suốt ngày để ý chuyện vặt vãnh, thường xuyên nói xấu sau lưng mọi người và không hành động ngay thẳng. Mà con lại không suy xét rằng không ít kẻ xấu là đàn ông và những điều xấu xa họ làm thậm chí còn lớn hơn và nhiều hơn đàn bà”. Bây giờ các ngươi đã hiểu những vấn đề này. Nói tóm lại, bất kể là nam hay nữ, tâm tính bại hoại của mọi người đều giống nhau, chỉ là nhân tính của mỗi người khác nhau – đây là cách công bằng duy nhất để đối xử với cả nam và nữ. Có bất kỳ thiên kiến nào trong quan điểm này không? (Thưa, không.) Nó có bị ảnh hưởng bởi tư tưởng “Nam tôn nữ ty” không? (Thưa, không.) Nó hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi những điều này. Để đánh giá một người là tốt hay xấu, trước hết không nên nhìn vào việc họ là nam hay nữ, mà phải nhìn vào nhân tính của họ, rồi đánh giá thực chất của họ dựa trên những biểu hiện của tâm tính bại hoại của họ trong đủ mọi khía cạnh khác nhau – đây mới là cách nhìn người chính xác.
Nhìn từ những hiện tượng chúng ta vừa thông công, bên cạnh sự khác biệt về giới tính, thì không có bất kỳ sự khác biệt gì giữa nam và nữ, dù là ở những biểu hiện của bản năng, hay là ở sự bộc lộ những tâm tính bại hoại khác nhau của họ, hay là ở bản tính và thực chất của họ. Xét về mặt thực chất cơ thể của con người và những tâm tính của họ, cũng như bản năng, sức mạnh ý chí, và ý chí tự do mà Đức Chúa Trời đã ban cho con người khi Ngài tạo dựng họ, thì không có sự khác biệt giữa con người. Vì vậy, khi nhìn nhận nam nữ, con người không nên nhìn nhận dựa trên vẻ bề ngoài, chứ đừng nói đến dựa trên những tư tưởng của văn hóa truyền thống mà thế gian này đã dạy cho con người, mà thay vào đó phải dựa trên lời Đức Chúa Trời. Tại sao con người lại nên nhìn nhận nam nữ dựa trên lời Đức Chúa Trời? Tại sao lại không nhìn nhận dựa trên những tư tưởng và quan điểm của văn hóa truyền thống? Có một số người nói: “Trong suốt hàng thiên niên kỷ của lịch sử nhân loại, rất nhiều câu nói đã được đưa ra và ghi lại trong sách vở. Chẳng lẽ không có quan điểm và câu nói nào của nhân loại là đúng hay sao? Chẳng lẽ không có lẽ thật nào trong đó hay sao?”. Những lời này vô lý ở chỗ nào? Con người được tính là loài thọ tạo, họ đã bị Sa-tan làm cho bại hoại trong hàng thiên niên kỷ, và họ chứa đầy những tâm tính Sa-tan, đó chính là nguyên nhân sinh ra bóng tối và cái ác như vậy trong xã hội loài người. Không ai có thể nhìn thấu căn nguyên, phân định được Sa-tan, hay thực sự biết Đức Chúa Trời. Vì vậy, những quan điểm của loài người bại hoại không phù hợp với lẽ thật, và chỉ có Đấng Tạo Hóa mới biết rõ mọi thứ này như lòng bàn tay. Đây là sự thật tuyệt đối. Lẽ thật chỉ có thể đạt được từ lời Đức Chúa Trời, trong khi văn hóa của thế giới loài người sinh ra từ sự bại hoại của Sa-tan. Con người chưa bao giờ trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời, và không ai có thể biết Đức Chúa Trời, vì vậy không thể sản sinh ra lẽ thật trong văn hóa truyền thống của loài người được, bởi vì mọi lẽ thật đều đến từ Đức Chúa Trời và được bày tỏ bởi Đấng Christ. Sau khi đã bị Sa-tan làm cho bại hoại, hết thảy con người đều có bản tính và những tâm tính Sa-tan. Hết thảy họ đều tôn thờ những danh nhân, vĩ nhân, và hết thảy đều đi theo Sa-tan. Con người có những động cơ và mục đích ngầm riêng khi nhìn nhận và định nghĩa một số điều. Bất kể những động cơ và mục đích này phục vụ cho ai, để đạt được điều gì, tất cả đều bị chi phối bởi những tâm tính bại hoại. Do đó, những điều mà con người bại hoại định nghĩa và những tư tưởng họ cổ xúy chắc chắn đã bị ảnh hưởng bởi những âm mưu xảo quyệt của Sa-tan. Một mặt là vậy. Mặt khác, xét từ góc độ khách quan, cho dù con người có tài giỏi đến đâu cũng không ai hiểu được chức năng, bản năng và thực chất của con người thọ tạo. Bởi vì nhân loại không phải do bất kỳ con người nào tạo dựng, không phải do một số nhân vật gọi là vĩ nhân, quỷ vương, Sa-tan hay tà linh tạo dựng, nên con người hoàn toàn không hiểu được bản năng, chức năng và thực chất của con người. Vậy thì ai là người biết rõ nhất bản năng, chức năng và thực chất của con người? Chỉ có Đấng Tạo Hóa biết rõ nhất. Ai đã tạo dựng con người thì biết rõ nhất về chức năng, bản năng và bản chất của họ, và tất nhiên là đủ tư cách nhất để định nghĩa con người và xác định giá trị, thân phận và thực chất của nam giới hay nữ giới. Đây chẳng phải là một thực tế khách quan sao? (Thưa, phải.) Những gì Đức Chúa Trời dùng để tạo dựng con người, bản năng mà Ngài ban cho con người khi tạo dựng họ, những chức năng và quy luật của cơ thể họ, những việc họ phù hợp hay không phù hợp để làm, và thậm chí cả tuổi thọ của họ – tất cả đều đã được Đức Chúa Trời tiền định. Chỉ mình Đức Chúa Trời hiểu rõ nhất về loài người Ngài tạo dựng, và không ai khác hiểu rõ hơn Ngài về loài người thọ tạo. Đây chẳng phải là sự thật sao? (Thưa, phải.) Vì vậy, Đức Chúa Trời có đủ tư cách nhất để định nghĩa con người, và xác định thân phận, vị thế, giá trị và chức năng của người nam hay người nữ, cũng như con đường đúng đắn mà con người nên đi. Đức Chúa Trời biết rõ nhất về chuyện con người Ngài đã tạo dựng cần gì, điều gì họ có thể đạt được và điều gì nằm trong khả năng của họ. Từ một góc độ khác, điều mà loài người thọ tạo cần nhất là những lời Đấng Tạo Hóa phán dạy. Chỉ Đức Chúa Trời mới có thể đích thân dẫn dắt, cung dưỡng và chăn dắt nhân loại. Tất cả những câu nói của loài người bại hoại không đến từ Đức Chúa Trời đều là mê hoặc, đặc biệt là những câu nói của văn hóa truyền thống, tất cả đều lừa dối, làm tê liệt và giam hãm con người, và tất nhiên cũng đóng vai trò như một dạng trói buộc và khống chế. Còn một khía cạnh khác, đó là Đức Chúa Trời đã tạo dựng con người, và mối quan tâm lớn nhất của Đức Chúa Trời về con người là liệu họ có thể đi con đường nhân sinh đúng đắn hay không. Trong khi đó, những xã hội, dân tộc, và quốc gia chỉ quan tâm đến lợi ích của giai cấp thống trị và sự ổn định của chế độ chính trị, mà không quan tâm đến đời sống của các tầng lớp bên dưới. Kết quả là điều này gây ra một số chuyện cực đoan và hỗn loạn. Họ không hướng dẫn con người bước vào con đường đúng đắn, để con người có thể sống một cuộc sống có giá trị và minh bạch, quy phục quyền tối thượng và sự an bài của Đức Chúa Trời, mà ngược lại, họ muốn lợi dụng con người để phục vụ cho sự cai trị, sự nghiệp, cũng như những tham vọng và ham muốn của bản thân họ. Bất kể họ đưa ra câu nói gì, hay đưa ra tư tưởng và quan điểm gì, thì mục đích của tất cả những điều này đều là để mê hoặc con người, giam hãm suy nghĩ của họ và khống chế nhân loại, để con người phục vụ họ và trung thành với họ. Họ không màng đến tương lai hay tiền đồ của nhân loại, không quan tâm làm sao để con người có thể sinh tồn tốt hơn. Nhưng những gì Đức Chúa Trời làm lại hoàn toàn khác, ở chỗ những gì Đức Chúa Trời làm là theo kế hoạch của Ngài. Sau khi tạo dựng con người, Ngài dẫn dắt cho họ hiểu thêm nhiều lẽ thật và các nguyên tắc hành xử, đồng thời giúp họ thấy rõ sự thật về việc Sa-tan làm cho nhân loại bại hoại. Dựa trên nền tảng này, theo các nguyên tắc lẽ thật mà Đức Chúa Trời khuyên răn và dạy dỗ con người, thì họ mới có thể dấn thân vào con đường nhân sinh đúng đắn.
Những phép tắc và quy ước về đức hạnh trong văn hóa truyền thống có phạm vi rất rộng và ảnh hưởng đến tư duy của con người trong mọi khía cạnh, mê hoặc và giam hãm tư duy của họ. Những gì chúng ta thông công hôm nay là một số câu nói và quan điểm vô lý, ngụy biện của văn hóa truyền thống về giới tính, mà đã ảnh hưởng đáng kể đến quan điểm đúng đắn của con người về giới tính, đồng thời khiến nam giới và nữ giới phải chịu quá nhiều gông cùm, sự trói buộc, ràng buộc, phân biệt đối xử và nhiều đau khổ tương tự. Đây đều là những sự thật con người có thể thấy được, đồng thời cũng là những ảnh hưởng và hậu quả mà văn hóa truyền thống gây ra cho con người.
Ngày 14 tháng 5 năm 2022