Biết về công tác của Đức Chúa Trời I
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 141
Biết về công tác của Đức Chúa Trời trong hiện tại, chủ yếu là biết về chức vụ chính của Đức Chúa Trời nhập thể là gì trong thời kỳ sau rốt, và Đức Chúa Trời đã đến để làm gì trên trái đất. Ta đã đề cập đến trong lời của Ta trước đây rằng Đức Chúa Trời đã đến trái đất (trong thời kỳ sau rốt) để lập một gương mẫu trước khi rời khỏi. Đức Chúa Trời lập gương mẫu này như thế nào? Đức Chúa Trời làm vậy bằng cách cất tiếng phán, và bằng cách làm việc và phán trên khắp vùng đất. Đây là công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt; Ngài chỉ phán dạy, để cho trái đất thành một thế giới của lời, hầu cho mọi người được ban cho và khai sáng bởi lời Ngài, và hầu cho linh hồn con người được đánh thức và họ có được sự rõ ràng về các khải tượng. Trong thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời nhập thể đã đến trên đất chủ yếu là để cất tiếng phán. Khi Jêsus đến, Ngài đã truyền bá Phúc Âm của vương quốc thiên đàng, và Ngài đã hoàn thành công tác cứu chuộc qua việc chịu đóng đinh trên thập tự giá. Ngài đã kết thúc Thời đại Luật pháp và bãi bỏ tất cả những gì cũ kỹ. Sự đến của Jêsus đã kết thúc Thời đại Luật pháp và mở ra Thời đại Ân điển. Sự đến của Đức Chúa Trời nhập thể của thời kỳ sau rốt đã kết thúc Thời đại Ân điển. Ngài đến chủ yếu là để phán lời Ngài, dùng lời để làm cho con người hoàn thiện, để soi sáng và khai sáng con người, và để xóa bỏ vị trí của Đức Chúa Trời mơ hồ trong lòng con người. Đây không phải là giai đoạn công tác mà Jêsus đã thực hiện khi Ngài đến. Khi Jêsus đến, Ngài đã làm nhiều phép lạ, Ngài chữa lành người bệnh và trừ quỷ, và Ngài thực hiện công tác cứu chuộc qua việc chịu đóng đinh trên thập tự giá. Kết quả là, trong những quan niệm của mọi người, họ tin rằng Đức Chúa Trời phải như thế này. Bởi khi Jêsus đến, Ngài đã không làm công việc xóa bỏ hình tượng của Đức Chúa Trời mơ hồ khỏi lòng con người; khi Ngài đến, Ngài đã bị đóng đinh trên thập tự, Ngài chữa lành người bệnh và trừ quỷ, và Ngài truyền bá Phúc Âm của vương quốc thiên đàng. Một mặt, sự nhập thể của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt xóa bỏ vị trí của Đức Chúa Trời mơ hồ trong các quan niệm của con người, để không còn hình tượng của Đức Chúa Trời mơ hồ trong lòng con người. Thông qua những lời và công tác thực tế của Ngài, sự di chuyển của Ngài trên khắp mọi miền đất, và công tác vô cùng thực tế và bình thường mà Ngài thực hiện giữa con người, Ngài khiến con người biết tính hiện thực của Đức Chúa Trời, và xóa bỏ vị trí của Đức Chúa Trời mơ hồ trong lòng con người. Mặt khác, Đức Chúa Trời sử dụng những lời được phán ra bởi xác thịt của Ngài để làm cho con người trọn vẹn, và để hoàn thành mọi thứ. Đây là công tác mà Đức Chúa Trời sẽ hoàn thành trong thời kỳ sau rốt.
Những điều các ngươi phải biết là:
1. Công tác của Đức Chúa Trời không phải siêu nhiên, và ngươi không nên nuôi những quan niệm về nó.
2. Các ngươi phải hiểu công tác chính mà Đức Chúa Trời nhập thể đã đến để thực hiện lần này.
Ngài đã không đến để chữa lành kẻ đau, hoặc trừ quỷ, hoặc thực hiện phép lạ, và Ngài không đến để truyền bá Phúc Âm của sự ăn năn, hoặc để ban cho con người sự cứu chuộc. Đó là vì Jêsus đã làm công tác này, và Đức Chúa Trời không lặp lại cùng một công tác. Ngày nay, Đức Chúa Trời đã đến để kết thúc Thời đại Ân điển và loại bỏ tất cả những sự thực hành của Thời đại Ân điển. Đức Chúa Trời thực tế đã đến chủ yếu là để cho thấy rằng Ngài có thật. Khi Jêsus đến, Ngài đã phán một vài lời; Ngài chủ yếu làm phép lạ, thực hiện các dấu lạ và kỳ công, và chữa lành kẻ đau và trừ quỷ, không thì Ngài phán lời tiên tri để thuyết phục mọi người, và để khiến họ thấy rằng Ngài thực sự là Đức Chúa Trời, và rằng Ngài là một Đức Chúa Trời không thiên vị. Cuối cùng, Ngài đã hoàn thành công tác chịu đóng đinh trên thập tự giá. Đức Chúa Trời của ngày hôm nay không tỏ ra các dấu lạ và kỳ công, Ngài cũng không chữa lành kẻ đau và trừ quỷ. Khi Jêsus đến, công tác Ngài thực hiện đã đại diện cho một phần của Đức Chúa Trời, nhưng lần này Đức Chúa Trời đến để thực hiện giai đoạn công tác đến kỳ hạn, bởi Đức Chúa Trời không lặp lại cùng một công tác; Ngài là Đức Chúa Trời luôn luôn mới và không bao giờ cũ, và vì thế tất cả những gì ngươi thấy hôm nay là lời và công tác của Đức Chúa Trời thực tế.
– Biết về công tác ngày nay của Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 142
Đức Chúa Trời nhập thể của thời kỳ sau rốt đã đến chủ yếu để phán lời của Ngài, để giải thích tất cả những gì cần thiết cho đời sống của con người, để chỉ ra những gì con người nên bước vào, để cho con người thấy những việc làm của Đức Chúa Trời, và để cho con người thấy sự khôn ngoan, toàn năng và kỳ diệu của Đức Chúa Trời. Thông qua nhiều cách Đức Chúa Trời phán dạy, con người thấy uy quyền tối cao của Đức Chúa Trời, sự vĩ đại của Đức Chúa Trời, và hơn nữa, sự khiêm nhường và sự ẩn giấu của Đức Chúa Trời. Con người thấy rằng Đức Chúa Trời là tối cao, nhưng Đức Chúa Trời khiêm nhường và ẩn giấu, và có thể trở thành người hèn mọn nhất trong tất cả mọi người. Một số lời Ngài được phán trực tiếp từ góc độ của Thần, một số trực tiếp từ góc độ của con người, và một số từ góc độ của một bên thứ ba. Trong việc này, có thể thấy rằng cách thức công tác của Đức Chúa Trời biến đổi rất nhiều và thông qua lời mà Ngài cho phép con người thấy điều đó. Công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt thì vừa bình thường vừa thực tế, và do đó nhóm người trong thời kỳ sau rốt phải chịu thử luyện lớn nhất trong mọi thử luyện. Bởi vì sự bình thường và tính hiện thực của Đức Chúa Trời, nên tất cả mọi người đã bước vào giữa những thử luyện như thế; việc con người rơi vào những thử luyện của Đức Chúa Trời là vì sự bình thường và tính hiện thực của Đức Chúa Trời. Trong thời đại của Jêsus, không có những quan niệm hay thử luyện. Bởi vì hầu hết công tác do Jêsus thực hiện phù hợp với các quan niệm của con người, nên con người đã đi theo Ngài, và họ không có quan niệm nào về Ngài. Những thử luyện của ngày hôm nay là những thử luyện lớn nhất mà con người từng đối mặt, và khi nói rằng những người này đã thoát khỏi cơn đại nạn, thì đây là cơn đại nạn được nói đến. Ngày nay, Đức Chúa Trời phán dạy để tạo dựng đức tin, tình yêu, sự chấp nhận khổ đau, và sự vâng phục nơi những người này. Những lời được Đức Chúa Trời nhập thể của thời kỳ sau rốt phán dạy phù hợp với bản tính và thực chất của con người, hành vi của con người, và điều con người nên bước vào ngày hôm nay. Lời Đức Chúa Trời vừa thực tế vừa bình thường: Đức Chúa Trời không phán về ngày mai, Ngài cũng không nhìn lại ngày hôm qua; Ngài chỉ phán những gì nên bước vào, nên đưa vào thực hành, và nên hiểu hôm nay. Nếu, trong thời nay, nổi lên một người có thể tỏ ra các dấu lạ và kỳ công, trừ quỷ, chữa lành kẻ đau, và làm nhiều phép lạ, và nếu kẻ này tuyên bố rằng họ là Jêsus đã đến, thì đây sẽ là sự giả mạo tạo ra bởi những tà linh, bắt chước Jêsus. Hãy nhớ điều này! Đức Chúa Trời không lặp lại cùng một công tác. Giai đoạn công tác của Jêsus đã được hoàn tất, và Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ thực hiện lại giai đoạn công tác đó nữa. Công tác của Đức Chúa Trời không thể hòa hợp được với những quan niệm của con người; ví dụ như, Cựu Ước đã báo trước sự hiện đến của một Đấng Mê-si, và kết quả của lời tiên báo này là sự hiện đến của Jêsus. Điều này đã diễn ra rồi, thì sẽ là sai lầm khi một Đấng Mê-si khác lại đến. Jêsus đã đến một lần, và sẽ sai lầm nếu Jêsus lại đến lần này. Có một tên gọi cho từng thời đại, và mỗi tên gọi biểu thị đặc trưng của thời đại đó. Trong các quan niệm của con người, Đức Chúa Trời phải luôn tỏ ra các dấu lạ và kỳ công, phải luôn chữa lành kẻ đau và trừ quỷ, và phải luôn giống hệt Jêsus. Nhưng lần này Đức Chúa Trời hoàn toàn không giống như vậy. Nếu, trong thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời vẫn tỏ ra các dấu lạ và kỳ công, và vẫn trừ quỷ và chữa lành kẻ đau – nếu Ngài làm giống hệt như Jêsus – thì Đức Chúa Trời sẽ lặp lại cùng một công tác, và công tác của Jêsus sẽ không có ý nghĩa hoặc giá trị gì. Do đó, Đức Chúa Trời thực hiện một giai đoạn công tác trong từng thời đại. Một khi từng giai đoạn công tác của Đức Chúa Trời đã hoàn thành, thì nó sẽ sớm bị tà linh bắt chước, và sau khi Sa-tan bắt đầu theo sau gót chân của Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời đổi sang một phương pháp khác. Một khi Đức Chúa Trời đã hoàn thành một giai đoạn công tác của Ngài, thì nó bị các tà linh bắt chước. Các ngươi nên biết rõ về điều này. Tại sao công tác của Đức Chúa Trời ngày hôm nay khác với công tác của Jêsus? Tại sao Đức Chúa Trời ngày hôm nay không tỏ ra các dấu lạ và kỳ công, không trừ quỷ và không chữa lành kẻ đau? Nếu công tác của Jêsus giống như công tác đã được thực hiện trong Thời đại Luật pháp, thì liệu Ngài có thể đại diện cho Đức Chúa Trời trong Thời đại Ân điển không? Liệu Ngài có thể hoàn thành công tác chịu đóng đinh trên thập tự giá không? Nếu, như trong Thời đại Luật pháp, Jêsus đã đi vào đền thờ và giữ ngày Sa-bát, thì Ngài hẳn đã không bị ai bắt bớ và được tất cả mọi người ủng hộ. Nếu là như vậy, liệu Ngài có thể bị đóng đinh không? Liệu Ngài có thể hoàn thành công tác cứu chuộc không? Nếu Đức Chúa Trời nhập thể của thời kỳ sau rốt tỏ ra các dấu lạ và kỳ công giống Jêsus đã làm thì chuyện đó có ý nghĩa gì? Chỉ khi Đức Chúa Trời thực hiện một phần khác trong công tác của Ngài trong thời kỳ sau rốt, là phần đại diện cho kế hoạch quản lý của Ngài, thì con người mới có thể có được một sự hiểu biết sâu sắc hơn về Đức Chúa Trời, và chỉ khi đó kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời mới có thể hoàn thành.
– Biết về công tác ngày nay của Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 143
Trong thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời đến chủ yếu là để phán lời của Ngài. Ngài phán từ góc độ của Thần, từ góc độ của con người và từ góc độ của một người thứ ba; Ngài phán theo nhiều cách khác nhau, sử dụng một cách cho một thời kỳ, và Ngài sử dụng phương pháp phán dạy để thay đổi những quan niệm của con người và xóa bỏ hình tượng của Đức Chúa Trời mơ hồ khỏi lòng con người. Đây là công tác chính được Đức Chúa Trời thực hiện. Bởi vì con người tin rằng Đức Chúa Trời đã đến để chữa lành kẻ đau, để trừ quỷ, để làm phép lạ và để ban những phước lành vật chất cho con người, nên Đức Chúa Trời thực hiện giai đoạn công tác này – công tác hình phạt và phán xét – để xóa bỏ những điều này khỏi quan niệm của con người, để con người có thể biết được tính hiện thực và bình thường của Đức Chúa Trời, và để hình tượng của Jêsus có thể bị xóa bỏ khỏi lòng họ và được thay bằng một hình tượng mới của Đức Chúa Trời. Ngay sau khi hình tượng của Đức Chúa Trời trong con người trở nên xưa cũ, nó liền trở thành một thần tượng. Khi Jêsus đến và thực hiện giai đoạn công tác đó, Ngài đã không đại diện toàn bộ cho Đức Chúa Trời. Ngài thực hiện một vài dấu lạ và kỳ công, phán một vài lời, và cuối cùng chịu đóng đinh trên thập tự giá. Ngài đại diện cho một phần của Đức Chúa Trời. Ngài đã không thể đại diện cho toàn bộ những gì thuộc về Đức Chúa Trời, mà đúng hơn, Ngài đại diện Đức Chúa Trời trong việc thực hiện một phần công tác của Đức Chúa Trời. Đó là vì Đức Chúa Trời quá vĩ đại, quá kỳ diệu và Ngài không thể dò lường được, và bởi vì Đức Chúa Trời chỉ thực hiện một phần công tác của Ngài trong mỗi thời đại. Công tác Đức Chúa Trời thực hiện trong thời đại này chủ yếu là ban phát lời cho đời sống của con người, vạch trần bản tính, thực chất của con người, và tâm tính bại hoại của họ, cũng như loại bỏ những quan niệm tôn giáo, tư tưởng phong kiến, và tư tưởng lỗi thời; những kiến thức và văn hóa của con người phải được làm cho thanh sạch thông qua việc bị lời Đức Chúa Trời phơi bày. Trong thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời sử dụng lời, không phải những dấu lạ và kỳ công, để làm cho con người hoàn thiện. Đức Chúa Trời dùng lời của mình để phơi bày con người, để phán xét con người, để hành phạt con người và để làm cho con người hoàn thiện, hầu cho trong lời Đức Chúa Trời con người bắt đầu thấy được sự khôn ngoan và đáng mến của Đức Chúa Trời cũng như bắt đầu hiểu được tâm tính của Đức Chúa Trời, và hầu cho qua lời Đức Chúa Trời, con người thấy được những việc làm của Đức Chúa Trời. Trong Thời đại Luật pháp, Đức Giê-hô-va đã dẫn dắt Mô-sê ra khỏi Ai Cập bằng lời Ngài, và phán vài lời với dân Y-sơ-ra-ên; khi đó, một phần việc làm của Đức Chúa Trời đã được làm cho sáng tỏ, nhưng bởi vì tố chất con người có giới hạn và không gì có thể làm cho sự hiểu biết của họ được trọn vẹn, nên Đức Chúa Trời đã tiếp tục phán và làm việc. Trong Thời đại Ân điển, con người một lần nữa đã thấy một phần trong những việc làm của Đức Chúa Trời. Jêsus đã có thể tỏ ra các dấu lạ và kỳ công, chữa lành kẻ đau và trừ quỷ, và bị đóng đinh trên thập tự giá, ba ngày sau đó, Ngài được phục sinh và xuất hiện trong xác thịt trước con người. Về Đức Chúa Trời, con người không biết gì hơn ngoài điều này. Con người chỉ biết những điều Đức Chúa Trời tỏ ra cho họ, và nếu Đức Chúa Trời không tỏ ra điều gì thêm cho con người, thì đó sẽ là phạm vi phân định của con người về Đức Chúa Trời. Do đó, Đức Chúa Trời tiếp tục làm việc hầu cho sự hiểu biết của con người về Đức Chúa Trời có thể trở nên sâu sắc hơn, và hầu cho con người có thể bắt đầu dần dần biết được thực chất của Đức Chúa Trời. Trong thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời dùng lời Ngài để làm cho con người hoàn thiện. Tâm tính bại hoại của ngươi bị vạch trần bởi lời Đức Chúa Trời và các quan niệm tôn giáo của ngươi được thay thế bằng tính hiện thực của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời nhập thể của thời kỳ sau rốt đến chủ yếu để ứng nghiệm những lời: “Lời trở nên xác thịt, Lời đến trong xác thịt, và Lời xuất hiện trong xác thịt”, và nếu ngươi không có một sự hiểu biết cặn kẽ về điều này, thì ngươi sẽ không thể đứng vững. Trong thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời chủ yếu dự định hoàn thành một giai đoạn công tác mà trong đó Lời xuất hiện trong xác thịt, và đây là một phần trong kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời. Vì vậy, sự hiểu biết của các ngươi phải rõ ràng; bất kể Đức Chúa Trời làm việc như thế nào, Đức Chúa Trời cũng không cho phép con người phân định Ngài. Nếu Đức Chúa Trời không thực hiện công tác này trong thời kỳ sau rốt, thì sự hiểu biết của con người về Ngài sẽ không thể tiến xa hơn. Ngươi sẽ chỉ biết rằng Đức Chúa Trời có thể bị đóng đinh trên thập tự giá và có thể hủy diệt Sô-đôm, và rằng Jêsus có thể được sống lại từ cõi chết và xuất hiện trước Phi-e-rơ… Nhưng ngươi sẽ không bao giờ nói rằng lời Đức Chúa Trời có thể hoàn thành tất cả và có thể chinh phục con người. Chỉ thông qua việc trải nghiệm lời Đức Chúa Trời thì ngươi mới có thể nói về sự hiểu biết như thế, và càng trải nghiệm lời Đức Chúa Trời, thì sự hiểu biết của ngươi về Đức Chúa Trời sẽ càng trở nên thấu đáo hơn. Chỉ khi đó, ngươi mới thôi phân định Đức Chúa Trời trong những quan niệm của riêng mình. Con người bắt đầu biết đến Đức Chúa Trời bằng việc trải nghiệm công tác của Ngài; không có cách đúng đắn nào khác để biết về Đức Chúa Trời.
– Biết về công tác ngày nay của Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 144
Ngày nay, tất cả các ngươi nên rõ rằng, trong thời kỳ sau rốt, chủ yếu là sự thật về “Lời trở nên xác thịt” được hoàn thành bởi Đức Chúa Trời. Thông qua công tác thực tế của Đức Chúa Trời trên đất, Đức Chúa Trời khiến con người biết đến Ngài và tham gia với Ngài, và thấy được những việc làm thực tế của Ngài. Đức Chúa Trời khiến con người thấy rõ rằng Ngài có thể tỏ ra các dấu lạ và kỳ công và rằng cũng có những lúc Ngài không thể làm thế; điều này phụ thuộc vào thời đại. Từ điều này, ngươi có thể thấy rằng Đức Chúa Trời không phải không có khả năng tỏ ra các dấu lạ và kỳ công, mà thay vào đó, thay đổi cách làm việc của Ngài tùy theo công tác được thực hiện và tùy theo thời đại. Trong giai đoạn công tác hiện tại, Ngài không tỏ ra các dấu lạ và kỳ công; việc Ngài đã tỏ ra một vài dấu lạ và kỳ công trong thời đại của Jêsus là vì công tác của Ngài trong thời đại đó khác. Đức Chúa Trời không thực hiện công tác đó ngày nay và một số người tin rằng Ngài không có khả năng tỏ ra các dấu lạ và kỳ công, hoặc là họ nghĩ rằng nếu Ngài không tỏ ra các dấu lạ và kỳ công thì Ngài không phải là Đức Chúa Trời. Chẳng phải đó là một sự ngụy biện sao? Đức Chúa Trời có khả năng tỏ ra các dấu lạ và kỳ công, tuy nhiên Ngài đang làm việc trong một thời đại khác và vì thế Đức Chúa Trời không làm những việc như thế. Bởi vì đây là một thời đại khác và bởi vì đây là một giai đoạn khác trong công tác của Đức Chúa Trời, nên những việc được Đức Chúa Trời làm cho sáng tỏ cũng khác nhau. Niềm tin của con người vào Đức Chúa Trời không phải là niềm tin vào các dấu lạ và kỳ công, cũng không phải niềm tin vào các phép lạ, mà là niềm tin vào công tác thực sự của Ngài trong thời đại mới. Con người bắt đầu biết đến Đức Chúa Trời thông qua cách thức Đức Chúa Trời làm việc và sự hiểu biết này tạo ra trong con người niềm tin vào Đức Chúa Trời, nghĩa là, niềm tin vào công tác và việc làm của Đức Chúa Trời. Trong giai đoạn công tác này, Đức Chúa Trời chủ yếu phán dạy. Đừng trông chờ để thấy các dấu lạ và kỳ công; ngươi sẽ không thấy bất kỳ cái gì đâu! Điều này là bởi ngươi không được sinh ra trong Thời đại Ân điển. Nếu ngươi đã được sinh ra trong thời đó, ngươi có thể đã thấy các dấu lạ và kỳ công, nhưng ngươi đã được sinh ra trong thời kỳ sau rốt và vì vậy ngươi chỉ có thể thấy tính hiện thực và bình thường của Đức Chúa Trời. Đừng mong đợi thấy được Jêsus siêu phàm trong thời kỳ sau rốt. Ngươi chỉ có thể thấy Đức Chúa Trời nhập thể thực tế, Đấng không khác với bất kỳ con người bình thường nào. Trong mỗi thời đại, Đức Chúa Trời làm cho sáng tỏ những việc làm khác nhau. Trong mỗi thời đại, Đức Chúa Trời làm cho sáng tỏ một phần các việc làm của Đức Chúa Trời, và công tác trong từng thời đại đại diện một phần tâm tính của Đức Chúa Trời và một phần các việc làm của Đức Chúa Trời. Những việc mà Đức Chúa Trời làm cho sáng tỏ thì thay đổi theo thời đại Đức Chúa Trời làm việc, nhưng tất cả chúng đều mang lại cho con người một sự hiểu biết sâu sắc hơn về Đức Chúa Trời, một niềm tin đúng đắn hơn và thực tế hơn vào Đức Chúa Trời. Con người tin vào Đức Chúa Trời bởi vì tất cả những việc làm của Đức Chúa Trời, bởi vì Đức Chúa Trời quá kỳ diệu, quá vĩ đại, bởi vì Đức Chúa Trời toàn năng và không thể dò lường được. Nếu ngươi tin vào Đức Chúa Trời bởi vì Ngài có thể làm các dấu lạ và kỳ công và có thể chữa lành kẻ đau và trừ quỷ, thì quan điểm của ngươi sai, và một số người sẽ nói với ngươi rằng “Chẳng phải các tà linh cũng có thể làm được những việc như thế sao?” Chẳng phải điều này làm lẫn lộn hình tượng của Đức Chúa Trời với hình ảnh của Sa-tan sao? Ngày nay, con người có niềm tin nơi Đức Chúa Trời là do bởi nhiều việc làm của Ngài và khối lượng lớn công tác Ngài làm và nhiều cách thức Đức Chúa Trời phán dạy. Đức Chúa Trời sử dụng những lời phán của Ngài để chinh phục con người và làm cho họ hoàn thiện. Con người tin vào Đức Chúa Trời bởi vì nhiều việc làm của Ngài, chứ không phải vì Ngài có thể tỏ ra các dấu lạ và kỳ công; mọi người chỉ hiểu thêm về Đức Chúa Trời bằng cách chứng kiến những việc làm của Ngài. Chỉ bằng cách biết những việc làm thực tế của Đức Chúa Trời, Ngài làm việc như thế nào, những phương pháp khôn ngoan Ngài sử dụng là gì, Ngài phán dạy ra sao và Ngài làm cho con người hoàn thiện như thế nào – chỉ bằng cách biết được những khía cạnh này – thì ngươi mới có thể lĩnh hội được hiện thực về Đức Chúa Trời và hiểu được tâm tính của Ngài, biết được Ngài thích gì, Ngài ghét gì, và Ngài làm việc đối với con người như thế nào. Bằng cách hiểu được những điều Đức Chúa Trời thích và không thích, ngươi có thể phân biệt điều nào là tích cực và tiêu cực, và thông qua sự hiểu biết về Đức Chúa Trời mà cuộc sống ngươi có sự tiến bộ. Tóm lại, ngươi phải có được một sự hiểu biết về công tác của Đức Chúa Trời và ngươi phải có quan điểm đúng đắn về việc tin vào Đức Chúa Trời.
– Biết về công tác ngày nay của Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 145
Bất kể ngươi theo đuổi như thế nào, trên hết, ngươi phải hiểu công tác mà Đức Chúa Trời làm ngày nay, và phải biết ý nghĩa của công tác này. Ngươi phải hiểu và biết Đức Chúa Trời mang lại công tác gì khi Ngài đến vào thời kỳ sau rốt, Ngài mang lại tâm tính gì, và những gì sẽ được làm cho trọn vẹn trong con người. Nếu ngươi không biết hoặc không hiểu công tác mà Ngài đã đến để thực hiện trong xác thịt, thì làm sao ngươi có thể nắm bắt được ý muốn của Ngài, và làm sao ngươi có thể trở thành thân tín của Ngài? Thực ra, việc trở thành thân tín của Đức Chúa Trời không phức tạp, nhưng nó cũng không đơn giản. Nếu con người có thể hiểu nó thấu đáo và đưa nó vào thực hành, thì nó trở nên không phức tạp; nếu con người không thể hiểu nó thấu đáo, thì nó trở nên khó khăn hơn rất nhiều, và hơn thế nữa, con người trở nên dễ để cho sự theo đuổi của họ dẫn họ vào sự mơ hồ. Nếu trong quá trình theo đuổi Đức Chúa Trời, con người không có lập trường riêng của mình để đứng vững, và không biết mình nên nắm giữ lẽ thật gì, thì điều đó có nghĩa là họ không có nền tảng, và vì vậy họ trở nên khó đứng vững. Ngày nay, có rất nhiều người không hiểu lẽ thật, những người không thể phân biệt giữa thiện và ác hoặc chỉ ra nên yêu hay ghét những gì. Những người như vậy khó có thể đứng vững. Chìa khóa cho niềm tin vào Đức Chúa Trời là có thể đưa lẽ thật vào thực hành, quan tâm đến ý muốn của Đức Chúa Trời, biết công tác của Đức Chúa Trời trên con người khi Ngài đến trong xác thịt và những nguyên tắc mà qua đó Ngài phán bảo. Đừng đi theo số đông. Ngươi phải có những nguyên tắc mà ngươi nên bước vào, và phải tuân giữ chúng. Việc giữ vững những điều bên trong ngươi được Đức Chúa Trời khai sáng sẽ giúp ích cho ngươi. Nếu ngươi không làm được, thì hôm nay ngươi sẽ xoay theo một chiều, ngày mai ngươi sẽ xoay theo chiều khác, và ngươi sẽ không bao giờ đạt được bất kỳ điều gì thực sự. Như vậy không có lợi gì cho sự sống của ngươi. Những người không hiểu lẽ thật luôn đi theo người khác: Nếu người ta nói rằng đây là công tác của Đức Thánh Linh, thì ngươi cũng nói đó là công tác của Đức Thánh Linh; nếu người ta nói đó là công tác của tà linh, thì ngươi cũng trở nên nghi ngờ, hoặc cũng nói đó là công tác của tà linh. Ngươi luôn lặp lại như vẹt những lời nói của người khác, mà không có khả năng tự mình phân biệt bất kỳ điều gì, và ngươi cũng không thể tự mình suy nghĩ. Đây là một người không có lập trường, người không thể phân biệt – một người như vậy là một kẻ vô dụng! Ngươi luôn lặp lại lời của người khác: Hôm nay người ta nói rằng đây là công tác của Đức Thánh Linh, nhưng rất có thể một ngày nào đó có người sẽ nói rằng đó không phải là công tác của Đức Thánh Linh, và không là gì khác ngoài những việc làm của con người – nhưng ngươi không thể phân biệt được điều này, và khi ngươi chứng kiến những người khác nói điều đó, thì ngươi cũng nói điều tương tự. Nó thực ra là công tác của Đức Thánh Linh, nhưng ngươi lại nói đó là công tác của con người; chẳng phải ngươi đã trở thành một trong những kẻ báng bổ chống lại công tác của Đức Thánh Linh sao? Trong chuyện này, chẳng phải ngươi đã chống đối Đức Chúa Trời vì ngươi không thể phân biệt sao? Có thể một ngày nào đó, một kẻ ngu ngốc nào đó sẽ xuất hiện nói rằng “đây là công tác của tà linh”, và khi ngươi nghe những lời này thì ngươi sẽ cảm thấy bối rối, và một lần nữa bị vướng bận bởi những lời của người khác. Mỗi khi ai đó khuấy động sự nhiễu loạn thì ngươi không có khả năng giữ vững lập trường của mình, và tất cả điều này chỉ là vì ngươi không sở hữu lẽ thật. Tin vào Đức Chúa Trời và tìm cách biết Đức Chúa Trời không phải là chuyện đơn giản. Những điều này không thể đạt được chỉ đơn giản bằng cách nhóm họp lại với nhau và lắng nghe lời thuyết giảng, và ngươi không thể được hoàn thiện chỉ bởi niềm say mê mà thôi. Ngươi phải trải nghiệm, nhận biết, có nguyên tắc trong những hành động của mình, và có được công tác của Đức Thánh Linh. Khi ngươi đã trải nghiệm, ngươi sẽ có thể phân biệt được nhiều thứ – ngươi sẽ có thể phân biệt thiện ác, giữa sự công chính và sự gian ác, giữa những gì thuộc về thịt và huyết và những gì thuộc về lẽ thật. Ngươi sẽ có thể phân biệt giữa tất cả những điều này, và khi làm như vậy, dù hoàn cảnh có ra sao, ngươi cũng sẽ không bao giờ bị lạc lối. Chỉ có điều này mới là vóc giạc thực sự của ngươi.
– Chỉ những ai biết Đức Chúa Trời và công tác của Ngài mới có thể làm hài lòng Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 146
Để biết được công tác của Đức Chúa Trời không phải là vấn đề đơn giản. Ngươi nên có những tiêu chuẩn và một mục tiêu trong quá trình theo đuổi của mình, ngươi nên biết cách tìm kiếm con đường thật, và cách đo lường xem đó có phải là con đường thật hay không, và đó có phải là công tác của Đức Chúa Trời hay không. Nguyên tắc cơ bản nhất trong việc tìm kiếm con đường thật là gì? Ngươi phải xem liệu có công tác của Đức Thánh Linh trong con đường này hay không, liệu những lời này có phải là sự bày tỏ của lẽ thật hay không, ai được chứng thực, và nó có thể mang lại cho ngươi những gì. Việc phân biệt giữa con đường thật và con đường giả đòi hỏi một số khía cạnh của kiến thức cơ bản, điều cơ bản nhất của nó là phải chỉ ra được liệu có công tác của Đức Thánh Linh hiện diện trong đó hay không. Vì thực chất niềm tin của con người vào Đức Chúa Trời là niềm tin vào Thần của Đức Chúa Trời, và thậm chí niềm tin của họ vào Đức Chúa Trời nhập thể là bởi vì xác thịt này là hiện thân của Thần của Đức Chúa Trời, có nghĩa là niềm tin như vậy vẫn là niềm tin vào Thần. Có những sự khác biệt giữa Thần và xác thịt, nhưng bởi vì xác thịt này đến từ Thần, và là Lời trở nên xác thịt, do đó những gì con người tin vào vẫn là thực chất vốn có của Đức Chúa Trời. Và vì vậy, để phân biệt liệu đó có phải là con đường thật hay không, trên hết ngươi phải xem liệu nó có công tác của Đức Thánh Linh hay không, sau đó ngươi phải xem liệu có lẽ thật trong con đường này hay không. Lẽ thật là tâm tính sống của nhân tính bình thường, nghĩa là, điều được đòi hỏi ở con người khi Đức Chúa Trời tạo dựng nên họ từ lúc ban đầu, cụ thể là toàn bộ nhân tính bình thường (bao gồm ý thức của con người, sự sáng suốt, sự khôn ngoan và kiến thức cơ bản về việc làm người). Nghĩa là, ngươi cần xem liệu con đường này có thể dẫn con người vào một đời sống của nhân tính bình thường hay không, liệu lẽ thật được nhắc đến có cần thiết dựa theo hiện thực của nhân tính bình thường hay không, liệu lẽ thật này có thiết thực và thật hay không, và liệu nó có phải là hợp thời nhất hay không. Nếu có lẽ thật, thì nó có thể dẫn con người vào những trải nghiệm thật và bình thường; hơn nữa, con người trở nên bình thường hơn bao giờ hết, ý thức của con người trở nên trọn vẹn hơn bao giờ hết, đời sống của con người trong xác thịt và đời sống thuộc linh trở nên quy củ hơn bao giờ hết, và những cảm xúc của con người trở nên bình thường hơn bao giờ hết. Đây là nguyên tắc thứ hai. Có một nguyên tắc khác, đó là liệu con người có kiến thức ngày càng tăng về Đức Chúa Trời hay không, liệu việc trải nghiệm công tác và lẽ thật như vậy có thể khơi dậy lòng yêu kính Đức Chúa Trời trong họ, và đưa họ đến gần hơn với Đức Chúa Trời hay không. Qua đây có thể đo lường được liệu con đường này có phải là con đường thật hay không. Điều cơ bản nhất là liệu con đường này có thực tế thay vì siêu nhiên hay không, và liệu nó có thể chu cấp cho sự sống của con người hay không. Nếu nó phù hợp với những nguyên tắc này, thì có thể rút ra kết luận rằng con đường này là con đường thật. Ta phán những lời này không phải để khiến các ngươi chấp nhận những con đường khác trong những trải nghiệm tương lai của các ngươi, cũng không phải như một lời dự báo rằng sẽ có công tác của một thời đại mới khác trong tương lai. Ta phán những lời ấy hầu cho các ngươi có thể chắc chắn rằng con đường của ngày hôm nay là con đường thật, hầu cho các ngươi sẽ không chỉ chắc chắn nửa vời trong niềm tin của mình vào công tác của ngày hôm nay và không thể đạt được sự thông sáng về nó. Thậm chí có nhiều người, mặc dù chắc chắn, nhưng vẫn đi theo trong sự bối rối; sự chắc chắn như vậy không có nguyên tắc, và những người như vậy sớm muộn gì cũng phải bị loại bỏ. Ngay cả những người đặc biệt hăng hái đi theo cũng chỉ chắc được ba phần còn năm phần thì không chắc, điều đó cho thấy rằng họ không có nền tảng. Bởi vì tố chất của các ngươi quá kém cỏi và nền tảng của các ngươi quá nông cạn, nên các ngươi không có sự hiểu biết về sự phân biệt. Đức Chúa Trời không lặp lại công tác của Ngài, Ngài không làm các công tác không thiết thực, Ngài không đưa ra những yêu cầu quá đáng cho con người, và Ngài không làm công tác vượt quá ý thức của con người. Tất cả công tác Ngài làm đều nằm trong phạm vi ý thức thông thường của con người, không vượt quá ý thức của nhân tính bình thường, và công tác của Ngài dựa theo những yêu cầu thông thường của con người. Nếu đó là công tác của Đức Thánh Linh, thì con người sẽ trở nên bình thường hơn bao giờ hết, và nhân tính của họ sẽ trở nên bình thường hơn bao giờ hết. Con người có kiến thức ngày càng tăng về tâm tính Sa-tan bại hoại của mình, về bản chất của con người, và họ cũng có một khát khao cho lẽ thật lớn hơn bao giờ hết. Điều đó có nghĩa là, sự sống của con người ngày càng tăng trưởng, và tâm tính bại hoại của con người trở nên ngày càng có khả năng thay đổi – tất cả những điều này đều là ý nghĩa của việc Đức Chúa Trời trở nên sự sống của con người. Nếu một con đường không có khả năng tiết lộ những điều thuộc về bản chất của con người, không có khả năng thay đổi tâm tính của con người, và hơn thế nữa, không có khả năng đưa họ đến trước Đức Chúa Trời hoặc cho họ một sự hiểu biết thực sự về Đức Chúa Trời, mà thậm chí còn khiến cho nhân tính của họ trở nên thấp kém hơn bao giờ hết và ý thức của họ trở nên bất thường hơn bao giờ hết, thì con đường này không phải là con đường thật, và nó có thể là công tác của một tà linh, hoặc con đường cũ. Nói tóm lại, nó không thể là công tác hiện tại của Đức Thánh Linh được. Các ngươi đã tin vào Đức Chúa Trời trong suốt ngần ấy năm, nhưng các ngươi không có ý niệm gì về các nguyên tắc để phân biệt giữa con đường thật và con đường giả hoặc để tìm kiếm con đường thật. Hầu hết mọi người thậm chí còn không quan tâm đến những vấn đề này; họ chỉ đơn thuần đi đến nơi số đông đi, và lặp lại những gì số đông nói. Làm sao đây là một người tìm kiếm con đường thật được? Và làm sao những người như vậy có thể tìm thấy con đường thật? Nếu ngươi nắm bắt được một số nguyên tắc then chốt này, thì dù điều gì xảy ra đi nữa, ngươi cũng sẽ không bị lừa gạt. Ngày nay, điều cốt yếu là con người phải có thể phân biệt được; đây là điều mà nhân tính bình thường nên sở hữu, và là điều con người phải sở hữu trong kinh nghiệm của mình. Nếu, thậm chí ngày nay, con người vẫn không phân biệt được điều gì trong lúc đi theo, và ý thức con người của họ vẫn chưa phát triển, thì con người quá ngu ngốc, và sự theo đuổi của họ bị nhầm lẫn và lệch lạc. Không hề có một sự phân biệt nào trong sự theo đuổi của ngươi ngày nay, và cho dù có đúng như ngươi nói rằng mình thực sự đã tìm thấy con đường thật, thì ngươi đã đạt được nó chưa? Ngươi đã có thể phân biệt được điều gì chưa? Thực chất của con đường thật là gì? Trong con đường thật, ngươi vẫn chưa đạt được con đường thật, ngươi vẫn chưa đạt được bất kỳ điều gì của lẽ thật. Điều này nghĩa là ngươi vẫn chưa đạt được điều mà Đức Chúa Trời đòi hỏi ở ngươi, và do đó đã không có sự thay đổi nào trong sự bại hoại của ngươi. Nếu ngươi tiếp tục theo đuổi theo cách này, thì cuối cùng ngươi sẽ bị loại bỏ. Đã đi theo cho đến ngày nay, ngươi nên chắc chắn rằng con đường mà ngươi đã đi là con đường đúng, và không nên nghi ngờ gì thêm. Nhiều người luôn không chắc chắn và ngừng theo đuổi lẽ thật vì một số vấn đề nhỏ nhặt. Những người như vậy là những người không có kiến thức về công tác của Đức Chúa Trời, họ là những người theo Đức Chúa Trời trong sự bối rối. Những người không biết công tác của Đức Chúa Trời thì không có khả năng trở thành thân tín của Ngài, hoặc làm chứng cho Ngài. Ta khuyến giục những ai chỉ tìm kiếm phước lành và chỉ theo đuổi những điều mơ hồ và trừu tượng, hãy theo đuổi lẽ thật càng sớm càng tốt, hầu cho đời sống của họ có thể có ý nghĩa. Các ngươi đừng tự lừa dối mình nữa!
– Chỉ những ai biết Đức Chúa Trời và công tác của Ngài mới có thể làm hài lòng Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 147
Toàn bộ công tác được thực hiện suốt sáu nghìn năm đã dần thay đổi khi các kỷ nguyên khác nhau đến rồi đi. Những sự chuyển đổi trong công tác này được dựa trên tình hình chung của thế giới và những xu hướng phát triển của nhân loại nói chung; công tác quản lý chỉ dần thay đổi theo đó. Nó không phải đã được lên kế hoạch toàn bộ ngay từ buổi đầu tạo dựng. Trước khi thế giới được tạo dựng, hay không lâu sau đó, Đức Giê-hô-va vẫn chưa lên kế hoạch về giai đoạn đầu của công tác, giai đoạn luật pháp; giai đoạn thứ hai của công tác, giai đoạn ân điển; hay giai đoạn thứ ba của công tác, giai đoạn chinh phục, mà khi đó, Ngài bắt đầu trước tiên với một số con cháu của Mô-áp, và qua đây mà chinh phục toàn thể vũ trụ. Sau khi tạo dựng thế giới, Ngài chưa bao giờ phán những lời này, Ngài cũng chưa bao giờ phán chúng sau Mô-áp; quả thực, trước Lót, Ngài chưa bao giờ phán chúng. Toàn bộ công tác của Đức Chúa Trời được thực hiện một cách tự phát. Đây chính xác là cách toàn bộ công tác quản lý sáu nghìn năm của Ngài đã phát triển; trước khi tạo dựng thế giới, Ngài chẳng hề viết ra một bản kế hoạch dưới dạng đại loại như “Biểu đồ tóm tắt sự phát triển của nhân loại”. Trong công tác của Đức Chúa Trời, Ngài bày tỏ Ngài là gì một cách trực tiếp; Ngài không vắt óc lập nên một kế hoạch. Dĩ nhiên, khá nhiều nhà tiên tri đã nói rất nhiều lời tiên tri, nhưng vẫn không thể nói rằng công tác của Đức Chúa Trời luôn là công tác của việc hoạch định chính xác; những lời tiên tri ấy được đưa ra theo công tác của Đức Chúa Trời vào thời đó. Toàn bộ công tác mà Ngài thực hiện là công tác thực tế nhất. Ngài thực hiện nó phù hợp với sự phát triển của mỗi kỷ nguyên, và dựa trên cách các sự việc thay đổi. Đối với Ngài, thực hiện công tác cũng giống như dùng đúng thuốc để chữa bệnh; trong khi thực hiện công tác, Ngài quan sát, và tiếp tục công tác theo những quan sát của Ngài. Trong mọi giai đoạn công tác của Ngài, Đức Chúa Trời có khả năng bày tỏ sự khôn ngoan và khả năng dư dật của Ngài; Ngài mặc khải sự khôn ngoan và thẩm quyền có thừa của Ngài tùy theo công tác của bất kỳ thời đại nào, và cho phép tất cả những người mà Ngài mang trở về trong thời đại đó được thấy toàn bộ tâm tính của Ngài. Ngài cung cấp cho các nhu cầu của con người theo công tác cần được thực hiện ở mỗi thời đại, làm bất cứ công tác gì Ngài nên làm. Ngài chu cấp cho con người những gì họ cần dựa trên mức độ mà Sa-tan đã làm bại hoại họ. Điều này cũng giống như cách mà ban đầu khi Đức Giê-hô-va tạo ra A-đam và Ê-va, Ngài đã làm để cho phép họ biểu thị Đức Chúa Trời trên đất và hầu cho họ có thể làm chứng cho Đức Chúa Trời giữa sự tạo dựng. Tuy nhiên, Ê-va đã phạm tội sau khi bị con rắn cám dỗ, và A-đam đã làm điều tương tự; trong vườn, cả hai người họ đã ăn trái của cây biết thiện và ác. Vì thế, Đức Giê-hô-va đã có thêm công tác để thực hiện đối với họ. Nhìn thấy sự trần truồng của họ, Ngài che thân họ bằng quần áo làm từ da thú. Sau đó, Ngài phán với A-đam: “Vì ngươi nghe theo lời vợ mà ăn trái cây ta đã dặn không nên ăn, vậy, đất sẽ bị rủa sả vì ngươi… cho đến ngày nào ngươi trở về đất, là nơi mà có ngươi ra; vì ngươi là bụi, ngươi sẽ trở về bụi”. Với người nữ, Ngài phán: “Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con; đục vọng ngươi phải hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi”. Từ đó trở đi, Ngài đuổi họ khỏi Vườn Địa Đàng và bắt họ sống ở ngoài, giống như con người hiện đại ngày nay đang sống trên đất. Khi Đức Chúa Trời tạo nên con người ngay từ buổi đầu, kế hoạch của Ngài không phải là để cho con người bị con rắn cám dỗ sau khi được tạo dựng rồi sau đó nguyền rủa con người và con rắn. Ngài thật ra đã không có một kế hoạch như thế; chỉ là cách sự việc tiến triển đã cho Ngài công tác mới để làm giữa sự tạo dựng của Ngài. Sau khi Đức Giê-hô-va đã thực hiện công việc này giữa A-đam và Ê-va trên đất, nhân loại tiếp tục phát triển trong vài nghìn năm, cho đến khi “Ðức Giê-hô-va thấy sự hung ác của loài người trên mặt đất rất nhiều, và các ý tưởng của lòng họ chỉ là xấu luôn; thì tự trách đã dựng nên loài người trên mặt đất, và buồn rầu trong lòng. … Nhưng Nô-ê được ơn trước mặt Ðức Giê-hô-va”. Vào lúc này, Đức Giê-hô-va đã có thêm công tác mới để làm, bởi nhân loại mà Ngài tạo dựng đã trở nên quá tội lỗi sau khi bị con rắn cám dỗ. Xét thấy những hoàn cảnh này, giữa toàn thể nhân loại, Đức Giê-hô-va đã chọn gia đình Nô-ê để được tha, và sau đó Ngài thực hiện công tác của Ngài là hủy diệt thế giới bằng một trận lụt. Nhân loại đã tiếp tục phát triển theo cách này đến tận ngày nay, ngày càng trở nên bại hoại, và đến lúc sự phát triển của nhân loại đạt tới cực điểm, thì điều đó sẽ có nghĩa là sự kết thúc của nhân loại. Từ buổi ban sơ mãi cho đến hồi kết của thế giới, sự thật bên trong công tác của Ngài đã, đang và sẽ luôn là con đường này. Cũng giống như cách con người sẽ được phân ra theo loại; hoàn toàn không phải là mỗi một người đều được định trước ngay từ đầu rằng sẽ thuộc về một phân nhóm nhất định; mà đúng hơn, mọi người dần được phân loại chỉ sau khi trải qua một quá trình phát triển. Cuối cùng, bất kỳ ai không thể được mang đến sự cứu rỗi hoàn toàn sẽ bị trả về cho “tổ tiên” của họ. Không điều gì trong công tác của Đức Chúa Trời giữa nhân loại được chuẩn bị sẵn khi tạo dựng thế giới cả; mà đúng hơn, chính sự phát triển của các sự vật đã để cho Đức Chúa Trời thực hiện công tác của Ngài giữa nhân loại từng bước một và theo cách hiện thực hơn, thực tế hơn. Ví dụ, Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã không tạo ra con rắn nhằm cám dỗ người nữ; đó không phải là kế hoạch cụ thể của Ngài, cũng không phải là điều Ngài đã chủ định trước. Người ta có thể nói rằng đây là một biến cố không lường trước. Do vậy, chính bởi vì điều này mà Đức Giê-hô-va đã đuổi A-đam và Ê-va khỏi Vườn Địa Đàng và thề sẽ không bao giờ tạo ra con người một lần nữa. Tuy nhiên, con người chỉ nhận ra sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời trên nền tảng này. Cũng như Ta đã nói trước kia: “Ta sử dụng sự khôn ngoan của Ta dựa trên những mưu đồ của Sa-tan”. Cho dù nhân loại đã trở nên bại hoại như thế nào hay con rắn đã cám dỗ họ ra sao, Đức Giê-hô-va vẫn có sự khôn ngoan của Ngài; như thế, Ngài đã đang tiến hành công tác mới kể từ khi Ngài sáng thế, và không bước nào trong công tác này từng bị lặp lại cả. Sa-tan đã liên tục đưa những mưu đồ vào hành động, nhân loại đã liên tục bị Sa-tan làm cho bại hoại, và Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã không ngừng thực hiện công tác khôn ngoan của Ngài. Ngài không bao giờ thất bại, Ngài cũng không bao giờ ngưng làm việc, kể từ khi thế giới được tạo dựng. Sau khi con người bị Sa-tan làm cho bại hoại, Ngài tiếp tục hoạt động giữa họ để đánh bại hắn, kẻ thù là nguồn gốc cho sự bại hoại của họ. Trận chiến này đã ác liệt kể từ lúc bắt đầu, và sẽ còn tiếp tục cho đến khi tận thế. Khi thực hiện toàn bộ công tác này, Giê-hô-va Đức Chúa Trời không chỉ cho phép con người, những kẻ đã bị Sa-tan làm cho bại hoại, nhận lãnh sự cứu rỗi vĩ đại của Ngài, mà còn cho phép họ thấy được sự khôn ngoan, toàn năng, và thẩm quyền của Ngài. Hơn nữa, cuối cùng, Ngài sẽ cho họ thấy tâm tính công chính của Ngài – hành phạt kẻ dữ và ban thưởng người lành. Ngài đã chiến đấu với Sa-tan đến tận hôm nay và chưa bao giờ bại trận. Điều này là vì Ngài là một Đức Chúa Trời khôn ngoan, và Ngài sử dụng sự khôn ngoan của Ngài dựa trên những mưu đồ của Sa-tan. Vì lẽ ấy, Đức Chúa Trời không chỉ làm cho mọi sự trên trời quy phục thẩm quyền của Ngài, mà Ngài còn làm cho mọi sự dưới thế được an lòng dưới bệ chân Ngài, và đặc biệt, Ngài làm cho kẻ dữ xâm chiếm và quấy nhiễu nhân loại rơi vào hình phạt của Ngài. Những kết quả của toàn bộ công tác này được mang lại nhờ sự khôn ngoan của Ngài. Ngài chưa bao giờ tỏ lộ sự khôn ngoan của Ngài trước khi nhân loại hiện hữu, bởi Ngài không có kẻ thù trên trời, dưới đất, hay bất kỳ nơi đâu trong toàn vũ trụ, và không có thế lực bóng tối nào xâm chiếm bất cứ thứ gì trong tự nhiên. Sau khi tổng lãnh thiên thần phản bội Ngài, Ngài đã tạo ra nhân loại trên đất, và chính bởi nhân loại mà Ngài chính thức bắt đầu cuộc chiến nghìn năm với Sa-tan, tổng lãnh thiên thần – một cuộc chiến ngày càng nóng hơn theo từng giai đoạn tiếp nối. Sự toàn năng và khôn ngoan của Ngài hiện diện ở từng giai đoạn này. Chỉ khi đó mọi thứ trên trời và dưới thế mới chứng kiến sự khôn ngoan, toàn năng, và đặc biệt là tính hiện thực của Đức Chúa Trời. Ngài vẫn thực hiện công tác của Ngài theo cùng một cách thiết thực này cho đến ngày nay; thêm vào đó, khi Ngài thực hiện công tác của Ngài, Ngài cũng tỏ lộ sự khôn ngoan và toàn năng của Ngài. Ngài cho phép các ngươi nhìn thấy sự thật bên trong của từng giai đoạn công tác, thấy chính xác cách giải thích sự toàn năng của Đức Chúa Trời, và, hơn nữa, thấy được sự giải thích rốt ráo về tính hiện thực của Đức Chúa Trời.
– Ngươi nên biết toàn thể nhân loại đã phát triển cho đến ngày nay như thế nào, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 148
Công tác của Đức Thánh Linh luôn được thực hiện một cách tự phát; Ngài có thể lên kế hoạch công tác của Ngài bất cứ lúc nào, và thực hiện nó bất cứ lúc nào. Tại sao Ta luôn nói rằng công tác của Đức Thánh Linh là thực tế, và rằng nó luôn mới, không bao giờ cũ, và luôn mới mẻ tột cùng? Công tác của Ngài chưa được lên kế hoạch khi thế giới được tạo dựng; đó hoàn toàn không phải là điều đã xảy ra! Mọi bước của công tác đều đạt được hiệu quả đích đáng cho thời kỳ tương ứng, và các bước không xen vào nhau. Đa phần, những kế hoạch mà ngươi có thể có trong đầu lại hoàn toàn không khớp với công tác mới nhất của Đức Thánh Linh. Công tác của Ngài không đơn giản như con người lý luận, cũng không phức tạp như con người tưởng tượng – nó bao gồm việc đáp ứng cho con người mọi lúc mọi nơi theo những nhu cầu của họ vào lúc đó. Không ai rõ về thực chất của con người hơn Ngài, và chính vì lý do này mà không gì có thể phù hợp với những nhu cầu thực tế của con người cho bằng công tác mà Ngài làm. Vì lẽ ấy, từ góc độ con người, công tác của Ngài có vẻ đã được lên kế hoạch trước vài nghìn năm. Bởi Ngài hoạt động giữa các ngươi lúc này, đồng thời hoạt động và phán khi Ngài theo dõi những trạng thái mà các ngươi đang sống, Ngài có đúng những lời chính xác để phán khi đối diện với mỗi một dạng trạng thái, phán những lời đúng những gì mọi người cần. Lấy ví dụ bước đầu tiên trong công tác của Ngài: thời điểm hành phạt. Sau đó, Đức Chúa Trời tiến hành công tác của Ngài dựa trên những gì con người thể hiện, sự phản nghịch của họ, những trạng thái tích cực xuất hiện từ họ và những trạng thái tiêu cực, cũng như giới hạn thấp nhất mà con người có thể rơi vào khi những trạng thái tiêu cực đó đạt đến một điểm nhất định; và Ngài nắm bắt những điều này để đạt được kết quả tốt hơn nhiều từ công tác của Ngài. Nghĩa là, Ngài thực hiện công tác duy trì giữa mọi người dựa trên bất cứ tình trạng hiện tại nào của họ vào bất cứ thời điểm cụ thể nào; Ngài thực hiện mọi bước trong công tác của Ngài tùy theo những tình trạng thực tế của con người. Mọi thọ tạo đều nằm trong tay Ngài; làm sao Ngài có thể không biết họ chứ? Đức Chúa Trời thực hiện bước tiếp theo nên làm của công tác, mọi lúc và mọi nơi, phù hợp với những tình trạng của con người. Công tác này không hề được lên kế hoạch hàng nghìn năm trước; đó là một quan niệm của con người! Ngài làm việc khi Ngài quan sát những tác động từ công tác của Ngài, và công tác của Ngài liên tục đi sâu và phát triển; mỗi lần, sau khi quan sát những kết quả của công tác, Ngài thực hiện bước tiếp theo trong công tác của Ngài. Ngài dùng nhiều thứ để chuyển tiếp dần dần và làm cho công tác mới của Ngài hiển hiện với con người theo thời gian. Cách làm việc này có thể đáp ứng những nhu cầu của con người, bởi vì Đức Chúa Trời biết hết thảy mọi người quá rõ. Đây là cách Ngài thực hiện công tác của Ngài từ trời. Tương tự, Đức Chúa Trời nhập thể làm công tác của Ngài theo cùng một cách, thực hiện những sự sắp đặt và hoạt động giữa con người theo hoàn cảnh thực tế. Không điều gì trong công tác của Ngài được sắp đặt trước khi thế giới được tạo dựng, cũng như được lên kế hoạch trước một cách tỉ mỉ. Hai ngàn năm sau khi thế giới được tạo dựng, Đức Giê-hô-va đã thấy nhân loại trở nên quá bại hoại đến nỗi Ngài đã tiên tri qua miệng của tiên tri I-sai-a để báo trước rằng, sau khi Thời đại Luật pháp kết thúc, Đức Giê-hô-va sẽ thực hiện công tác cứu chuộc nhân loại của Ngài trong Thời đại Ân điển. Dĩ nhiên, đây là kế hoạch của Đức Giê-hô-va, nhưng kế hoạch này cũng được lập ra theo những hoàn cảnh mà Ngài quan sát được vào lúc đó; Ngài chắc chắn đã không nghĩ về nó ngay lập tức sau khi tạo ra A-đam. I-sai-a đơn thuần nói ra một lời tiên tri, nhưng Đức Giê-hô-va đã không thực hiện những sự chuẩn bị trước cho công tác này trong Thời đại Luật pháp; đúng hơn, Ngài khởi động nó ở đầu Thời đại Ân điển, khi sứ thần xuất hiện trong giấc mơ của Giô-sép để khai sáng ông với thông điệp rằng Đức Chúa Trời sẽ trở nên xác thịt, và chỉ khi ấy công tác nhập thể của Ngài mới bắt đầu. Đức Chúa Trời đã không chuẩn bị cho công tác nhập thể của Ngài ngay sau khi sáng thế, như con người tưởng tượng; điều đó chỉ được quyết định dựa trên mức độ mà nhân loại đã phát triển và tình trạng cuộc chiến của Ngài chống lại Sa-tan.
– Ngươi nên biết toàn thể nhân loại đã phát triển cho đến ngày nay như thế nào, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 149
Khi Đức Chúa Trời trở nên xác thịt, Thần của Ngài giáng xuống trên một con người; nói cách khác, Thần của Đức Chúa Trời mặc lấy một thể xác vật chất cho chính Ngài. Ngài đến để thực hiện công tác của Ngài trên đất, chứ không phải để mang theo Ngài những bước hạn chế nhất định; công tác của Ngài tuyệt đối không có giới hạn. Công tác mà Đức Thánh Linh thực hiện trong xác thịt vẫn được quyết định bởi những kết quả công tác của Ngài, và Ngài dùng những điều như thế để quyết định độ dài thời gian mà Ngài sẽ làm công tác khi ở trong xác thịt. Đức Thánh Linh trực tiếp mặc khải từng bước công tác của Ngài, khảo xét công tác của Ngài khi Ngài thực hiện; công tác này không có gì quá siêu nhiên đến mức vượt quá những giới hạn của trí tưởng tượng con người. Điều này giống như công tác của Đức Giê-hô-va trong việc tạo nên trời đất và muôn vật; Ngài đã lên kế hoạch và làm việc một cách đồng thời. Ngài đã phân tách ánh sáng với bóng tối, và ngày, đêm được hình thành – việc này mất một ngày. Vào ngày thứ hai, Ngài tạo nên trời, và việc đó cũng mất một ngày; sau đó Ngài tạo nên đất, biển, và mọi loài thọ tạo cư trú trong đó, việc đó cần thêm một ngày nữa. Việc này tiếp tục cho đến ngày thứ sáu, khi Đức Chúa Trời tạo nên con người và để họ quản lý mọi thứ trên đất. Sau đó, vào ngày thứ bảy, khi Ngài đã hoàn tất việc tạo dựng muôn vật, Ngài nghỉ ngơi. Đức Chúa Trời đã ban phúc lành cho ngày thứ bảy và chọn đó là ngày thánh. Ngài chỉ quyết định lập nên ngày thánh này sau khi đã tạo nên muôn vật, không phải trước khi tạo nên chúng. Công tác này cũng được thực hiện một cách tự phát; trước khi tạo nên muôn vật, Ngài đã không quyết định tạo dựng thế giới trong sáu ngày và sau đó nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy; điều đó không hề phù hợp với sự thật. Ngài đã không phán ra điều nào như thế, Ngài cũng không lên kế hoạch cho nó. Ngài không hề phán rằng việc tạo dựng muôn vật sẽ hoàn tất vào ngày thứ sáu và rằng Ngài sẽ nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy; đúng hơn, Ngài đã tạo dựng theo những gì trông có vẻ tốt đối với Ngài vào lúc đó. Khi Ngài hoàn tất việc tạo dựng mọi thứ, đó đã là ngày thứ sáu. Nếu đó là ngày thứ năm khi Ngài hoàn thành việc tạo dựng muôn vật, thì như thế Ngài sẽ chọn ngày thứ sáu làm ngày thánh. Tuy nhiên, thực tế là Ngài đã hoàn thành việc tạo dựng muôn vật vào ngày thứ sáu, và do đó ngày thứ bảy trở thành ngày thánh, được truyền lại cho đến tận ngày nay. Vì lẽ ấy, công tác hiện tại của Ngài đang được thực hiện theo cùng cách này. Ngài phán và đáp ứng cho những nhu cầu của các ngươi phù hợp với những tình cảnh của các ngươi. Nghĩa là, Thần phán và hoạt động tùy theo hoàn cảnh của con người; Ngài vẫn cứ quan sát hết thảy và làm việc vào mọi lúc mọi nơi. Điều Ta làm, phán, đặt vào các ngươi, và ban cho các ngươi, là điều các ngươi cần, không có ngoại lệ. Do vậy, không điều gì trong công tác của Ta xa rời hiện thực cả; toàn bộ là thực, để hết thảy các ngươi biết rằng “Thần của Đức Chúa Trời vẫn cứ theo dõi hết thảy”. Nếu toàn bộ điều này được quyết định trước, chẳng phải nó sẽ quá cứng nhắc sao? Ngươi nghĩ rằng Đức Chúa Trời đã lập nên những kế hoạch cho toàn bộ sáu nghìn năm và sau đó định trước rằng nhân loại sẽ phản nghịch, chống đối, lươn lẹo và lừa dối, và sở hữu sự bại hoại của xác thịt, tâm tính Sa-tan, ánh mắt thèm muốn, và những sự ham mê cá nhân. Không điều gì trong số đó được Đức Chúa Trời định trước, mà tất cả đều diễn ra như một kết quả từ sự bại hoại của Sa-tan. Một số người có thể nói: “Chẳng phải Sa-tan cũng nằm trong tầm tay của Đức Chúa Trời sao? Đức Chúa Trời đã định trước rằng Sa-tan sẽ làm bại hoại con người theo cách này, và sau đó, Đức Chúa Trời thực hiện công tác của Ngài giữa con người”. Đức Chúa Trời có thật sự định trước việc Sa-tan làm cho nhân loại bại hoại không? Đức Chúa Trời chỉ quá thiết tha cho phép nhân loại sống một cách bình thường, như vậy Ngài có thật sự xen vào cuộc sống của họ không? Nếu thế, chẳng phải việc đánh bại Sa-tan và cứu rỗi nhân loại là một nỗ lực vô ích sao? Làm thế nào mà sự phản nghịch của nhân loại có thể được định trước chứ? Đó là điều đã xảy ra do sự xen vào của Sa-tan, vậy thì làm sao nó có thể được định trước bởi Đức Chúa Trời? Sa-tan trong tầm tay của Đức Chúa Trời mà các ngươi nghĩ rất khác với Sa-tan trong tầm tay của Đức Chúa Trời mà Ta nói tới. Theo những tuyên bố của các ngươi rằng “Đức Chúa Trời là toàn năng, và Sa-tan nằm trong tay Ngài”, thì Sa-tan không bao giờ có thể phản bội Ngài. Chẳng phải ngươi đã nói rằng Đức Chúa Trời là toàn năng sao? Kiến thức của các ngươi quá trừu tượng, và không phù hợp với hiện thực; con người không bao giờ có thể hiểu thấu những ý nghĩ của Đức Chúa Trời, cũng không bao giờ có thể hiểu rõ được sự khôn ngoan của Ngài! Đức Chúa Trời là toàn năng; điều này không hề sai. Tổng lãnh thiên thần đã phản bội Đức Chúa Trời bởi vì ban đầu Đức Chúa Trời ban cho hắn một phần thẩm quyền. Dĩ nhiên, đây là một sự kiện không mong đợi, cũng giống như khi Ê-va không chống nổi sự cám dỗ của con rắn. Tuy nhiên, cho dù Sa-tan thực hiện sự phản bội của hắn như thế nào, hắn vẫn không toàn năng như Đức Chúa Trời. Như ngươi đã nói, Sa-tan chỉ mạnh mà thôi; cho dù hắn làm gì, thẩm quyền của Đức Chúa Trời cũng sẽ luôn đánh bại hắn. Đây là ý nghĩa thật sự đằng sau câu nói, “Đức Chúa Trời toàn năng, và Sa-tan nằm trong tay Ngài”. Vì lẽ ấy, cuộc chiến với Sa-tan phải được thực hiện từng bước một. Hơn nữa, Đức Chúa Trời lên kế hoạch cho công tác của Ngài để đáp lại những thủ đoạn của Sa-tan – nghĩa là, Ngài mang sự cứu rỗi đến nhân loại và mặc khải sự toàn năng, khôn ngoan của Ngài theo cách phù hợp với thời đại. Tương tự, công tác của những ngày sau rốt không được định sẵn từ sớm, trước Thời đại Ân điển; những sự tiền định không được thực hiện theo cách tuần tự như thế này: thứ nhất, làm cho tâm tính bên ngoài của con người thay đổi; thứ hai, bắt con người chịu hình phạt và những thử luyện của Ngài; thứ ba, khiến con người trải qua thử luyện của sự chết; thứ tư, làm cho con người trải nghiệm thời gian yêu mến Đức Chúa Trời và thể hiện quyết tâm của một loài thọ tạo; thứ năm, cho phép con người nhìn thấy ý muốn của Đức Chúa Trời và biết Ngài một cách trọn vẹn, và cuối cùng là làm cho con người trọn vẹn. Ngài đã không lên kế hoạch tất cả những điều này trong Thời đại Ân điển; mà Ngài bắt đầu lên kế hoạch cho chúng trong thời đại hiện tại. Sa-tan đang hoạt động, Đức Chúa Trời cũng vậy. Sa-tan thể hiện tâm tính bại hoại của hắn, trong khi Đức Chúa Trời phán một cách thẳng thắn và mặc khải một số điều thiết yếu. Đây là công tác đang được thực hiện ngày nay, và có cùng một nguyên tắc hoạt động đã được sử dụng từ lâu, sau khi sáng thế.
– Ngươi nên biết toàn thể nhân loại đã phát triển cho đến ngày nay như thế nào, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 150
Trước hết, Đức Chúa Trời tạo ra A-đam và Ê-va, và Ngài cũng tạo ra một con rắn. Trong muôn vật, con rắn này là độc nhất; thân của nó chứa nọc độc, thứ Sa-tan đã dùng để lợi dụng nó. Nó là con rắn đã cám dỗ Ê-va phạm tội. A-đam phạm tội sau Ê-va, và hai người họ sau đó đã có thể phân biệt giữa thiện và ác. Nếu Đức Giê-hô-va biết được rằng con rắn sẽ cám dỗ Ê-va và rằng Ê-va sẽ cám dỗ A-đam, vậy thì tại sao Ngài lại để tất cả họ vào trong một khu vườn? Nếu Ngài có thể tiên đoán những điều này, vậy thì tại sao Ngài lại tạo ra một con rắn và để nó trong Vườn Địa Đàng? Tại sao Vườn Địa Đàng lại có trái của cây biết thiện ác? Ngài có cố tình để họ ăn trái không? Khi Đức Giê-hô-va đến, cả A-đam lẫn Ê-va đều không dám đối diện Ngài, và chỉ khi đó Đức Giê-hô-va mới biết rằng họ đã ăn trái của cây biết thiện ác và đã mắc bẫy thủ đoạn gian trá của con rắn. Cuối cùng, Ngài đã rủa sả con rắn, và Ngài cũng đã rủa sả A-đam và Êva. Khi hai người họ ăn trái của cái cây, Đức Giê-hô-va đã không hề hay biết họ đang làm thế. Nhân loại đã trở nên bại hoại đến mức tà ác và chung chạ bừa bãi, thậm chí đi xa đến mức mọi thứ mà họ nuôi giữ trong lòng đều tà ác và bất chính; toàn bộ đều nhơ bẩn. Vì lẽ ấy, Đức Giê-hô-va đã hối hận vì đã tạo nên nhân loại. Sau đó, Ngài đã thực hiện công tác của Ngài là hủy diệt thế giới bằng một trận lụt mà Nô-ê và các con trai của ông được sống sót. Một số việc thật ra không cấp tiến và siêu nhiên như con người có thể tưởng tượng. Một số người hỏi: “Đức Chúa Trời đã biết tổng lãnh thiên thần sẽ phản bội Ngài, tại sao Ngài lại tạo ra hắn?” Đây là những sự thật: Trước khi thế gian tồn tại, tổng lãnh thiên thần là vĩ đại nhất trong các thiên thần trên trời. Hắn có quyền hành với tất cả các thiên thần trên trời; đây là thẩm quyền mà Đức Chúa Trời đã ban cho hắn. Ngoại trừ Đức Chúa Trời, hắn là vĩ đại nhất trong các thiên thần trên trời. Rồi sau khi Đức Chúa Trời tạo nên nhân loại, tổng lãnh thiên thần dưới thế đã thực hiện một sự phản bội chống lại Đức Chúa Trời còn nghiêm trọng hơn nữa. Ta nói rằng hắn đã phản bội Đức Chúa Trời bởi vì hắn muốn quản lý nhân loại và vượt hơn thẩm quyền của Đức Chúa Trời. Chính tổng lãnh thiên thần đã cám dỗ Ê-va phạm tội, và hắn làm như thế vì hắn ao ước được thiết lập vương quốc của hắn trên đất, khiến con người quay lưng với Đức Chúa Trời và thay vào đó là vâng phục tổng lãnh thiên thần. Tổng lãnh thiên thần thấy rằng rất nhiều thứ có thể vâng phục hắn – các thiên thần có thể, con người trên đất cũng có thể. Chim thú, cây cối, rừng, núi, sông, và muôn vật trên đất đều chịu sự coi sóc của con người – nghĩa là, A-đam và Ê-va – trong khi A-đam và Ê-va vâng phục tổng lãnh thiên thần. Vì lẽ ấy tổng lãnh thiên thần ao ước vượt hơn thẩm quyền của Đức Chúa Trời và phản bội Đức Chúa Trời. Sau đó, hắn đã dẫn dắt nhiều thiên thần phản nghịch chống lại Đức Chúa Trời, những kẻ mà về sau trở thành những loại linh hồn ô trọc khác nhau. Chẳng phải diễn tiến của nhân loại cho đến ngày nay bị gây nên bởi sự bại hoại của tổng lãnh thiên thần sao? Con người chỉ theo kiểu ngày nay bởi tổng lãnh thiên thần đã phản bội Đức Chúa Trời và đã làm cho nhân loại bại hoại. Công tác từng bước này không hề trừu tượng và đơn giản như con người có thể tưởng tượng. Sa-tan đã thực hiện sự phản bội của hắn có lý do, nhưng con người không thể hiểu thấu được một thực tế đơn giản như vậy. Tại sao Đức Chúa Trời, Đấng đã tạo nên trời đất và muôn vật, lại cũng tạo nên Sa-tan? Vì Đức Chúa Trời quá khinh miệt Sa-tan, và Sa-tan là kẻ thù của Ngài, tại sao Ngài lại tạo ra Sa-tan? Bằng cách tạo ra Sa-tan, chẳng phải Ngài đang tạo ra một kẻ thù sao? Đức Chúa Trời đã không thật sự tạo nên một kẻ thù; đúng hơn, Ngài tạo nên một thiên thần, và sau đó thiên thần ấy phản bội Ngài. Địa vị của hắn đã phát triển lớn mạnh đến mức hắn muốn phản bội Đức Chúa Trời. Người ta có thể nói rằng đây là một sự trùng hợp, nhưng cũng là một điều không thể tránh khỏi. Điều này tương tự như cách một người rốt cuộc sẽ chết sau khi trưởng thành đến một mốc nhất định; sự việc chỉ là tiến triển đến giai đoạn đó. Một số kẻ ngu ngốc ngớ ngẩn nói rằng: “Vì Sa-tan là kẻ thù của Ngài, tại sao Ngài lại tạo ra hắn? Tại sao Ngài không biết rằng tổng lãnh thiên thần sẽ phản bội Ngài? Ngài không thể nhìn từ vô tận đến vô tận sao? Ngài không biết bản chất của tổng lãnh thiên thần sao? Vì Ngài biết rõ rằng hắn sẽ phản bội Ngài, tại sao Ngài lại để hắn là tổng lãnh thiên thần? Hắn không chỉ phản bội Ngài, hắn còn dẫn dắt nhiều thiên thần khác cùng hắn và giáng xuống thế giới phàm tục để làm cho nhân loại bại hoại, ấy thế mà đến hôm nay, Ngài vẫn không thể hoàn thành công tác quản lý sáu nghìn năm của Ngài”. Những lời này có đúng không? Khi ngươi nghĩ theo cách này, chẳng phải ngươi đang làm khó mình hơn mức cần thiết sao? Có những người khác nói rằng: “Nếu Sa-tan không làm cho nhân loại bại hoại đến tận hôm nay, Đức Chúa Trời sẽ không mang đến sự cứu rỗi nhân loại như thế này. Như thế, sự khôn ngoan và toàn năng của Đức Chúa Trời sẽ là vô hình; sự khôn ngoan của Ngài sẽ được tỏ lộ ở đâu? Vì lẽ ấy, Đức Chúa Trời đã tạo ra loài người cho Sa-tan để sau đó Ngài có thể mặc khải sự toàn năng của Ngài – nếu không, làm sao con người có thể nhận ra được sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời? Nếu con người đã không chống đối Đức Chúa Trời hay phản nghịch chống lại Ngài, sẽ không cần để các hành động của Ngài được tỏ lộ. Nếu mọi thọ tạo đều thờ phượng Ngài và quy phục Ngài, Đức Chúa Trời sẽ không có công tác để làm”. Điều này càng xa chân tướng của sự thật hơn, bởi không có gì nhơ bẩn về Đức Chúa Trời cả, do đó Ngài không thể tạo nên sự nhơ bẩn. Ngài mặc khải những hành động của Ngài lúc này chỉ là để đánh bại kẻ thù của Ngài, để cứu rỗi con người mà Ngài đã tạo, và để đánh bại ma quỷ và Sa-tan, những kẻ căm ghét, phản bội, và chống lại Đức Chúa Trời và những kẻ dưới sự thống trị của Ngài và thuộc về Ngài ngay từ đầu. Đức Chúa Trời muốn đánh bại những ma quỷ này và, bằng cách làm như thế, mặc khải sự toàn năng của Ngài với muôn vật. Nhân loại và muôn vật trên đất hiện đang ở dưới quyền của Sa-tan và dưới lãnh thổ của kẻ dữ. Đức Chúa Trời muốn tỏ lộ những hành động của Ngài với muôn vật hầu cho mọi người có thể biết Ngài, nhờ đó đánh bại Sa-tan và đánh bại các kẻ thù của Ngài một cách triệt để. Toàn bộ công tác này được hoàn thành thông qua việc tỏ lộ những hành động của Ngài. Toàn bộ thọ tạo của Ngài đều ở dưới quyền của Sa-tan, do đó Đức Chúa Trời mong muốn mặc khải sự toàn năng của Ngài với họ, nhờ đó đánh bại Sa-tan. Nếu không có Sa-tan, Ngài sẽ không cần tỏ lộ những việc làm của Ngài. Nếu không vì sự quấy nhiễu của Sa-tan, Đức Chúa Trời đã tạo ra nhân loại và dẫn họ vào sống trong Vườn Địa Đàng. Tại sao trước khi Sa-tan phản bội, Đức Chúa Trời lại không bao giờ tỏ lộ mọi việc làm của Ngài với các thiên thần hay với tổng lãnh thiên thần? Nếu, vào lúc đầu, mọi thiên thần và tổng lãnh thiên thần đều biết Đức Chúa Trời và quy phục Ngài, thì Đức Chúa Trời đã không thực hiện những hành động công tác vô nghĩa ấy. Bởi sự tồn tại của Sa-tan và ma quỷ, con người cũng đã chống đối Đức Chúa Trời, và đầy ắp tâm tính phản nghịch. Vì lẽ ấy, Đức Chúa Trời muốn tỏ lộ những hành động của Ngài. Bởi Ngài muốn thực hiện cuộc chiến với Sa-tan, Ngài phải dùng thẩm quyền của riêng Ngài và mọi hành động của Ngài để đánh bại hắn; theo cách này, công tác cứu rỗi mà Ngài thực hiện giữa con người sẽ cho phép họ nhìn thấy sự khôn ngoan và toàn năng của Ngài. Công tác mà Đức Chúa Trời đang làm hôm nay đầy ý nghĩa, và không hề giống như điều một số người ám chỉ khi họ nói: “Chẳng phải công tác Ngài làm là mâu thuẫn sao? Chẳng phải sự tiếp diễn công tác này đơn thuần là một sự thi hành gây rắc rối cho chính Ngài sao? Ngài đã tạo ra Sa-tan, và sau đó cho phép hắn phản bội và chống đối Ngài. Ngài đã tạo ra con người, và sau đó trao họ cho Sa-tan, cho phép A-đam và Ê-va bị cám dỗ. Vì Ngài đã làm tất cả những điều này có chủ đích, tại sao Ngài vẫn khinh ghét nhân loại? Tại sao Ngài lại ghê tởm Sa-tan? Chẳng phải những điều này đều là của chính Ngài làm ra sao? Ngài căm ghét cái gì chứ?” Khá nhiều kẻ ngớ ngẩn nói những điều như thế. Họ muốn yêu Đức Chúa Trời, nhưng tận sâu thẳm, họ oán trách Đức Chúa Trời. Thật nghịch lý! Ngươi không hiểu sự thật, ngươi có quá nhiều ý tưởng dị thường, và ngươi thậm chí tuyên bố rằng Đức Chúa Trời đã phạm sai lầm – ngươi thật ngớ ngẩn! Chính ngươi là kẻ làm trò ngớ ngẩn với sự thật; không phải là Đức Chúa Trời đã phạm sai lầm! Một số người thậm chí oán trách hết lần này đến lần khác: “Chính Ngài đã tạo ra Sa-tan, và Ngài đuổi Sa-tan xuống giữa con người và trao họ cho hắn. Khi con người sở hữu tâm tính Sa-tan, Ngài đã không tha thứ cho họ; trái lại, Ngài ghét họ ở một mức độ nhất định. Lúc đầu, Ngài yêu họ ở một mức độ nhất định, nhưng giờ thì Ngài khinh ghét họ. Chính Ngài đã căm ghét nhân loại, nhưng Ngài cũng là Đấng đã yêu nhân lại. Chính xác thì chuyện gì đang xảy ra ở đây? Chẳng phải điều này mâu thuẫn sao?” Bất kể các ngươi diễn đạt điều này như thế nào, thì đây cũng là điều đã xảy ra trên trời; đây là cách mà tổng lãnh thiên thần đã phản bội Đức Chúa Trời và nhân loại đã bị bại hoại, và đây là cách con người tiếp tục cho đến ngày nay. Bất kể các ngươi diễn giải như thế nào, thì đó cũng là toàn bộ câu chuyện. Tuy nhiên, các ngươi phải hiểu rằng toàn bộ mục đích đằng sau công tác mà Đức Chúa Trời đang làm ngày nay là cứu rỗi các ngươi và đánh bại Sa-tan.
– Ngươi nên biết toàn thể nhân loại đã phát triển cho đến ngày nay như thế nào, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 151
Đức Chúa Trời dùng sự quản lý con người của Ngài để đánh bại Sa-tan. Bằng cách làm cho con người bại hoại, Sa-tan đã khiến vận mệnh của họ đến hồi kết thúc và phá vỡ công tác của Đức Chúa Trời. Mặt khác, công tác của Đức Chúa Trời là cứu rỗi nhân loại. Bước nào của công tác mà Đức Chúa Trời thực hiện lại không nhằm cứu rỗi nhân loại chứ? Bước nào không nhằm thanh tẩy con người, làm cho họ hành xử một cách công chính và sống trọn vẹn hình tượng của những người có thể được yêu thương chứ? Tuy nhiên, Sa-tan không làm điều này. Hắn làm bại hoại nhân loại; hắn không ngừng thực hiện công việc của hắn là làm bại hoại nhân loại trên khắp vũ trụ. Dĩ nhiên, Đức Chúa Trời cũng làm công tác của riêng Ngài, chẳng hề chú ý đến Sa-tan. Bất kể Sa-tan có bao nhiêu thẩm quyền, thẩm quyền đó vẫn là bởi Đức Chúa Trời ban cho hắn; Đức Chúa Trời đơn thuần không thật sự cho hắn mọi thẩm quyền của Ngài, và do đó cho dù Sa-tan làm gì, hắn cũng không bao giờ có thể vượt qua Đức Chúa Trời và sẽ luôn nằm trong tầm tay của Ngài. Đức Chúa Trời đã không tỏ lộ bất kỳ hành động nào của Ngài khi ở trên trời. Ngài đơn thuần ban cho Sa-tan một phần nhỏ thẩm quyền và cho phép hắn thực hiện kiểm soát các thiên thần khác. Vì lẽ ấy, cho dù Sa-tan làm gì, hắn cũng không thể vượt qua thẩm quyền của Đức Chúa Trời, bởi vì thẩm quyền mà Đức Chúa Trời ban cho hắn lúc đầu chỉ hữu hạn. Khi Đức Chúa Trời hoạt động, Sa-tan quấy phá. Trong những ngày sau rốt, những trò phá vỡ của hắn sẽ bị kết thúc; tương tự, công tác của Đức Chúa Trời cũng sẽ được hoàn tất và dạng người mà Đức Chúa Trời muốn hoàn thiện sẽ được làm cho hoàn thiện. Đức Chúa Trời tích cực dẫn dắt mọi người; sự sống của Ngài là nước hằng sống, mênh mông và vô hạn. Sa-tan đã làm bại hoại con người đến một mức độ nhất định; cuối cùng, nước hằng sống của sự sống sẽ làm cho con người hoàn thiện, và Sa-tan sẽ không thể gây trở ngại và thực hiện công việc của hắn. Do vậy, Đức Chúa Trời sẽ có thể thu phục những người này hoàn toàn. Thậm chí lúc này, Sa-tan vẫn không chịu chấp nhận điều này; hắn không ngừng cạnh tranh với Đức Chúa Trời, nhưng Ngài chẳng chú ý đến hắn. Đức Chúa Trời đã phán: “Ta sẽ chiến thắng mọi thế lực bóng tối của Sa-tan và mọi sự ảnh hưởng đen tối”. Đây là công tác phải được thực hiện trong xác thịt, và nó cũng là điều làm cho việc trở nên xác thịt có ý nghĩa: tức là, hoàn thành giai đoạn công tác đánh bại Sa-tan trong những ngày sau rốt, và gột sạch mọi thứ thuộc về Sa-tan. Sự chiến thắng của Đức Chúa Trời trước Sa-tan là chắc chắn! Thật ra, Sa-tan đã thất bại từ lâu. Khi Phúc Âm bắt đầu được loan truyền khắp vùng đất của con rồng lớn sắc đỏ – nghĩa là, khi Đức Chúa Trời nhập thể bắt đầu công tác của Ngài và công tác này được khởi động – Sa-tan đã hoàn toàn bị đánh bại, bởi chính mục đích của sự nhập thể là để chế ngự Sa-tan. Ngay khi Sa-tan thấy rằng Đức Chúa Trời đã một lần nữa trở nên xác thịt và bắt đầu thực hiện công tác của Ngài, điều mà không thế lực nào có thể ngăn cản được, hắn vì thế mà đã trở nên chết điếng khi nhìn thấy công tác này, và đã không dám làm thêm việc ác nào nữa. Lúc đầu Sa-tan nghĩ rằng hắn cũng được phú cho rất nhiều sự khôn ngoan, hắn làm gián đoạn và quấy nhiễu công tác của Đức Chúa Trời; tuy nhiên, hắn đã không lường được rằng Đức Chúa Trời đã một lần nữa trở nên xác thịt, hoặc rằng trong công tác của Ngài, Đức Chúa Trời sẽ dùng sự phản nghịch của Sa-tan để phục vụ như một sự mặc khải và phán xét cho nhân loại, bằng cách đó chinh phục nhân loại và đánh bại Sa-tan. Đức Chúa Trời khôn ngoan hơn Sa-tan, và công tác của Ngài vượt xa hắn. Vì lẽ ấy, như Ta đã nói rõ trước đây: “Công tác mà Ta làm được thực hiện để đáp lại những thủ đoạn của Sa-tan; cuối cùng, Ta sẽ mặc khải sự toàn năng của Ta và sự bất lực của Sa-tan”. Đức Chúa Trời sẽ làm công tác của Ngài trên tiền tuyến, trong khi Sa-tan sẽ lê bước theo sau, cho đến khi, cuối cùng, hắn rốt cuộc bị hủy diệt – hắn sẽ thậm chí không biết điều gì tấn công hắn! Hắn sẽ chỉ nhận ra sự thật khi hắn đã bị đánh tan và tiêu diệt, và vào lúc đó, hắn sẽ bị đốt thành tro trong hồ lửa. Chẳng phải hắn sẽ bị thuyết phục hoàn toàn khi ấy sao? Bởi Sa-tan khi ấy sẽ không còn mưu đồ để sử dụng nữa!
– Ngươi nên biết toàn thể nhân loại đã phát triển cho đến ngày nay như thế nào, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 152
Công tác của Đức Chúa Trời giữa con người không thể tách rời khỏi con người, bởi con người là đối tượng của công tác này, và là tạo vật duy nhất được Đức Chúa Trời tạo nên có thể làm chứng về Đức Chúa Trời. Đời sống của con người và tất cả những hoạt động của con người đều không thể tách rời khỏi Đức Chúa Trời, và tất cả đều được điều khiển bởi bàn tay của Đức Chúa Trời, thậm chí có thể nói rằng không ai có thể tồn tại độc lập với Đức Chúa Trời. Không ai có thể phủ nhận điều này, bởi nó là một sự thật. Tất cả những gì Đức Chúa Trời làm đều vì lợi ích của nhân loại, và nhắm thẳng vào các âm mưu của Sa-tan. Tất cả những gì con người cần đều đến từ Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời là cội nguồn sự sống của con người. Vì vậy, đơn giản là con người không thể rời xa Đức Chúa Trời. Hơn nữa, Đức Chúa Trời chưa bao giờ có bất kỳ ý định rời xa con người. Công tác mà Đức Chúa Trời làm là vì cả nhân loại, và những suy nghĩ của Ngài luôn luôn tốt lành. Vì vậy, đối với con người, công tác của Đức Chúa Trời và suy nghĩ của Đức Chúa Trời (nghĩa là ý muốn của Đức Chúa Trời) là cả hai “khải tượng” mà con người nên biết. Những khải tượng như thế cũng là sự quản lý của Đức Chúa Trời, và là công tác mà con người không có khả năng thực hiện. Trong khi đó, những yêu cầu Đức Chúa Trời đặt ra cho con người trong suốt quá trình công tác của Ngài được gọi là “sự thực hành” của con người. Những khải tượng là công tác của chính Đức Chúa Trời, hoặc là ý muốn của Ngài dành cho nhân loại hoặc các mục đích và ý nghĩa công tác của Ngài. Những khải tượng cũng có thể nói là một phần của sự quản lý, bởi sự quản lý này là công tác của Đức Chúa Trời, và nhằm vào con người, có nghĩa đó là công tác mà Đức Chúa Trời thực hiện giữa con người. Công tác này là bằng chứng và là con đường qua đó con người biết đến Đức Chúa Trời, và đó là điều vô cùng quan trọng đối với con người. Thay vì chú ý đến kiến thức về công tác của Đức Chúa Trời, nếu mọi người chỉ chú ý đến các giáo lý về niềm tin nơi Đức Chúa Trời, hoặc đến những chi tiết vặt vãnh không quan trọng, thì đơn giản là họ sẽ không biết Đức Chúa Trời, và hơn thế nữa, sẽ không hợp lòng Đức Chúa Trời. Công tác của Đức Chúa Trời mà cực kỳ hữu ích cho kiến thức của con người về Đức Chúa Trời, thì được gọi là những khải tượng. Những khải tượng này là công tác của Đức Chúa Trời, ý muốn của Đức Chúa Trời, những mục đích và ý nghĩa công tác của Đức Chúa Trời; tất cả chúng đều có ích cho con người. Sự thực hành đề cập đến những gì nên được thực hiện bởi con người, những gì nên được thực hiện bởi những tạo vật đi theo Đức Chúa Trời và đó cũng là bổn phận của con người. Những gì con người cần phải làm không phải là điều mà con người đã hiểu ngay từ đầu, mà là những yêu cầu Đức Chúa Trời đặt ra cho con người trong suốt quá trình công tác của Ngài. Những yêu cầu này dần dần trở nên sâu sắc hơn và nâng cao hơn khi Đức Chúa Trời làm việc. Ví dụ, trong suốt Thời đại Luật pháp, con người đã phải tuân theo luật pháp, và trong suốt Thời đại Ân điển, con người đã phải vác thập tự giá. Thời đại Vương quốc thì khác: Những yêu cầu đối với con người cao hơn trong Thời đại Luật pháp và Thời đại Ân điển. Khi những khải tượng trở nên cao cả hơn, thì những yêu cầu đối với con người trở nên cao hơn, trở nên rõ ràng hơn và thật hơn bao giờ hết. Tương tự như vậy, những khải tượng cũng ngày càng trở thành hiện thực. Nhiều khải tượng thật này không chỉ có ích cho sự vâng phục Đức Chúa Trời của con người, mà hơn nữa, còn có ích cho kiến thức của họ về Đức Chúa Trời.
– Công tác của Đức Chúa Trời và sự thực hành của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 153
So với các thời đại trước, công tác của Đức Chúa Trời trong suốt Thời đại Vương quốc thực tế hơn, hướng vào thực chất của con người và những thay đổi trong tâm tính của họ nhiều hơn, và càng có thể làm chứng về chính Đức Chúa Trời đối với tất cả những ai theo Ngài. Nói cách khác, trong suốt Thời đại Vương quốc, khi Ngài làm việc, Đức Chúa Trời đã bày tỏ nhiều về chính mình cho con người hơn bất kỳ thời điểm nào trong quá khứ, điều đó có nghĩa là những khải tượng mà con người nên biết thì cao cả hơn trong bất kỳ thời đại nào trước đây. Bởi vì công tác của Đức Chúa Trời giữa con người đã bước vào địa hạt chưa từng có, những khải tượng được con người biết đến trong suốt Thời đại Vương quốc thì cao cả nhất giữa toàn bộ công tác quản lý. Công tác của Đức Chúa Trời đã bước vào địa hạt chưa từng có, và vì thế những khải tượng được con người biết đến đã trở nên cao cả nhất trong tất cả các khải tượng, và kết quả thực hành của con người cũng cao hơn trong bất kỳ thời đại nào trước đó, bởi sự thực hành của con người thay đổi từng bước theo các khải tượng, và sự hoàn hảo của khải tượng cũng đánh dấu sự hoàn hảo trong những yêu cầu đối với con người. Ngay sau khi toàn bộ sự quản lý của Đức Chúa Trời dừng lại, thì sự thực hành của con người cũng chấm dứt; và không có công tác của Đức Chúa Trời, thì con người sẽ không có sự lựa chọn nào ngoài việc bám víu lấy các giáo lý của các thời đại đã qua, hoặc đơn giản là sẽ không biết làm gì. Không có các khải tượng mới, con người sẽ không có sự thực hành mới; không có các khải tượng trọn vẹn, con người sẽ không có sự thực hành hoàn hảo; không có các khải tượng cao cả hơn, thì con người sẽ không có sự thực hành cao hơn. Sự thực hành của con người thay đổi theo những bước chân của Đức Chúa Trời, và tương tự, kiến thức và kinh nghiệm của con người cũng thay đổi theo công tác của Đức Chúa Trời. Bất kể con người có khả năng như thế nào, họ vẫn không thể tách khỏi Đức Chúa Trời, và nếu Đức Chúa Trời ngưng làm việc trong giây lát, thì lập tức con người sẽ chết từ cơn thạnh nộ của Ngài. Con người không có gì để khoe khoang, bởi dù cho ngày nay kiến thức của con người có cao đến đâu, cho dù những kinh nghiệm của con người có sâu sắc đến đâu, thì họ vẫn không thể tách khỏi công tác của Đức Chúa Trời – vì sự thực hành của con người và những điều mà họ nên tìm kiếm trong niềm tin của họ nơi Đức Chúa Trời, thì không thể tách khỏi các khải tượng. Trong mọi trường hợp công tác của Đức Chúa Trời đều có các khải tượng mà con người nên biết, và theo sau đó, những yêu cầu phù hợp được đưa ra đối với con người. Không có những khải tượng này như là nền tảng, thì con người sẽ không chỉ không có khả năng thực hành, mà họ cũng không thể đi theo Đức Chúa Trời một cách vững vàng. Nếu con người không biết đến Đức Chúa Trời hoặc hiểu được ý của Ngài, thì mọi thứ con người làm đều vô nghĩa, và không có khả năng được Đức Chúa Trời chấp thuận. Cho dù con người có nhiều ân tứ đến mấy, thì họ vẫn không thể tách rời khỏi công tác của Đức Chúa Trời và sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời. Cho dù các hành động của con người có tốt lành và nhiều đến đâu, thì chúng vẫn không thể thay thế công tác của Đức Chúa Trời. Và vì vậy, dù trong tình cảnh nào thì sự thực hành của con người cũng không thể tách khỏi các khải tượng. Những ai không chấp nhận các khải tượng mới thì không có sự thực hành mới. Sự thực hành của họ không liên quan đến lẽ thật bởi vì họ hành động đúng theo giáo lý và bám víu vào luật lệ đã không còn khả dụng; họ không có khải tượng mới nào cả, và kết quả là, họ không đưa được điều gì thuộc thời đại mới vào thực hành. Họ đã đánh mất các khải tượng, và khi làm như vậy họ cũng mất đi công tác của Đức Thánh Linh, và đánh mất lẽ thật. Những kẻ không có lẽ thật là con cháu của sự phi lý, chúng là hiện thân của Sa-tan. Cho dù con người thuộc loại nào đi nữa, thì họ cũng không thể không có khải tượng về công tác của Đức Chúa Trời, và không thể để mất sự hiện diện của Đức Thánh Linh; ngay sau khi con người đánh mất các khải tượng, thì họ lập tức rơi xuống địa ngục và sống giữa sự tối tăm. Những người không có khải tượng là những người đi theo Đức Chúa Trời một cách ngu ngốc, họ là những người không có công tác của Đức Thánh Linh, và họ đang sống trong địa ngục. Những người như thế không theo đuổi lẽ thật, mà thay vào đó treo danh của Đức Chúa Trời lên như một bảng hiệu. Những ai không biết đến công tác của Đức Thánh Linh, những ai không biết đến Đức Chúa Trời nhập thể, những ai không biết đến ba giai đoạn công tác trong toàn thể sự quản lý của Đức Chúa Trời – thì họ không biết đến các khải tượng, và vì vậy không có lẽ thật. Và chẳng phải những kẻ không sở hữu lẽ thật đều là những kẻ làm ác đó sao? Những ai sẵn sàng đưa lẽ thật vào thực hành, sẵn sàng tìm kiếm một kiến thức về Đức Chúa Trời, và thực sự hợp tác với Đức Chúa Trời đều là những người mà đối với họ, khải tượng đóng vai trò như một nền tảng. Họ được Đức Chúa Trời chấp thuận bởi vì họ hợp tác với Đức Chúa Trời, và chính sự hợp tác này nên được con người đưa vào thực hành.
– Công tác của Đức Chúa Trời và sự thực hành của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 154
Trong các khải tượng có chứa đựng nhiều con đường dẫn đến thực hành. Những yêu cầu thực tế đối với con người cũng chứa đựng trong các khải tượng, cũng như công tác của Đức Chúa Trời mà con người nên biết. Trong quá khứ, trong suốt những buổi nhóm họp đặc biệt hay những buổi nhóm họp lớn được tổ chức ở nhiều nơi khác nhau, thì chỉ có một khía cạnh của con đường thực hành được nói đến. Sự thực hành như thế chính là điều đã được đưa vào thực hành trong suốt Thời đại Ân điển, và hầu như không có liên quan gì đến kiến thức về Đức Chúa Trời, bởi khải tượng của Thời đại Ân điển chỉ là khải tượng về sự đóng đinh của Jêsus, và không có khải tượng nào vĩ đại hơn. Con người được cho là không biết gì hơn công tác cứu chuộc nhân loại của Ngài qua việc chịu đóng đinh trên thập tự, và vì thế trong suốt Thời đại Ân điển đã không có những khải tượng khác cho con người biết đến. Bằng cách này, con người chỉ có được một kiến thức ít ỏi về Đức Chúa Trời, và ngoài kiến thức về tình yêu và sự thương xót của Jêsus, chỉ có vài điều đơn giản và đáng thương hại để họ đưa vào thực hành, những điều khác xa với ngày hôm nay. Trong quá khứ, dù nhóm họp lại theo hình thức nào, thì con người cũng không có khả năng nói về kiến thức thực tế trong công tác của Đức Chúa Trời, càng không có bất kỳ ai có thể nói rõ con đường thực hành nào phù hợp nhất cho con người để bước vào. Con người chỉ đơn thuần thêm một vài chi tiết đơn giản vào một nền tảng của sự nhịn nhục và khoan dung; đơn giản là đã không có sự thay đổi nào trong thực chất việc thực hành của họ, bởi trong cùng một thời đại thì Đức Chúa Trời đã không làm bất kỳ công tác nào mới hơn, và những yêu cầu duy nhất Ngài đặt ra cho con người là sự nhịn nhục và khoan dung, hoặc việc vác thập tự giá. Ngoài những thực hành như thế, không có khải tượng nào cao cả hơn việc chịu đóng đinh lên thập tự giá của Jêsus. Trong quá khứ, những khải tượng khác không được nhắc đến bởi vì Đức Chúa Trời đã không thực hiện nhiều công tác, và bởi vì Ngài chỉ đưa ra những yêu cầu hạn chế đối với con người. Theo cách này, bất kể con người đã làm những gì, họ cũng không có khả năng vi phạm những giới hạn này, những giới hạn chỉ là một vài điều đơn giản và nông cạn cho con người đưa vào thực hành. Hôm nay, Ta phán dạy về những khải tượng khác bởi vì hôm nay, nhiều công tác hơn đã được thực hiện, công tác nhiều gấp mấy lần so với Thời đại Luật pháp và Thời đại Ân điển. Những yêu cầu đối với con người cũng vậy, cao hơn gấp mấy lần so với những thời đại trước. Nếu con người không có khả năng biết đầy đủ những công tác như thế, thì sẽ không có ý nghĩa lớn lao nào; có thể nói rằng con người sẽ gặp khó khăn để hiểu được đầy đủ công tác đó nếu họ không dành nỗ lực trọn đời mình cho nó. Trong công tác chinh phục, chỉ phán dạy về con đường thực hành sẽ khiến việc chinh phục con người trở nên bất khả thi. Chỉ đơn thuần nói về các khải tượng, mà không có bất kỳ yêu cầu nào đối với con người, cũng sẽ làm cho việc chinh phục con người trở nên bất khả thi. Nếu không có điều gì được nói đến ngoài con đường thực hành, thì sẽ không thể đánh vào gót chân A-sin của con người, hoặc xua tan các quan niệm của con người, và vì vậy cũng sẽ không thể hoàn toàn chinh phục con người. Những khải tượng là công cụ chính của cuộc chinh phục con người, tuy nhiên ngoài những khải tượng ra nếu không có con đường thực hành, thì con người sẽ không có cách nào để đi theo, càng không có bất kỳ phương tiện nào để bước vào. Đây đã là nguyên tắc cho công tác của Đức Chúa Trời từ đầu đến cuối: Trong các khải tượng có những điều có thể đưa vào thực hành, và vì vậy cũng có những khải tượng bên cạnh sự thực hành. Mức độ thay đổi trong cả cuộc sống của con người lẫn tâm tính của họ đồng hành cùng với những thay đổi trong khải tượng. Nếu con người chỉ dựa vào những nỗ lực của chính mình, thì họ không thể đạt được bất kỳ mức độ thay đổi lớn lao nào. Các khải tượng nói về công tác của chính Đức Chúa Trời và sự quản lý của Đức Chúa Trời. Sự thực hành đề cập đến con đường thực hành của con người, và đến cách tồn tại của con người; trong tất cả sự quản lý của Đức Chúa Trời, mối liên hệ giữa các khải tượng và sự thực hành là mối quan hệ giữa Đức Chúa Trời và con người. Nếu các khải tượng bị loại bỏ, hoặc nếu chúng được nói đến mà không đề cập gì đến thực hành, hoặc nếu chỉ có các khải tượng và loại bỏ sự thực hành của con người, thì những điều như thế không thể được xem là sự quản lý của Đức Chúa Trời, càng không thể nói rằng công tác của Đức Chúa Trời là vì lợi ích của nhân loại; theo cách này, không những bổn phận của con người sẽ bị loại bỏ, mà đó sẽ là sự phủ nhận mục đích công tác của Đức Chúa Trời. Nếu, từ đầu đến cuối, chỉ yêu cầu con người thực hành, mà không có sự tham gia từ công tác của Đức Chúa Trời, và hơn thế nữa, nếu không yêu cầu con người biết đến công tác của Đức Chúa Trời, thì công tác như thế càng không thể được gọi là sự quản lý của Đức Chúa Trời. Nếu con người không biết đến Đức Chúa Trời, không biết gì về ý muốn của Đức Chúa Trời, và mù quáng tiến hành thực hành một cách mơ hồ và trừu tượng, thì họ sẽ không bao giờ trở thành một tạo vật có đủ tư cách. Và vì vậy, cả hai điều này đều không thể thiếu được. Nếu chỉ có công tác của Đức Chúa Trời, nghĩa là, nếu chỉ có các khải tượng và không có sự hợp tác hay thực hành bởi con người, thì những việc như thế không thể được gọi là sự quản lý của Đức Chúa Trời. Nếu chỉ có sự thực hành và sự bước vào của con người, thì bất kể con đường mà con người đang bước vào có cao đến đâu, việc này cũng sẽ không thể chấp nhận được. Sự bước vào của con người phải dần dần thay đổi đồng điệu với công tác và các khải tượng; nó không thể thay đổi bất chợt. Các nguyên tắc trong việc thực hành của con người không phải tự do và thiếu kiểm soát, mà là được đặt trong những giới hạn nhất định. Các nguyên tắc như thế thay đổi đồng điệu với các khải tượng về công tác. Vì vậy sự quản lý của Đức Chúa Trời chung quy vẫn là công tác của Đức Chúa Trời và sự thực hành của con người.
– Công tác của Đức Chúa Trời và sự thực hành của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 155
Công tác quản lý chỉ xảy ra vì nhân loại, nghĩa là nó chỉ phát sinh vì sự tồn tại của nhân loại. Không có sự quản lý trước khi có nhân loại, hoặc trong thuở sơ khai, khi trời đất và mọi vật được dựng nên. Nếu, trong toàn bộ công tác của Đức Chúa Trời, không có sự thực hành nào có lợi cho con người, có nghĩa là, nếu Đức Chúa Trời không đưa ra những yêu cầu phù hợp đối với nhân loại bại hoại (nếu trong công tác do Đức Chúa Trời thực hiện, không có con đường nào phù hợp với sự thực hành của con người), thì công tác này không thể được gọi là sự quản lý của Đức Chúa Trời. Nếu toàn bộ công tác của Đức Chúa Trời chỉ bao gồm việc phán dạy nhân loại bại hoại cách bắt đầu việc thực hành của họ, và Đức Chúa Trời không thực hiện bất kỳ công việc nào của riêng Ngài, và không bày tỏ chút gì về sự toàn năng hoặc sự khôn ngoan của Ngài, thì cho dù những yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người có cao đến đâu, cho dù Đức Chúa Trời đã sống giữa con người được bao lâu, con người cũng sẽ không biết gì về tâm tính của Đức Chúa Trời; nếu đúng như vậy, thì công tác thuộc loại này lại càng không xứng đáng được gọi là sự quản lý của Đức Chúa Trời. Nói một cách đơn giản, công tác quản lý của Đức Chúa Trời là công tác do Đức Chúa Trời thực hiện, và dưới sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời, tất cả công tác đều được thực hiện bởi những người đã được Đức Chúa Trời thu nhận. Công tác như thế có thể tóm gọn lại là sự quản lý. Nói cách khác, công tác của Đức Chúa Trời giữa con người, cũng như sự hợp tác với Ngài của tất cả những ai theo Ngài được gọi chung là sự quản lý. Ở đây, công tác của Đức Chúa Trời được gọi là các khải tượng, và sự hợp tác của con người được gọi là sự thực hành. Công tác của Đức Chúa Trời càng cao cả (nghĩa là, các khải tượng càng cao cả), thì tâm tính của Đức Chúa Trời càng được hiển lộ đối với con người, và nó càng không khớp với những quan niệm của con người, và sự thực hành, hợp tác của con người càng cao. Các yêu cầu đối với con người càng cao, thì công tác của Đức Chúa Trời càng không khớp với những quan niệm của con người, do đó những sự thử luyện đối với con người, và những tiêu chuẩn mà con người buộc phải đạt được, cũng trở nên cao hơn. Khi công tác này kết thúc, tất cả những khải tượng sẽ đều được trở nên trọn vẹn, và những điều mà con người được yêu cầu đưa vào thực hành sẽ đạt đến đỉnh cao của sự hoàn hảo. Đây cũng sẽ là thời điểm khi từng người được phân chia theo loại, bởi những điều con người cần phải biết sẽ được tỏ ra cho con người. Vì vậy, khi các khải tượng đạt đến đỉnh điểm, công tác sẽ theo đó đi đến hồi kết, và sự thực hành của con người cũng sẽ đạt đến tột đỉnh. Sự thực hành của con người được dựa trên công tác của Đức Chúa Trời, và sự quản lý của Đức Chúa Trời chỉ được thể hiện đầy đủ nhờ vào sự thực hành và hợp tác của con người. Con người là vật mẫu trong công tác của Đức Chúa Trời, và là đối tượng công tác trong tất cả sự quản lý của Đức Chúa Trời, và cũng là sản phẩm của toàn bộ sự quản lý của Đức Chúa Trời. Nếu Đức Chúa Trời làm việc một mình, không có sự hợp tác của con người, thì sẽ không có gì có thể đóng vai trò là sự kết tinh toàn bộ công tác của Ngài, và khi đó sự quản lý của Đức Chúa Trời sẽ không có chút ý nghĩa nào. Ngoài công tác của Đức Chúa Trời, chỉ bằng cách chọn những đối tượng phù hợp để thể hiện công tác của Ngài, và chứng minh sự toàn năng và sự khôn ngoan của nó, thì Đức Chúa Trời mới có thể đạt được mục đích quản lý của Ngài, và đạt được mục đích của việc sử dụng toàn bộ công tác này để hoàn toàn đánh bại Sa-tan. Và vì thế, con người là một phần không thể thiếu trong công tác quản lý của Đức Chúa Trời, và con người là loài duy nhất có thể khiến công tác của Đức Chúa Trời đạt kết quả và đạt được mục đích cuối cùng của nó; ngoài con người, không dạng sống nào khác có thể đảm nhận một vai trò như thế. Nếu con người trở thành sự kết tinh thực sự của công tác quản lý, thì sự bất tuân của nhân loại bại hoại phải hoàn toàn được dẹp bỏ. Điều này đòi hỏi con người phải được ban cho sự thực hành phù hợp với những thời đại khác nhau, và Đức Chúa Trời thực hiện công tác tương ứng giữa con người. Chỉ bằng cách này thì cuối cùng mới có được một nhóm người là sự kết tinh công tác quản lý của Đức Chúa Trời. Công tác của Đức Chúa Trời giữa con người không thể làm chứng về chính Đức Chúa Trời chỉ đơn thuần thông qua công tác của một mình Đức Chúa Trời; để đạt được, lời chứng như thế cũng đòi hỏi có những nhân chứng sống phù hợp với công tác của Ngài. Đức Chúa Trời trước tiên sẽ làm việc trên những người này, mà qua họ công tác của Ngài rồi sẽ được bày tỏ, và vì vậy lời chứng như thế về ý muốn của Ngài sẽ được đưa ra giữa những tạo vật, và trong việc này, Đức Chúa Trời sẽ đạt được mục đích công tác của Ngài. Đức Chúa Trời không làm việc một mình để đánh bại Sa-tan bởi vì Ngài không thể làm chứng trực tiếp về chính Ngài giữa mọi tạo vật. Nếu Ngài làm như thế, thì không thể hoàn toàn thuyết phục con người, vì thế Đức Chúa Trời phải làm việc trên con người để chinh phục họ, và chỉ khi đó Ngài mới có thể có được lời chứng giữa mọi tạo vật. Nếu chỉ có Đức Chúa Trời làm việc, mà không có sự hợp tác của con người, hoặc con người không được yêu cầu hợp tác, thì con người sẽ không bao giờ có thể biết đến tâm tính của Đức Chúa Trời, và sẽ mãi mãi không biết được ý muốn của Đức Chúa Trời; công tác của Đức Chúa Trời khi đó không thể được gọi là công tác quản lý của Đức Chúa Trời. Nếu chỉ có con người tự phấn đấu, mưu cầu, và làm việc chăm chỉ, mà không hiểu được công tác của Đức Chúa Trời, thì con người đang chơi trò đùa bỡn. Không có công tác của Đức Thánh Linh thì những gì con người làm là của Sa-tan, con người dấy loạn và là kẻ làm ác; Sa-tan hiển hiện trong tất cả những gì nhân loại bại hoại làm, không có điều gì dung hợp được với Đức Chúa Trời, và hết thảy con người đều là hiện thân của Sa-tan. Không có điều nào trong tất cả những điều đã được nói đến lại không gồm những khải tượng và sự thực hành. Dựa trên nền tảng của những khải tượng, con người tìm thấy sự thực hành và con đường của sự vâng lời, hầu cho họ có thể gạt những quan niệm của mình sang một bên và đạt được những điều họ chưa từng sở hữu trong quá khứ. Đức Chúa Trời yêu cầu con người hợp tác với Ngài, con người hoàn toàn phục tùng những yêu cầu của Ngài, còn con người thỉnh cầu được trông thấy công tác do chính Ngài thực hiện, để trải nghiệm quyền năng toàn năng của Đức Chúa Trời, và để biết được tâm tính của Đức Chúa Trời. Tóm lại, những điều này là sự quản lý của Đức Chúa Trời. Sự hợp nhất của Đức Chúa Trời với con người là sự quản lý, và chính là sự quản lý vĩ đại nhất.
– Công tác của Đức Chúa Trời và sự thực hành của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 156
Những gì liên quan đến các khải tượng chủ yếu đề cập đến công tác của chính Đức Chúa Trời, và những gì liên quan đến sự thực hành phải được thực hiện bởi con người, và không can hệ gì đến Đức Chúa Trời. Chính Đức Chúa Trời hoàn thành công tác của Ngài, và chính con người đạt được sự thực hành của họ. Con người không cần làm những gì Đức Chúa Trời sẽ làm, và những gì con người nên thực hành thì không liên quan đến Đức Chúa Trời. Công tác của Đức Chúa Trời chính là chức vụ của riêng Ngài, và không liên quan gì đến con người. Công tác này con người không cần thực hiện, và hơn thế nữa, con người cũng sẽ không có khả năng thực hiện công tác mà Đức Chúa Trời thực hiện. Những gì cần con người thực hành thì con người phải hoàn thành, cho dù đó là hy sinh mạng sống của mình, hay bị giao cho Sa-tan để đứng ra làm chứng – con người đều phải hoàn thành tất cả những việc này. Chính Đức Chúa Trời làm trọn tất cả các công tác Ngài nên làm, và con người được chỉ cho biết những gì họ nên làm, và phần việc phải làm còn lại được giao cho con người. Đức Chúa Trời không làm thêm công tác nào. Ngài chỉ làm những công tác trong chức vụ của Ngài, chỉ hướng dẫn đường lối cho con người, và chỉ làm công tác mở đường, chứ không làm công tác dọn đường; tất cả phải hiểu được điều này. Đưa lẽ thật vào thực hành có nghĩa là đưa những lời của Đức Chúa Trời vào thực hành, và tất cả việc này là bổn phận của con người, là việc con người nên làm, và không liên quan gì đến Đức Chúa Trời. Nếu con người đòi hỏi rằng Đức Chúa Trời cũng phải chịu đau khổ và chịu tinh luyện trong lẽ thật, giống như con người, thì con người đang bất tuân. Công tác của Đức Chúa Trời là thi hành chức vụ của Ngài, và bổn phận của con người là vâng theo tất cả những sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời không chút chống đối. Những gì con người phải đạt được thì con người có nhiệm vụ phải hoàn thành, bất kể cách thức Đức Chúa Trời làm việc hoặc sống thế nào. Chỉ chính Đức Chúa Trời mới có thể đưa ra yêu cầu đối với con người, có nghĩa là, chỉ chính Đức Chúa Trời mới thích hợp để đưa ra yêu cầu đối với con người. Con người không được có bất kỳ sự lựa chọn nào, không được làm gì ngoài việc hoàn toàn tuân phục và thực hành; con người nên có được ý thức này. Một khi công tác cần chính Đức Chúa Trời thực hiện đã hoàn tất, thì con người cần phải trải nghiệm nó, từng bước một. Nếu, sau cùng, khi tất cả sự quản lý của Đức Chúa Trời đã được hoàn tất, mà con người vẫn chưa làm những gì Đức Chúa Trời yêu cầu, thì con người phải bị trừng phạt. Nếu con người không thực hiện những yêu cầu của Đức Chúa Trời, thì điều này là do sự bất tuân của con người; nó không có nghĩa là Đức Chúa Trời chưa thấu đáo trong công tác của Ngài. Những ai không thể đưa những lời của Đức Chúa Trời vào thực hành, những ai không thể thực hiện các yêu cầu của Đức Chúa Trời, và những ai không thể tỏ lòng trung thành và hoàn thành bổn phận của mình, tất cả đều sẽ bị trừng phạt. Hôm nay, điều các ngươi cần phải đạt được không phải là những yêu cầu bổ sung, mà là bổn phận của con người, và là việc tất cả mọi người phải làm. Nếu các ngươi ngay cả bổn phận mình cũng không thể làm được, hoặc làm cho tốt, thì chẳng phải các ngươi đang tự rước họa vào thân sao? Chẳng phải các ngươi đang chuốc lấy cái chết sao? Làm sao các ngươi vẫn mong có tương lai và triển vọng được? Công tác của Đức Chúa Trời là vì nhân loại, và sự hợp tác của con người là vì sự quản lý của Đức Chúa Trời. Sau khi Đức Chúa Trời đã làm những việc Ngài cần làm, thì con người được yêu cầu không tiếc công thực hành, và phải hợp tác với Đức Chúa Trời. Trong công tác của Đức Chúa Trời, con người không nên tiếc công sức, nên thể hiện lòng trung thành của mình, và không nên đắm chìm trong vô số quan niệm, hoặc ngồi thụ động và chờ đợi cái chết. Đức Chúa Trời có thể hy sinh bản thân Ngài cho nhân loại, vậy thì tại sao con người không thể thể hiện lòng trung thành của mình với Đức Chúa Trời? Đức Chúa Trời một lòng một dạ với con người, vậy thì tại sao con người không thể thể hiện một chút hợp tác? Đức Chúa Trời làm việc vì nhân loại, vậy thì tại sao con người không thể thực hiện một vài bổn phận của mình vì sự quản lý của Đức Chúa Trời? Công việc của Đức Chúa Trời đã đi xa đến mức này, vậy mà các ngươi vẫn chỉ nhìn mà không hành động, các ngươi nghe nhưng không lay động. Chẳng phải những người như thế là những đối tượng của sự diệt vong sao? Đức Chúa Trời đã dành hết mọi thứ của Ngài cho con người, vậy thì tại sao, hôm nay, con người không có khả năng thực hiện bổn phận mình một cách sốt sắng? Với Đức Chúa Trời, công tác của Ngài là ưu tiên số một, và công tác quản lý của Ngài là quan trọng tột bậc. Với con người, đưa những lời của Đức Chúa Trời vào thực hành và thực hiện những yêu cầu của Đức Chúa Trời là ưu tiên hàng đầu của họ. Tất cả các ngươi nên hiểu được điều này. Những lời được phán dạy cho các ngươi đã chạm đến cốt lõi bản chất của các ngươi, và công tác của Đức Chúa Trời đã bước vào địa hạt chưa từng có. Nhiều người vẫn chưa hiểu được lẽ thật giả của con đường này; họ vẫn đang chờ đợi, theo dõi, và không thực hiện bổn phận của mình. Thay vào đó, họ soi xét mọi lời nói và hành động của Đức Chúa Trời, họ tập trung vào việc Ngài ăn gì, mặc gì, và các quan niệm của họ trở nên tai hại hơn bao giờ hết. Chẳng phải những kẻ như thế đang nhặng xị vì những chuyện không đâu đó sao? Làm sao những kẻ như thế có thể là những người tìm kiếm Đức Chúa Trời? Và làm sao chúng có thể là những người có ý định tuân phục Đức Chúa Trời? Chúng không quan tâm đến lòng trung thành và bổn phận của mình, mà thay vào đó lại tập trung vào nơi ở của Đức Chúa Trời. Chúng là một sự sỉ nhục! Nếu con người đã hiểu hết những điều họ cần phải hiểu, và đã đưa vào thực hành tất cả những gì họ cần phải thực hành, thì chắc chắn Đức Chúa Trời sẽ ban các phước lành cho con người, bởi điều mà Ngài yêu cầu nơi con người là bổn phận của con người và những gì con người phải làm. Nếu con người không có khả năng hiểu được những gì họ cần phải hiểu, và không có khả năng đưa vào thực hành những gì họ phải thực hành, thì con người sẽ bị trừng phạt. Những ai không hợp tác với Đức Chúa Trời là thù địch với Đức Chúa Trời, những ai không chấp nhận công tác mới là chống đối nó, cho dù những người đó không làm gì chống đối nó một cách rõ rệt. Tất cả những ai không thực hành lẽ thật mà Đức Chúa Trời yêu cầu đều là những người cố tình chống đối và bất tuân đối với những lời của Đức Chúa Trời, ngay cả khi những người đó có chú ý đặc biệt đến công tác của Đức Thánh Linh. Những kẻ không vâng theo những lời của Đức Chúa Trời và quy phục Đức Chúa Trời là những kẻ dấy loạn, và chúng chống đối Đức Chúa Trời. Những kẻ không thực hiện bổn phận của mình là những kẻ không hợp tác với Đức Chúa Trời, và những ai không hợp tác với Đức Chúa Trời là những người không chấp nhận công tác của Đức Thánh Linh.
– Công tác của Đức Chúa Trời và sự thực hành của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 157
Khi công tác của Đức Chúa Trời đạt đến một điểm nhất định, và sự quản lý của Ngài đạt đến một điểm nhất định, thì những ai hợp lòng Đức Chúa Trời đều có thể đáp ứng những yêu cầu của Ngài. Đức Chúa Trời đưa ra yêu cầu đối với con người theo những tiêu chuẩn của riêng Ngài, và theo những gì con người có thể đạt được. Trong khi nói về sự quản lý của Ngài, Ngài cũng chỉ đường cho con người, và cung cấp cho con người một con đường sống. Cả sự quản lý của Đức Chúa Trời lẫn sự thực hành của con người đều ở trong cùng một giai đoạn công tác, và được thực hiện đồng thời với nhau. Nói về sự quản lý của Đức Chúa Trời là chạm đến sự thay đổi trong tâm tính con người, và nói về những điều con người nên làm, và những thay đổi trong tâm tính con người, là chạm đến công tác của Đức Chúa Trời; không khi nào mà hai điều này có thể tách rời nhau. Việc thực hành của con người đang thay đổi, từng bước một. Đó là bởi vì những yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người cũng đang thay đổi, và bởi vì công tác của Đức Chúa Trời luôn luôn thay đổi và tiến lên. Nếu việc thực hành của con người vẫn còn vướng trong giáo lý, thì điều này chứng tỏ họ bị mất hết công tác và sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời; nếu sự thực hành của con người không bao giờ thay đổi hoặc đào sâu hơn, thì điều này chứng tỏ việc thực hành của con người được tiến hành theo ý muốn của con người, và không phải là sự thực hành lẽ thật; nếu con người không có con đường nào để bước đi, thì họ đã rơi vào tay của Sa-tan, và bị Sa-tan điều khiển, nghĩa là họ đã bị ác linh điều khiển. Nếu việc thực hành của con người không đào sâu hơn, thì công tác của Đức Chúa Trời sẽ không phát triển, và nếu không có sự thay đổi nào trong công tác của Đức Chúa Trời, thì sự bước vào của con người sẽ dừng lại; điều này là không thể tránh khỏi. Trong suốt toàn bộ công tác của Đức Chúa Trời, nếu con người luôn luôn tuân theo luật pháp của Đức Giê-hô-va, thì công tác của Đức Chúa Trời sẽ không thể tiến triển được, càng không thể kết thúc toàn bộ thời đại. Nếu con người luôn luôn vác thập tự giá và thực hành sự nhịn nhục và khiêm nhường, thì công tác của Đức Chúa Trời sẽ không thể tiếp tục tiến triển. Sáu ngàn năm quản lý không thể đơn giản được kết thúc giữa những con người chỉ tuân theo luật pháp, hoặc chỉ vác thập tự giá và thực hành sự nhịn nhục, khiêm nhường. Thay vào đó, toàn bộ công tác quản lý của Đức Chúa Trời được chấm dứt giữa những con người của những ngày sau rốt, những người biết đến Đức Chúa Trời, đã được giành lại từ nanh vuốt của Sa-tan, và đã hoàn toàn tự thoát khỏi ảnh hưởng của Sa-tan. Đây là hướng đi chắc chắn xảy ra trong công tác của Đức Chúa Trời. Tại sao nói rằng việc thực hành của những người trong các hội thánh tôn giáo đã lỗi thời? Đó là bởi vì những gì họ đưa vào thực hành thì tách biệt khỏi công tác của ngày hôm nay. Trong Thời đại Ân điển, những gì họ đã đưa vào thực hành là đúng, nhưng vì thời đại đó đã trôi qua và công tác của Đức Chúa Trời đã thay đổi, nên sự thực hành của họ dần dần trở nên lỗi thời. Nó đã bị công tác mới và sự sáng mới bỏ lại phía sau. Dựa trên nền tảng ban đầu của nó, công tác của Đức Thánh Linh đã tiến triển sâu hơn vài bước. Tuy nhiên những người này vẫn mắc kẹt tại giai đoạn ban đầu trong công tác của Đức Chúa Trời, và vẫn bám vào những sự thực hành cũ và sự sáng cũ. Công tác của Đức Chúa Trời có thể thay đổi lớn trong ba hoặc năm năm, vậy chẳng phải những sự biến đổi thậm chí còn lớn hơn sẽ xảy ra trong quá trình 2.000 năm sao? Nếu con người không có sự sáng hoặc sự thực hành mới, điều đó có nghĩa là họ đã không theo kịp công tác của Đức Thánh Linh. Đây là sự thất bại của con người; không thể phủ nhận sự tồn tại của công tác mới của Đức Chúa Trời bởi vì, ngày nay, những người trước đây đã có công tác của Đức Thánh Linh vẫn còn tuân thủ những sự thực hành lỗi thời. Công tác của Đức Thánh Linh luôn luôn tiến về phía trước, và tất cả những ai trong dòng chảy của Đức Thánh Linh cũng nên tiến triển sâu hơn và thay đổi từng bước một. Họ không nên dừng ở một giai đoạn riêng rẽ nào. Chỉ những ai không biết về công tác của Đức Thánh Linh mới duy trì giữa công tác ban đầu của Ngài, và không chấp nhận công tác mới của Đức Thánh Linh. Chỉ những ai không vâng lời mới không có khả năng có được công tác của Đức Thánh Linh. Nếu sự thực hành của con người không theo kịp công tác mới của Đức Thánh Linh, thì sự thực hành của con người chắc chắn bị tách khỏi công tác của ngày hôm nay, và chắc chắn không phù hợp với công tác của ngày hôm nay. Những người lỗi thời như những người này đơn giản là không có khả năng hoàn thành ý muốn của Đức Chúa Trời, họ càng không thể trở thành những người cuối cùng sẽ đứng ra làm chứng về Đức Chúa Trời. Hơn thế nữa, toàn bộ công tác quản lý không thể được kết thúc giữa một nhóm người như thế. Với những người đã từng giữ lấy luật pháp của Đức Giê-hô-va và những người đã từng chịu đau khổ vì thập tự giá, nếu họ không thể chấp nhận giai đoạn công tác của những ngày sau rốt, thì tất cả những gì họ đã làm sẽ là vô ích và vô dụng. Sự bày tỏ rõ ràng nhất về công tác của Đức Thánh Linh là nắm lấy thời gian ngay trước mắt, không bám vào quá khứ. Những ai đã không theo kịp công tác của ngày hôm nay, và những người đã tách ra khỏi sự thực hành của ngày hôm nay, là những người chống đối và không chấp nhận công tác của Đức Thánh Linh. Những người như thế xem thường công tác hiện tại của Đức Chúa Trời. Mặc dù họ nắm giữ ánh sáng của quá khứ, nhưng cũng không thể phủ nhận rằng họ không biết công tác của Đức Thánh Linh. Tại sao tất cả điều này nói về những thay đổi trong sự thực hành của con người, về những khác biệt trong việc thực hành giữa quá khứ và ngày nay, về việc thực hành đã được thực hiện như thế nào trong suốt giai đoạn trước, và ngày nay nó được thực hiện như thế nào? Những sự phân chia như thế trong thực hành của con người luôn luôn được nói đến bởi vì công tác của Đức Thánh Linh liên tục tiến về phía trước, và vì thế sự thực hành của con người cần phải liên tục thay đổi. Nếu con người vẫn bị kẹt lại trong một giai đoạn, thì điều này chứng tỏ họ không có khả năng theo kịp công tác mới và sự sáng mới của Đức Chúa Trời; nó không chứng tỏ kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời đã không thay đổi. Những ai ở ngoài dòng chảy của Đức Thánh Linh luôn luôn nghĩ rằng họ đúng, nhưng thực tế, công tác của Đức Chúa Trời trong họ đã dừng từ lâu, và công tác của Đức Thánh Linh không có trong họ. Công tác của Đức Chúa Trời từ lâu đã được chuyển đến một nhóm người khác, một nhóm người mà Ngài dự định hoàn thành công tác mới của Ngài trên họ. Bởi vì những người có đạo không thể chấp nhận công tác mới của Ngài, và chỉ bám vào công tác cũ của quá khứ, vì thế Đức Chúa Trời đã từ bỏ những người này, và thực hiện công tác mới của Ngài trên những người chấp nhận công tác mới này. Đây là những người hợp tác trong công tác mới của Ngài, và chỉ bằng cách này thì sự quản lý của Ngài mới hoàn tất. Sự quản lý của Đức Chúa Trời luôn luôn tiến về phía trước, và sự thực hành của con người luôn luôn tăng tiến cao hơn. Đức Chúa Trời luôn luôn làm việc, và con người luôn luôn thiếu thốn, để cả hai đều đạt đến đỉnh cao, cũng như để Đức Chúa Trời và con người hoàn toàn hợp nhất với nhau. Đây là biểu hiện về sự hoàn tất công tác của Đức Chúa Trời, và là kết quả cuối cùng của toàn bộ sự quản lý của Đức Chúa Trời.
– Công tác của Đức Chúa Trời và sự thực hành của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 158
Trong từng giai đoạn công tác của Đức Chúa Trời cũng có những yêu cầu tương ứng đối với con người. Những ai ở trong dòng chảy của Đức Thánh Linh được sở hữu sự hiện diện và sự sửa dạy của Đức Thánh Linh, còn những ai không ở trong dòng chảy của Đức Thánh Linh thì chịu sự điều khiển của Sa-tan, và không có bất kỳ công tác nào của Đức Thánh Linh. Những người ở trong dòng chảy của Đức Thánh Linh là những người chấp nhận công tác mới của Đức Chúa Trời, là những người hợp tác trong công tác mới của Đức Chúa Trời. Nếu những ai ở trong dòng chảy này không có khả năng hợp tác, và không thể đưa lẽ thật vào thực hành theo yêu cầu của Đức Chúa Trời trong suốt thời gian này, thì họ sẽ bị sửa dạy, và trong trường hợp xấu nhất sẽ bị Đức Thánh Linh từ bỏ. Những ai chấp nhận công tác mới của Đức Thánh Linh, sẽ sống trong dòng chảy của Đức Thánh Linh, nhận được sự chăm sóc và bảo vệ của Đức Thánh Linh. Những ai sẵn sàng đưa lẽ thật vào thực hành thì được Đức Thánh Linh khai sáng, và những ai không sẵn sàng đưa lẽ thật vào thực hành thì bị Đức Thánh Linh sửa dạy, và thậm chí có thể bị trừng phạt. Bất kể là loại người nào, miễn là họ ở trong dòng chảy của Đức Thánh Linh, Đức Chúa Trời sẽ chịu trách nhiệm với tất cả những ai chấp nhận công tác mới của Ngài vì danh Ngài. Những ai làm sáng danh Ngài và sẵn sàng đưa lời Ngài vào thực hành sẽ nhận được các phước lành của Ngài; những kẻ không vâng lời Ngài và không đưa lời Ngài vào thực hành sẽ nhận được hình phạt của Ngài. Những người ở trong dòng chảy của Đức Thánh Linh là những người chấp nhận công tác mới, và vì họ đã chấp nhận công tác mới, họ nên có một sự hợp tác phù hợp với Đức Chúa Trời, và không nên hành động như những kẻ phản nghịch không thực hiện bổn phận của mình. Đây là yêu cầu duy nhất của Đức Chúa Trời đối với con người. Với những người không chấp nhận công tác mới thì không như thế: Họ ở ngoài dòng chảy của Đức Thánh Linh, và sự sửa dạy, quở trách của Đức Thánh Linh không áp dụng cho họ. Cả ngày, những kẻ đó sống trong xác thịt, họ không sống trong tâm trí mình, và tất cả những gì họ làm là theo giáo lý sản sinh từ sự phân tích và nghiên cứu của trí não bản thân. Đây không phải là những gì được yêu cầu trong công tác mới của Đức Thánh Linh, càng không phải là sự hợp tác với Đức Chúa Trời. Những ai không chấp nhận công tác mới của Đức Chúa Trời thì mất đi sự hiện diện của Đức Chúa Trời, và hơn thế nữa, không có các phước lành và sự bảo vệ của Đức Chúa Trời. Hầu hết những lời nói và hành động của họ đều bám vào các yêu cầu trong công tác của Đức Thánh Linh trong quá khứ; chúng là các giáo lý, không phải lẽ thật. Các giáo lý và luật lệ như thế đủ để chứng minh rằng việc họ nhóm họp lại với nhau không là gì ngoài tôn giáo; họ không phải là những người được chọn, hoặc những đối tượng cho công tác của Đức Chúa Trời. Sự tập hợp lại của tất cả mọi người trong số họ chỉ có thể được gọi là một đại hội tôn giáo, và không thể được gọi là một hội thánh. Đây là một sự thật không thể thay đổi. Họ không có công tác mới của Đức Thánh Linh; những gì họ làm có vẻ sặc mùi tôn giáo, những gì họ sống bày tỏ ra có vẻ đầy dẫy tôn giáo; họ không sở hữu sự hiện diện và công tác của Đức Thánh Linh, càng không đủ tư cách để nhận được sự sửa dạy hoặc sự khai sáng của Đức Thánh Linh. Những người này đều là những cái xác không có sự sống, và những con giòi không có linh hồn. Chúng không biết gì về sự dấy nghịch và chống đối của con người, không biết gì về tất cả những việc làm gian ác của con người, càng không biết hết về công tác của Đức Chúa Trời và ý muốn hiện tại của Đức Chúa Trời. Tất cả bọn chúng đều là những kẻ ngu dốt, hèn hạ, chúng là những kẻ cặn bã không đáng được gọi là những tín đồ! Không có việc gì chúng làm lại có bất kỳ liên quan gì đến sự quản lý của Đức Chúa Trời, càng không thể phá hỏng các kế hoạch của Đức Chúa Trời. Những lời nói và hành động của chúng quá ghê tởm, đáng khinh, và đơn giản là không đáng để nhắc đến. Không việc gì được làm bởi những con người không ở trong dòng chảy của Đức Thánh Linh lại có liên quan đến công tác mới của Đức Thánh Linh. Bởi vì điều này, bất kể chúng làm gì, chúng cũng không có sự sửa dạy của Đức Thánh Linh, và hơn thế nữa, không có sự khai sáng của Đức Thánh Linh. Bởi tất cả chúng là những kẻ không có tình yêu dành cho lẽ thật, và đã bị Đức Thánh Linh ghê tởm và chối bỏ. Chúng được gọi là những kẻ gian ác bởi vì chúng bước đi trong xác thịt, và làm bất cứ điều gì làm chúng vui lòng dưới danh nghĩa của Đức Chúa Trời. Trong khi Đức Chúa Trời làm việc, chúng cố tình chống đối Ngài, và đối lập với Ngài. Việc con người không hợp tác với Đức Chúa Trời tự nó đã là cực kỳ nổi loạn, vậy thì chẳng phải những kẻ cố tình đối lập với Đức Chúa Trời sẽ đặc biệt nhận lãnh sự báo trả đích đáng sao?
– Công tác của Đức Chúa Trời và sự thực hành của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 159
Các ngươi phải biết những khải tượng trong công tác của Đức Chúa Trời và nắm bắt phương hướng chung trong công tác của Ngài. Đây là sự bước vào tích cực. Một khi ngươi đã nắm vững chính xác lẽ thật của những khải tượng, thì sự bước vào của ngươi sẽ được đảm bảo; dù công tác của Đức Chúa Trời có thay đổi như thế nào, thì ngươi sẽ vẫn vững vàng trong lòng mình, rõ ràng về các khải tượng, và có một mục tiêu cho sự bước vào và sự theo đuổi của ngươi. Theo cách này, tất cả kinh nghiệm và kiến thức trong ngươi sẽ phát triển sâu hơn và trở nên cặn kẽ hơn. Một khi đã nắm bắt được toàn bộ bức tranh lớn hơn, ngươi sẽ không phải chịu những tổn thất trong sự sống, và ngươi cũng sẽ không bị lạc lối. Nếu ngươi không biết đến các bước công tác này, ngươi sẽ chịu tổn thất trong từng bước, và ngươi sẽ mất nhiều hơn một vài ngày để xoay chuyển tình thế, cũng như ngươi sẽ không thể đi đúng hướng thậm chí là trong một vài tuần. Chẳng phải điều này sẽ gây nên những trì trệ sao? Có nhiều điều trong cách bước vào và sự thực hành tích cực mà các ngươi phải thông thạo. Đối với những khải tượng trong công tác của Đức Chúa Trời, ngươi phải nắm vững những điểm sau: ý nghĩa công tác chinh phục của Ngài, con đường tương lai để được trở nên hoàn thiện, điều gì phải đạt được qua việc trải nghiệm những thử luyện và khổ nạn, ý nghĩa của sự phán xét và hình phạt, các nguyên tắc làm việc của Đức Thánh Linh, và các nguyên tắc của sự hoàn thiện và chinh phục. Tất cả những điều này thuộc về lẽ thật của những khải tượng. Phần còn lại là ba giai đoạn công tác trong Thời đại Luật pháp, Thời đại Ân điển, và Thời đại Vương quốc, cũng như lời chứng tương lai. Đây cũng là lẽ thật về những khải tượng, và chúng là những điều cơ bản nhất cũng như quan trọng nhất. Hiện tại, có rất nhiều thứ mà các ngươi nên bước vào và thực hành, và bây giờ chúng có nhiều tầng bậc hơn và chi tiết hơn. Nếu ngươi không có kiến thức về những lẽ thật này, thì điều này chứng tỏ ngươi vẫn chưa có được lối vào. Đa phần, kiến thức của con người về lẽ thật còn quá nông cạn; họ không thể đưa vào thực hành những lẽ thật cơ bản nhất định và ngay cả những vấn đề nhỏ nhặt cũng không biết cách xử lý. Lý do con người không thể thực hành lẽ thật là vì tâm tính của họ phản nghịch, và vì kiến thức của họ về công tác của hôm nay quá hời hợt và phiến diện. Vì vậy, để con người được trở nên hoàn thiện là một nhiệm vụ không hề dễ dàng. Ngươi quá phản nghịch, và ngươi giữ lại quá nhiều bản ngã cũ của mình; ngươi không thể đứng về phía lẽ thật, và không thể thực hành ngay cả những lẽ thật hiển nhiên nhất. Những người như thế không thể được cứu rỗi và là những người chưa được chinh phục. Nếu sự bước vào của ngươi không có chi tiết cũng như không có các mục tiêu, thì sự trưởng thành sẽ chậm đến với ngươi. Nếu không có chút hiện thực nào trong sự bước vào của ngươi, thì sự theo đuổi của ngươi sẽ vô ích. Nếu ngươi không hay biết về thực chất của lẽ thật, thì ngươi sẽ không thay đổi gì. Sự trưởng thành trong đời sống của con người và những thay đổi trong tâm tính của họ đạt được thông qua việc bước vào hiện thực, và hơn thế nữa, thông qua việc bước vào những trải nghiệm chi tiết. Nếu có nhiều trải nghiệm chi tiết trong quá trình bước vào của ngươi, và ngươi có nhiều kiến thức và sự bước vào thực tế, thì tâm tính của ngươi sẽ nhanh chóng thay đổi. Cho dù hiện tại ngươi không hoàn toàn rõ về sự thực hành, ít nhất ngươi cũng phải rõ về những khải tượng về công tác của Đức Chúa Trời. Nếu không, ngươi sẽ không thể bước vào, và sự bước vào chỉ khả thi một khi ngươi có kiến thức về lẽ thật. Chỉ khi Đức Thánh Linh khai sáng ngươi trong sự trải nghiệm, thì ngươi mới có được sự hiểu biết sâu sắc hơn về lẽ thật, và sự bước vào sâu hơn. Các ngươi phải biết đến công tác của Đức Chúa Trời.
– Sự khác nhau giữa chức vụ của Đức Chúa Trời nhập thể và bổn phận của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 160
Ban đầu, sau công cuộc tạo dựng nên loài người, chính dân Y-sơ-ra-ên là những người đã đóng vai trò nền tảng trong công tác của Đức Chúa Trời. Toàn thể Y-sơ-ra-ên là nền móng cho công tác của Đức Giê-hô-va trên đất. Công tác của Đức Giê-hô-va là trực tiếp dẫn dắt và chăn dắt con người bằng cách đặt ra các luật lệ, hầu cho con người có thể sống một đời sống bình thường và thờ phượng Đức Giê-hô-va theo một cách thức bình thường trên đất. Đức Chúa Trời trong Thời đại Luật pháp không thể nhìn thấy cũng không thể chạm vào bởi con người. Bởi vì tất cả những gì Ngài làm là dẫn dắt những người đầu tiên bị Sa-tan làm bại hoại, phán dạy và chăn dắt họ, những lời Ngài phán chỉ là về các luật lệ, chế định, và các quy tắc ứng xử của con người, và không cung cấp cho họ các lẽ thật về sự sống. Dân Y-sơ-ra-ên dưới sự dẫn dắt của Ngài đã chưa bị bại hoại sâu sắc bởi Sa-tan. Công tác luật pháp của Ngài chỉ là giai đoạn đầu tiên trong công tác cứu rỗi, sự khởi đầu của công tác cứu rỗi, và hầu như không liên quan gì đến những thay đổi trong tâm tính sống của con người. Do đó, vào giai đoạn đầu của công tác cứu rỗi, Ngài đã không cần mặc lấy xác thịt cho công tác của Ngài ở Y-sơ-ra-ên. Đây là lý do tại sao Ngài đã cần đến một trung gian, một công cụ, để qua đó tiếp xúc với con người. Vì vậy, giữa các loài thọ tạo đã nổi lên ra những người phát ngôn và làm việc thay mặt Đức Giê-hô-va, là cách con cái loài người và các đấng tiên tri đã đến làm việc giữa con người. Con cái loài người đã thay mặt Đức Giê-hô-va làm việc giữa con người. Được Đức Giê-hô-va gọi là “con cái loài người” có nghĩa là những người đó đã đặt ra các luật lệ thay mặt cho Đức Giê-hô-va. Họ cũng là những thầy tế lễ giữa dân Y-sơ-ra-ên; những thầy tế lễ đã được Đức Giê-hô-va trông nom và bảo vệ, và được Thần của Đức Giê-hô-va làm việc bên trong; họ là những người dẫn dắt giữa dân chúng và trực tiếp hầu việc Đức Giê-hô-va. Mặt khác, các đấng tiên tri đã dâng mình để thay mặt cho Đức Giê-hô-va phán với dân chúng trong khắp các xứ và các chi phái. Họ cũng đã tiên tri về công tác của Đức Giê-hô-va. Dù họ là con cái loài người hay các đấng tiên tri, tất cả đều đã được dấy lên bởi Thần của chính Đức Giê-hô-va và đã có công tác của Đức Giê-hô-va trong họ. Giữa mọi người, họ là những người đã trực tiếp đại diện cho Đức Giê-hô-va; họ đã làm công việc của họ chỉ vì họ đã được Đức Giê-hô-va dấy lên chứ không phải vì họ là xác thịt đã được chính Đức Thánh Linh nhập thể vào. Do đó, dù họ giống nhau ở chỗ cùng phán và làm việc thay mặt Đức Chúa Trời, nhưng con cái loài người và các đấng tiên tri trong Thời đại Luật pháp không phải là xác thịt của Đức Chúa Trời nhập thể. Công tác của Đức Chúa Trời trong Thời đại Ân điển và giai đoạn cuối cùng thì hoàn toàn trái ngược, vì công tác cứu rỗi và phán xét con người đều đã được thực hiện bởi chính Đức Chúa Trời nhập thể, và do đó đơn giản là không cần thiết phải dấy lên các đấng tiên tri và con cái loài người để làm việc thay cho Ngài một lần nữa. Trong mắt con người, không có sự khác biệt về thực chất nào giữa thực chất và phương pháp công tác của họ. Và chính vì lý do này mà con người luôn luôn nhầm lẫn giữa công tác của Đức Chúa Trời nhập thể với công việc của các đấng tiên tri và con cái loài người. Vẻ bề ngoài của Đức Chúa Trời nhập thể về cơ bản giống như của các đấng tiên tri và các con cái loài người. Và Đức Chúa Trời nhập thể thậm chí còn bình thường hơn và thật hơn các đấng tiên tri. Vì thế, con người không thể phân biệt được họ. Con người chỉ tập trung vào vẻ bề ngoài, hoàn toàn không ý thức được rằng, mặc dù cả hai đều giống nhau ở chỗ cùng làm việc và phán dạy, vẫn có một sự khác biệt về thực chất giữa họ. Bởi vì khả năng phân biệt mọi thứ của con người quá kém cỏi, nên họ không thể phân biệt được những vấn đề cơ bản, nói gì đến điều phức tạp như vậy. Khi các đấng tiên tri và những người được Đức Thánh Linh sử dụng đó phán và làm việc, thì đây là để thực hiện bổn phận của con người, để thực hiện chức năng của một loài thọ tạo, và là điều mà con người nên làm. Tuy nhiên, những lời và công tác của Đức Chúa Trời nhập thể là để thực hiện chức vụ của Ngài. Dù mang dáng vẻ bề ngoài của một loài thọ tạo, nhưng công tác của Ngài không phải là thực hiện chức năng của Ngài mà là chức vụ của Ngài. Từ “bổn phận” được sử dụng khi nói về loài thọ tạo, trong khi “chức vụ” được sử dụng khi nói về xác thịt của Đức Chúa Trời nhập thể. Có một sự khác biệt về bản chất giữa hai thuật ngữ này; chúng không thể thay thế cho nhau. Công việc của con người chỉ là làm bổn phận của họ, trong khi công tác của Đức Chúa Trời là quản lý, và thực hiện chức vụ của Ngài. Do đó, dù nhiều sứ đồ đã được Đức Thánh Linh sử dụng và nhiều đấng tiên tri đã được phú cho đầy dẫy Ngài, nhưng công việc và lời của họ chỉ đơn thuần là thực hiện bổn phận của mình như những loài thọ tạo. Những lời tiên tri của họ có thể vượt lên trên con đường sự sống mà Đức Chúa Trời nhập thể đã phán, và nhân tính của họ có thể thậm chí còn vượt Đức Chúa Trời nhập thể, nhưng họ vẫn đang thực hiện bổn phận của họ, chứ không phải đang thực hiện một chức vụ. Bổn phận của con người nói đến chức năng của con người; nó là điều con người có thể đạt được. Tuy nhiên, chức vụ do Đức Chúa Trời nhập thể thực hiện liên quan đến sự quản lý của Ngài, và điều này không thể đạt được bởi con người. Cho dù Đức Chúa Trời nhập thể có phán dạy, làm việc, hoặc làm những phép lạ hay không, thì Ngài cũng đang thực hiện công tác vĩ đại giữa sự quản lý của Ngài, và công tác như thế con người không thể làm thay Ngài. Công việc của con người là chỉ làm bổn phận của họ như một loài thọ tạo trong một giai đoạn đã định trong công tác quản lý của Đức Chúa Trời. Không có sự quản lý của Đức Chúa Trời, tức là, nếu chức vụ của Đức Chúa Trời nhập thể không còn, thì bổn phận của một loài thọ tạo sẽ không còn. Công tác của Đức Chúa Trời trong việc thực hiện chức vụ của Ngài là để quản lý con người, trong khi việc thực hiện bổn phận của con người là làm tròn nghĩa vụ của chính họ nhằm đáp ứng các yêu cầu của Đấng Tạo Hóa và không thể nào được xem là thực hiện chức vụ của một người. Đối với bản chất vốn có của Đức Chúa Trời – đối với Thần của Ngài – công tác của Đức Chúa Trời là sự quản lý của Ngài, nhưng đối với Đức Chúa Trời nhập thể, Đấng mặc lấy dáng vẻ bề ngoài của một loài thọ tạo, thì công tác của Ngài là thực hiện chức vụ của Ngài. Bất kỳ việc gì Ngài làm là để thực hiện chức vụ của Ngài; tất cả những gì con người có thể làm là cống hiến hết sức mình trong phạm vi quản lý của Đức Chúa Trời và dưới sự dẫn dắt của Ngài.
– Sự khác nhau giữa chức vụ của Đức Chúa Trời nhập thể và bổn phận của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 161
Trong Thời đại Ân điển, Jêsus cũng phán nhiều và làm nhiều công tác. Ngài đã khác với Ê-sai như thế nào? Ngài đã khác với Đa-ni-ên như thế nào? Ngài có phải là một đấng tiên tri không? Tại sao người ta đã nói rằng Ngài là Đấng Christ? Những sự khác biệt giữa họ là gì? Họ đều là những người phán ra lời, và những lời của họ ít nhiều đều giống nhau với con người. Họ đều phán dạy và làm việc. Các đấng tiên tri của Cựu Uớc đã phán những lời tiên tri, và tương tự, Jêsus cũng có thể làm vậy. Tại sao lại như vậy? Sự khác biệt ở đây dựa trên bản chất công việc. Để phân biệt vấn đề này, ngươi không thể xem xét bản chất của xác thịt, ngươi cũng không nên xem xét độ sâu hay nông trong lời họ. Luôn luôn, ngươi trước tiên phải xem xét công tác của họ và những hiệu quả mà công tác của họ đạt được nơi con người. Những lời tiên tri đã được các đấng tiên tri phán ra thời đó đã không chu cấp sự sống của con người, và những linh hứng mà những người như Ê-sai và Đa-ni-ên đã nhận được chỉ đơn thuần là những lời tiên tri, và không phải là con đường sự sống. Nếu không vì sự mặc khải trực tiếp của Đức Giê-hô-va, thì không ai có thể làm việc đó, điều không thể đối với người phàm. Jêsus cũng phán rất nhiều lời, nhưng những lời đó là con đường sự sống mà từ đó con người có thể tìm ra cách để thực hành. Điều đó có nghĩa là, thứ nhất, Ngài đã có thể chu cấp sự sống của con người, bởi Jêsus là sự sống; thứ hai, Ngài đã có thể đảo ngược những sai trật của con người; thứ ba, công tác của Ngài có thể kế tục công tác của Đức Giê-hô-va để tiếp tục thời đại; thứ tư, Ngài đã có thể nắm bắt được những nhu cầu bên trong con người và hiểu được con người thiếu những gì; thứ năm, Ngài có thể mở ra một thời đại mới và kết thúc thời đại cũ. Đó là lý do vì sao Ngài được gọi là Đức Chúa Trời và Đấng Christ; Ngài không những khác với Ê-sai mà còn khác với tất cả các đấng tiên tri khác. Hãy lấy Ê-sai để so sánh về công việc của các đấng tiên tri. Thứ nhất, ông không thể chu cấp sự sống của con người; thứ nhì, ông không thể mở ra một thời đại mới. Ông đã làm việc dưới sự dẫn dắt của Đức Giê-hô-va và không mở ra một thời đại mới. Thứ ba, những lời ông đã phán ra vượt tầm của ông. Ông đã nhận lãnh những sự mặc khải trực tiếp từ Thần của Đức Chúa Trời, và những người khác sẽ không thể hiểu được, dù cho đã nghe thấy chúng. Vài điều này thôi cũng đủ để chứng minh rằng những lời nói của ông không hơn gì những lời tiên tri, không hơn gì một khía cạnh công tác được làm thay cho Đức Giê-hô-va. Tuy nhiên, ông không thể hoàn toàn đại diện cho Đức Giê-hô-va. Ông là tôi tớ của Đức Giê-hô-va, một công cụ trong công tác của Đức Giê-hô-va. Ông chỉ làm công tác trong Thời đại Luật pháp và trong phạm vi công tác của Đức Giê-hô-va; ông đã không làm vượt quá Thời đại Luật pháp. Ngược lại, công tác của Jêsus thì khác. Ngài đã vượt quá phạm vi công tác của Đức Giê-hô-va; Ngài đã làm việc như Đức Chúa Trời nhập thể và trải qua sự đóng đinh trên thập tự để cứu chuộc cả nhân loại. Điều đó có nghĩa là, Ngài đã thực hiện công tác mới ngoài công tác đã được thực hiện bởi Đức Giê-hô-va. Đây là sự mở ra một thời đại mới. Thêm nữa, Ngài đã có thể phán về những điều con người không thể đạt được. Công tác của Ngài là công tác trong phạm vi sự quản lý của Đức Chúa Trời và liên quan đến toàn thể nhân loại. Ngài đã làm việc không chỉ trong một vài người, công tác của Ngài cũng không có nghĩa là dẫn dắt một số người có giới hạn. Về việc Đức Chúa Trời đã nhập thể thành người như thế nào, Thần đã mặc khải vào thời đó như thế nào, và Thần đã giáng xuống con người để làm việc ra sao – đây là những vấn đề con người không thể thấy hay chạm vào được. Những sự thật này hoàn toàn không thể được dùng làm bằng chứng cho việc Ngài là Đức Chúa Trời nhập thể. Như thế, chỉ có thể phân biệt được trong những lời và công tác của Đức Chúa Trời, là những gì hữu hình đối với con người. Chỉ có điều này là thực tế. Đây là vì các vấn đề của Thần thì ngươi không thể nhìn thấy được và chỉ có chính Đức Chúa Trời mới biết một cách rõ ràng, và thậm chí xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời cũng không biết tất cả mọi điều; ngươi chỉ có thể xác minh xem Ngài có phải là Đức Chúa Trời hay không từ công tác Ngài đã làm. Từ công tác của Ngài, có thể thấy được rằng, thứ nhất, Ngài có thể mở ra một thời đại mới; thứ hai, Ngài có thể chu cấp sự sống của con người và chỉ cho con người con đường để đi theo. Điều này đủ để chứng minh rằng Ngài là chính Đức Chúa Trời. Ít nhất là, công tác Ngài làm hoàn toàn có thể đại diện cho Thần của Đức Chúa Trời, và từ công tác đó có thể thấy rằng Thần của Đức Chúa Trời ở trong Ngài. Vì công tác do Đức Chúa Trời nhập thể thực hiện chủ yếu là mở ra một thời đại mới, dẫn dắt công tác mới, và mở ra một cõi mới, chỉ những điều này thôi cũng đủ để chứng minh rằng Ngài là chính Đức Chúa Trời. Vì thế, điều này phân biệt Ngài với Ê-sai, Đa-ni-ên, và những nhà tiên tri vĩ đại khác. Ê-sai, Đa-ni-ên và những người khác đều là những người thuộc tầng lớp có học thức và có văn hóa cao; họ là những con người phi thường dưới sự dẫn dắt của Đức Giê-hô-va. Xác thịt của Đức Chúa Trời nhập thể cũng có am hiểu và không thiếu lý trí, nhưng nhân tính của Ngài đặc biệt bình thường. Ngài đã là một người bình thường, và mắt trần đã không thể thấy được bất kỳ nhân tính đặc biệt nào về Ngài hay phát hiện bất kỳ điều gì trong nhân tính của Ngài khác với những người khác. Ngài hoàn toàn không phải là siêu nhiên hay độc nhất vô nhị, và Ngài đã không sở hữu bất kỳ sự giáo dục, kiến thức, hay lý thuyết nào cao hơn. Sự sống Ngài đã phán và con đường Ngài đã dẫn dắt không đạt được từ lý thuyết, từ kiến thức, từ kinh nghiệm sống, hay từ sự dưỡng dục của gia đình. Thay vào đó, chúng là công tác trực tiếp của Thần, công tác của xác thịt nhập thể. Chính vì con người có những quan niệm vĩ đại về Đức Chúa Trời, và đặc biệt là vì những quan niệm này được cấu thành từ quá nhiều yếu tố mơ hồ và siêu nhiên, mà trong mắt con người, một Đức Chúa Trời bình thường với những sự yếu đuối của con người, không thể làm những dấu kỳ và phép lạ, thì chắc chắn không phải là Đức Chúa Trời. Đây chẳng phải là những quan niệm sai lầm của con người sao? Nếu xác thịt của Đức Chúa Trời nhập thể không phải là một con người bình thường, thì làm sao có thể nói Ngài đã trở nên xác thịt? Thuộc về xác thịt là trở nên một người tầm thường, bình thường; nếu Ngài là một hữu thể siêu việt, thì Ngài lẽ ra đã không thuộc về xác thịt. Để chứng minh rằng Ngài thuộc về xác thịt, Đức Chúa Trời nhập thể cần sở hữu một xác thịt bình thường. Điều này đơn giản là để làm cho ý nghĩa của sự nhập thể được trọn vẹn. Tuy nhiên, điều này không đúng với các đấng tiên tri và con cái loài người. Họ là những con người được ban ân tứ do Đức Thánh Linh sử dụng; trong mắt con người, nhân tính của họ đặc biệt vĩ đại, và họ đã thực hiện nhiều hành động vượt trội nhân tính bình thường. Vì lý do này, con người đã xem họ là Đức Chúa Trời. Giờ đây tất cả các ngươi phải hiểu rõ điều này, vì nó đã là một vấn đề dễ bị hiểu lầm nhất bởi tất cả mọi người trong các thời đại trước. Hơn nữa, sự nhập thể là điều bí ẩn nhất trong mọi điều, và Đức Chúa Trời nhập thể là điều con người khó chấp nhận nhất. Những điều Ta phán giúp ích cho việc thực hiện chức năng của các ngươi và sự hiểu biết của các ngươi về lẽ mầu nhiệm của sự nhập thể. Đây là tất cả những gì liên quan đến sự quản lý của Đức Chúa Trời, đến những khải tượng. Sự hiểu biết của các ngươi về điều này sẽ có ích hơn cho việc có được kiến thức về các khải tượng, tức là, công tác quản lý của Đức Chúa Trời. Bằng cách này, các ngươi cũng sẽ hiểu được nhiều hơn về bổn phận mà những loại người khác nhau cần phải thực hiện. Mặc dù những lời này không trực tiếp chỉ đường cho các ngươi, nhưng chúng vẫn rất hữu ích cho sự bước vào của các ngươi, bởi đời sống của các ngươi hiện nay thiếu nhiều các khải tượng, và điều này sẽ trở thành một trở ngại lớn cản trở sự bước vào của các ngươi. Nếu các ngươi không thể hiểu được những vấn đề này, thì sẽ không có động lực nào thúc đẩy sự bước vào của các ngươi. Và làm sao một sự theo đuổi như thế có thể giúp ngươi hoàn thành tốt nhất bổn phận của mình?
– Sự khác nhau giữa chức vụ của Đức Chúa Trời nhập thể và bổn phận của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 162
Một số người sẽ hỏi: “Sự khác biệt giữa công tác được Đức Chúa Trời nhập thể thực hiện và công tác của các tiên tri và các sứ đồ thời xưa là gì? Đa-vít cũng đã được gọi là Chúa, và Jêsus cũng vậy; mặc dù công tác họ đã làm là khác nhau, nhưng họ đều đã được gọi cùng một tên. Nói tôi nghe, tại sao thân phận của họ không giống nhau? Những gì Giăng đã chứng kiến là một khải tượng, điều cũng đã đến từ Đức Thánh Linh, và người đã có thể nói những lời mà Đức Thánh Linh định nói; tại sao thân phận của Giăng lại khác với của Jêsus?” Những lời Jêsus phán ra đã có thể đại diện đầy đủ cho Đức Chúa Trời, và đã đại diện đầy đủ cho công tác của Đức Chúa Trời. Những gì Giăng đã thấy là một khải tượng, và người không có khả năng đại diện hoàn toàn cho công tác của Đức Chúa Trời. Tại sao Giăng, Phi-e-rơ và Phao-lô đã nói nhiều lời – như Jêsus đã phán – nhưng họ lại không có cùng thân phận với Jêsus? Chủ yếu là vì công tác mà họ đã làm là khác nhau. Jêsus đại diện cho Thần của Đức Chúa Trời, và là Thần của Đức Chúa Trời hoạt động trực tiếp. Ngài đã làm công tác của thời đại mới, công tác mà chưa ai từng làm trước đó. Ngài đã mở ra một con đường mới, Ngài đã đại diện cho Đức Giê-hô-va, và Ngài đã đại diện cho chính Đức Chúa Trời, trong khi với Phi-e-rơ, Phao-lô và Đa-vít, bất kể họ được gọi là gì, họ chỉ đại diện cho thân phận của một loài thọ tạo của Đức Chúa Trời, và đã được sai phái bởi Jêsus hoặc Đức Giê-hô-va. Vì vậy, cho dù họ đã làm bao nhiêu công tác, cho dù họ đã thực hiện những lẽ mầu nhiệm vĩ đại ra sao, họ vẫn chỉ là những loài thọ tạo của Đức Chúa Trời, và không có khả năng đại diện cho Thần của Đức Chúa Trời. Họ đã làm việc nhân danh Đức Chúa Trời hoặc sau khi được Đức Chúa Trời sai phái; hơn nữa, họ đã làm việc trong những thời đại do Jêsus hoặc Đức Giê-hô-va mở đầu, và họ đã không làm công tác nào khác. Xét cho cùng, họ đơn thuần chỉ là những loài thọ tạo của Đức Chúa Trời mà thôi. Trong Cựu Ước, nhiều tiên tri đã tiên báo, hoặc viết các sách tiên tri. Không ai nói rằng họ là Đức Chúa Trời, nhưng ngay khi Jêsus bắt đầu làm việc, Thần của Đức Chúa Trời đã làm chứng cho Ngài là Đức Chúa Trời. Tại sao như thế? Tại thời điểm này, ngươi nên biết rồi mới phải! Trước đây, các sứ đồ và các tiên tri đã viết các thư tín khác nhau, và đưa ra nhiều lời tiên tri. Về sau, người ta đã chọn một vài điều trong số chúng để đưa vào Kinh Thánh, và một số đã bị thất lạc. Vì có những người nói rằng mọi thứ họ nói ra đều đến từ Đức Thánh Linh, tại sao một vài điều trong số đó được xem là tốt, còn một vài điều trong số đó bị xem là xấu? Và tại sao một số đã được chọn, còn số khác thì không? Nếu chúng thực sự là những lời được phán bởi Đức Thánh Linh, liệu mọi người có cần thiết phải chọn lọc chúng không? Tại sao các bản ký thuật về những lời được Jêsus phán và công tác mà Ngài đã làm lại khác nhau ở mỗi sách trong Bốn Sách Phúc Âm? Đây chẳng phải là lỗi của những người đã ghi chép lại chúng sao? Một số người sẽ hỏi: “Vì các thư tín được viết bởi Phao-lô và các tác giả khác của Tân Ước và công tác họ đã làm một phần xuất phát từ ý muốn của con người, và đã bị trộn lẫn với các quan niệm của con người, vậy thì chẳng phải tồn tại sự bất khiết của con người trong những lời mà Ngài (Đức Chúa Trời) phán ngày nay sao? Chúng thực sự không chứa bất kỳ quan niệm nào của con người không?” Giai đoạn công tác này được thực hiện bởi Đức Chúa Trời hoàn toàn khác với những gì đã được thực hiện bởi Phao-lô cùng nhiều sứ đồ và tiên tri. Không chỉ có sự khác biệt ở thân phận, mà về cơ bản, có một sự khác biệt ở công tác được thực hiện. Sau khi Phao-lô bị đánh gục và sấp mình xuống trước Chúa, người đã được Đức Thánh Linh dẫn dắt để làm việc, và người đã trở thành một người được sai phái. Và vì vậy, người đã viết các thư tín cho các hội thánh, và tất cả các thư tín này đều tuân theo những lời dạy dỗ của Jêsus. Phao-lô đã được Chúa sai đi làm việc nhân danh Đức Chúa Jêsus, nhưng khi chính Đức Chúa Trời đến, Ngài đã không làm việc nhân danh ai cả, và đã không đại diện cho bất kỳ ai ngoài Thần của Đức Chúa Trời trong công tác của Ngài. Đức Chúa Trời đã đến để trực tiếp thực hiện công tác của Ngài: Ngài đã không bị hoàn thiện bởi con người, và công tác của Ngài đã không được thực hiện theo những lời dạy dỗ của bất kỳ người nào. Trong giai đoạn công tác này, Đức Chúa Trời không lãnh đạo bằng cách phán về những kinh nghiệm cá nhân của Ngài, mà thay vào đó trực tiếp thực hiện công tác của Ngài, theo những gì Ngài có. Chẳng hạn, sự thử luyện của những kẻ phục vụ, thời kỳ của hình phạt, sự thử luyện của cái chết, thời kỳ yêu mến Đức Chúa Trời… Đây toàn bộ là những công tác chưa từng được thực hiện trước đây, và là công tác của thời đại hiện nay, chứ không phải là những kinh nghiệm của con người. Trong những lời Ta đã phán, điều nào là những kinh nghiệm của con người? Chẳng phải tất cả chúng đều đến trực tiếp từ Thần, và chẳng phải chúng được Thần ban phát sao? Chỉ là tố chất của ngươi kém cỏi đến mức ngươi không thể nhìn thấu sự thật! Con đường sự sống thực tế mà Ta nói đến là để dẫn đường, và chưa từng được ai nói đến trước đây, cũng chưa từng có ai trải nghiệm con đường này, hoặc biết về hiện thực này. Trước khi Ta phán ra những lời này, không một ai đã từng nói chúng. Không một ai đã từng nói về những trải nghiệm như vậy, họ cũng chưa từng nói đến những chi tiết như vậy, và hơn nữa, không một ai đã từng chỉ ra những tình trạng như vậy để tiết lộ những điều này. Không một ai đã từng dẫn dắt con đường mà Ta dẫn dắt ngày nay, và nếu nó được dẫn dắt bởi con người, thì đó không phải là một con đường mới. Hãy lấy Phao-lô và Phi-e-rơ làm ví dụ. Họ đã không có những kinh nghiệm cá nhân của riêng mình trước khi Jêsus dẫn đường. Chỉ sau khi Jêsus dẫn đường thì họ mới trải nghiệm những lời Jêsus đã phán và con đường do Ngài dẫn dắt; từ đây, họ đã có được nhiều kinh nghiệm và họ đã viết các thư tín. Và như vậy, những kinh nghiệm của con người không giống với công tác của Đức Chúa Trời, và công tác của Đức Chúa Trời không giống với kiến thức được mô tả bởi các quan niệm và kinh nghiệm của con người. Ta đã phán bao nhiêu lần rằng ngày nay Ta đang dẫn dắt một con đường mới, đang thực hiện công tác mới, và công tác cùng những lời phán của Ta khác với của Giăng và tất cả các tiên tri khác. Ta không bao giờ thu thập kinh nghiệm trước rồi mới phán chúng cho các ngươi – điều đó hoàn toàn không đúng. Nếu như đúng, chẳng phải điều đó đã trì hoãn các ngươi từ lâu sao? Trong quá khứ, kiến thức mà nhiều người đã nói đến cũng được đề cao, nhưng tất cả những lời của họ chỉ được nói dựa trên lời của những người được gọi là nhân vật tâm linh. Chúng đã không dẫn đường, mà xuất phát từ những kinh nghiệm của họ, xuất phát từ những gì họ đã thấy, và từ kiến thức của họ. Một số thuộc về các quan niệm của họ, còn một số bao gồm kinh nghiệm mà họ đã tổng kết được. Ngày nay, thực chất công tác của Ta hoàn toàn khác với của họ. Ta đã không trải qua việc bị người khác dẫn dắt, Ta cũng không chấp nhận bị người khác hoàn thiện. Hơn nữa, mọi điều Ta đã phán và thông công không giống như của bất kỳ ai khác, và chưa từng được nói bởi bất kỳ ai khác. Ngày nay, bất kể các ngươi là ai, thì công tác của các ngươi cũng được thực hiện dựa trên cơ sở những lời Ta phán. Không có những lời phán và công tác này, ai sẽ có khả năng trải nghiệm những điều này (sự thử luyện của những kẻ phục vụ, thời kỳ của hình phạt…), và ai sẽ có thể nói về những hiểu biết như vậy? Ngươi thực sự không có khả năng nhìn thấy điều này sao? Bất kể là bước nào của công tác, ngay khi lời của Ta được phán ra, các ngươi bắt đầu thông công theo lời của Ta, hành động theo chúng, và đó không phải là con đường mà bất kỳ ai trong các ngươi đã từng nghĩ đến. Đã đi xa đến mức này rồi mà các ngươi không có khả năng nhìn thấy một vấn đề rõ ràng và đơn giản như vậy sao? Nó không phải là một con đường mà ai đó đã nghĩ ra, nó cũng không được dựa trên bất kỳ nhân vật tâm linh nào. Nó là một con đường mới, và thậm chí nhiều lời đã từng được Jêsus phán ra không còn khả dụng nữa. Những gì Ta phán là công tác mở ra một kỷ nguyên mới, và đó là công tác độc lập; công tác Ta làm và những lời Ta phán hết thảy đều hoàn toàn mới. Chẳng phải đây là công tác mới của ngày nay sao? Công tác của Jêsus cũng đã giống như vậy. Công tác của Ngài cũng đã khác với của những người trong đền thờ, nó cũng khác với công tác của những người Pha-ri-si, và cũng đã không có bất kỳ sự tương đồng nào với công tác được thực hiện bởi tất cả dân Y-sơ-ra-ên. Sau khi chứng kiến điều đó, mọi người đã không thể đưa ra quyết định: “Nó có thực sự đã được thực hiện bởi Đức Chúa Trời không?” Jêsus đã không tuân giữ luật pháp của Đức Giê-hô-va; khi Ngài đến để dạy dỗ con người, tất cả những gì Ngài đã phán đều mới mẻ và khác biệt so với những gì mà các thánh đồ xưa và các tiên tri của Cựu Ước đã nói, và vì điều này nên mọi người vẫn không chắc chắn. Đây là điều khiến cho con người rất khó xử. Trước khi chấp nhận giai đoạn công tác mới này, con đường mà đa số các ngươi đã đi là thực hành và bước vào dựa trên nền tảng lời của những nhân vật tâm linh đó. Nhưng ngày nay, công tác mà Ta làm rất khác biệt, và vì vậy các ngươi không thể quyết định liệu nó có đúng hay không. Ta không quan tâm ngươi đã đi con đường nào trước đây, Ta cũng không hứng thú với việc ngươi đã ăn “thức ăn” của ai, hoặc ngươi đã nhận ai làm “cha” mình. Vì Ta đã đến và mang công tác mới để hướng dẫn con người, tất cả những ai theo Ta đều phải hành động theo những gì Ta phán. Cho dù “gia đình” mà ngươi xuất thân quyền lực ra sao, ngươi cũng phải theo Ta, ngươi không được hành động theo những thực hành trước đây của mình, “cha nuôi” của ngươi nên rời vị trí, và ngươi nên đến trước Đức Chúa Trời của ngươi để tìm kiếm phần xứng đáng của mình. Toàn bộ của ngươi đều nằm trong tay Ta và ngươi không nên dành quá nhiều niềm tin mù quáng cho cha nuôi của mình; ông ấy không thể hoàn toàn kiểm soát ngươi. Công tác của ngày nay là độc lập. Tất cả những gì Ta phán ngày nay rõ ràng không dựa trên nền tảng từ quá khứ; nó là một khởi đầu mới, và nếu ngươi nói rằng nó được tạo ra bởi bàn tay của con người, thì ngươi là một kẻ mù quáng vô phương cứu chữa!
– Xét về danh xưng và thân phận, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 163
Ê-sai, Ê-xê-chi-ên, Môi-se, Đa-vít, Áp-ra-ham và Đa-ni-ên là những nhà lãnh đạo hoặc tiên tri trong số những dân sự được chọn của Y-sơ-ra-ên. Tại sao họ đã không được gọi là Đức Chúa Trời? Tại sao Đức Thánh Linh đã không làm chứng cho họ? Tại sao Đức Thánh Linh đã làm chứng cho Jêsus ngay khi Ngài bắt đầu công tác và bắt đầu phán những lời của Ngài? Và tại sao Đức Thánh Linh đã không làm chứng cho những người khác? Họ, những con người của xác thịt, tất cả đều đã được gọi là “Chúa”. Bất kể họ đã được gọi là gì, công tác của họ đại diện cho hữu thể và thực chất của họ, còn hữu thể và thực chất của họ đại diện cho thân phận của họ. Thực chất của họ không liên quan đến danh xưng của họ; nó được đại diện bởi những gì họ đã thể hiện, và những gì họ đã sống thể hiện ra. Trong Cựu Ước, không có gì khác thường khi được gọi là “Chúa”, và một người có thể được gọi theo bất kỳ cách nào, nhưng thực chất và thân phận vốn có của họ là không đổi. Trong số những Christ giả, những tiên tri giả và những kẻ lừa gạt, chẳng phải cũng có những người được gọi là “Đức Chúa Trời” hay sao? Và tại sao họ không phải là Đức Chúa Trời? Bởi vì họ không có khả năng làm công tác của Đức Chúa Trời. Về cơ bản, họ là con người, những kẻ lừa gạt mọi người, không phải là Đức Chúa Trời, và vì vậy họ không có thân phận của Đức Chúa Trời. Chẳng phải Đa-vít cũng đã được gọi là Chúa giữa mười hai chi phái sao? Jêsus cũng đã được gọi là Chúa; tại sao chỉ một mình Jêsus được gọi là Đức Chúa Trời nhập thể? Chẳng phải Giê-rê-mi cũng đã được biết đến như Con người sao? Và chẳng phải Jêsus đã được biết đến như Con người sao? Tại sao Jêsus đã bị đóng đinh thay mặt cho Đức Chúa Trời? Chẳng phải vì thực chất của Ngài là khác biệt sao? Chẳng phải vì công tác Ngài đã làm là khác biệt sao? Danh hiệu có quan trọng không? Mặc dù Jêsus cũng đã được gọi là Con người, nhưng Ngài là sự nhập thể đầu tiên của Đức Chúa Trời, Ngài đã đến để nắm quyền, và hoàn thành công tác cứu chuộc. Điều này chứng tỏ rằng thân phận và thực chất của Jêsus khác với những người khác cũng đã được gọi là Con người. Ngày nay, ai trong các ngươi dám nói rằng mọi lời được nói ra bởi những người đã được Đức Thánh Linh sử dụng đều đến từ Đức Thánh Linh? Có ai dám nói những điều như thế không? Nếu ngươi nói những điều như thế, thì tại sao sách tiên tri của E-xơ-ra đã bị loại bỏ, và tại sao cũng làm điều tương tự với sách của các thánh đồ và tiên tri cổ đại đó? Nếu tất cả chúng đều đến từ Đức Thánh Linh, thì tại sao các ngươi lại dám đưa ra những lựa chọn thất thường như vậy? Ngươi có đủ tư cách để lựa chọn công tác của Đức Thánh Linh sao? Nhiều câu chuyện từ Y-sơ-ra-ên cũng đã bị loại bỏ. Và nếu ngươi tin rằng tất cả các ghi chép này của quá khứ đều đến từ Đức Thánh Linh, thì tại sao một số sách lại bị loại bỏ? Nếu tất cả chúng đều đã đến từ Đức Thánh Linh, tất cả chúng lẽ ra nên được giữ lại, và được gửi đến cho các anh chị em của các hội thánh đọc. Chúng không nên được lựa chọn hoặc bị loại bỏ bởi ý muốn của con người; làm vậy là sai. Nói rằng những kinh nghiệm của Phao-lô và Giăng đã bị trộn lẫn với những thông hiểu cá nhân của họ không có nghĩa là những kinh nghiệm và kiến thức của họ đã xuất phát từ Sa-tan, mà chỉ là họ đã có những điều đến từ những kinh nghiệm và thông hiểu cá nhân của họ. Kiến thức của họ là dựa theo nền tảng của những kinh nghiệm thực tế vào thời điểm đó, và ai có thể tự tin nói rằng tất cả đều đã đến từ Đức Thánh Linh? Nếu tất cả Bốn Sách Phúc Âm đều đến từ Đức Thánh Linh, thì tại sao Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca và Giăng mỗi người lại nói điều gì đó khác biệt về công tác của Jêsus? Nếu ngươi không tin điều này, thì hãy xem các bản ký thuật trong Kinh Thánh về việc Phi-e-rơ đã chối Chúa ba lần như thế nào: Tất cả chúng đều khác nhau, và mỗi bản ký thuật đều có những đặc điểm riêng của chúng. Nhiều kẻ ngu dốt nói rằng: “Đức Chúa Trời nhập thể cũng là một con người, vậy có thể nào những lời Ngài phán hoàn toàn đến từ Đức Thánh Linh không? Nếu những lời của Phao-lô và Giăng đã bị trộn lẫn với ý muốn của con người, thì những lời mà Ngài phán có thực sự không bị trộn lẫn với ý muốn của con người không?” Những kẻ nói mấy điều như vậy thật mù quáng và ngu dốt! Hãy đọc kỹ Bốn Sách Phúc Âm; đọc những gì chúng ghi lại về những điều mà Jêsus đã làm, và những lời Ngài đã phán. Mỗi bản ký thuật hoàn toàn khác nhau, và mỗi bản đều có góc nhìn riêng của nó. Nếu những gì được viết bởi các tác giả của các sách này đều hết thảy đến từ Đức Thánh Linh, thì tất cả sẽ giống nhau và nhất quán. Vậy thì tại sao lại có những khác biệt? Chẳng phải con người cực kỳ ngu ngốc khi không thể nhìn thấy điều này sao? Nếu ngươi được yêu cầu làm chứng cho Đức Chúa Trời, ngươi có thể cung cấp loại chứng ngôn nào? Một kiểu nhận biết Đức Chúa Trời như vậy có thể làm chứng cho Ngài không? Nếu những người khác hỏi ngươi: “Nếu các bản ghi chép của Giăng và Lu-ca bị trộn lẫn với ý muốn của con người, thì chẳng lẽ những lời được phán ra bởi Đức Chúa Trời của các bạn lại không bị trộn lẫn với ý muốn của con người hay sao?” thì ngươi có thể đưa ra một câu trả lời rõ ràng không? Sau khi Lu-ca và Ma-thi-ơ đã nghe những lời của Jêsus và thấy công tác của Jêsus, họ đã nói về hiểu biết của riêng họ, theo cách hồi tưởng chi tiết một số sự thật của công tác đã được Jêsus thực hiện. Ngươi có thể nói rằng hiểu biết của họ đã được mặc khải hoàn toàn bởi Đức Thánh Linh không? Bên ngoài Kinh Thánh, đã có nhiều nhân vật tâm linh uyên thâm hơn họ; vậy tại sao những lời nói của họ không được các thế hệ sau đón nhận? Chẳng phải họ cũng đã được Đức Thánh Linh sử dụng sao? Cần biết rằng trong công tác của ngày nay, Ta không phải đang phán về hiểu biết của riêng Ta dựa trên nền tảng công tác của Jêsus, Ta cũng không phải đang phán về hiểu biết của riêng Ta dựa trên bối cảnh công tác của Jêsus. Jêsus đã làm công tác gì vào thời điểm đó? Và Ta đang làm công tác gì ngày nay? Những gì Ta làm và phán không có tiền lệ. Con đường mà Ta đi ngày nay chưa từng được đặt chân lên trước đây, nó chưa từng được những người của các thời đại và các thế hệ trước đi qua. Ngày nay, nó đã được mở ra, và chẳng phải đây là công tác của Thần sao? Mặc dù nó là công tác của Đức Thánh Linh, nhưng tất cả các nhà lãnh đạo của quá khứ đều đã thực hiện công tác của họ dựa trên nền tảng của những người khác; tuy nhiên, công tác của chính Đức Chúa Trời thì khác. Giai đoạn công tác của Jêsus cũng vậy: Ngài đã mở ra một con đường mới. Khi Ngài đến, Ngài đã rao giảng Phúc Âm của thiên quốc, và đã phán rằng con người nên ăn năn và xưng tội. Sau khi Jêsus đã hoàn thành công tác của Ngài, Phi-e-rơ và Phao-lô cùng những người khác bắt đầu tiếp tục thực hiện công tác của Jêsus. Sau khi Jêsus đã bị đóng đinh trên thập tự giá và thăng thiên, họ được Thần sai đi để rao truyền con đường của thập tự giá. Mặc dù những lời của Phao-lô đã được tán dương, nhưng chúng cũng đã dựa trên nền tảng được đặt ra bởi những gì Jêsus đã phán, chẳng hạn như sự nhẫn nại, tình yêu thương, sự chịu khổ, việc trùm đầu, phép báp-têm, hoặc các giáo lý khác phải được tuân theo. Tất cả điều này đã được nói ra dựa trên nền tảng những lời của Jêsus. Họ đã không có khả năng mở ra một con đường mới, vì tất cả họ đều là những người được Đức Chúa Trời sử dụng.
– Xét về danh xưng và thân phận, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 164
Những lời phán và công tác của Jêsus lúc bấy giờ đã không tuân theo giáo lý, và Ngài đã không thực hiện công tác của Ngài theo công tác của luật pháp trong Cựu Ước. Nó được thực hiện theo công tác phải làm trong Thời đại Ân điển. Ngài đã dốc sức theo công tác mà Ngài đã đưa ra, theo kế hoạch của riêng Ngài, và theo chức vụ của Ngài; Ngài đã không làm việc theo luật pháp của Cựu Ước. Không điều nào Ngài đã làm là theo luật pháp của Cựu Ước, và Ngài đã không đến làm việc để làm ứng nghiệm lời của các tiên tri. Mỗi giai đoạn công tác của Đức Chúa Trời không phải được thực hiện chỉ để làm ứng nghiệm những lời tiên báo của các tiên tri thời xưa, và Ngài đã không tuân theo giáo lý hoặc cố ý hiện thực hóa những lời tiên báo của các tiên tri thời xưa. Tuy nhiên, những hành động của Ngài đã không phá vỡ những lời tiên báo của các nhà tiên tri thời xưa, và chúng cũng không làm nhiễu loạn công tác mà Ngài đã thực hiện trước đây. Điểm nổi bật trong công tác của Ngài là không tuân theo bất kỳ giáo lý nào, mà thay vào đó, thực hiện công tác mà chính Ngài phải làm. Ngài không phải là một nhà tiên tri hoặc nhà tiên kiến, mà là một nhà hoạt động, người đã thực sự đến để làm công tác mà Ngài phải làm, và Ngài đã đến để mở ra kỷ nguyên mới của Ngài và thực hiện công tác mới của Ngài. Dĩ nhiên, khi Jêsus đến để thực hiện công tác của Ngài, Ngài cũng đã làm ứng nghiệm nhiều lời được nói ra bởi các tiên tri thời xưa trong Cựu Ước. Vì vậy, công tác của ngày nay cũng đã ứng nghiệm những lời tiên báo của các tiên tri thời xưa trong Cựu Ước. Chỉ là Ta không ôn lại “quyển niên giám cũ”, chỉ thế thôi. Vì có nhiều việc hơn mà Ta phải làm, có nhiều lời hơn mà Ta phải phán với các ngươi, công tác và những lời này có tầm quan trọng lớn hơn nhiều so với việc giải thích các phân đoạn trong Kinh Thánh, bởi vì công tác như thế không có ý nghĩa hoặc giá trị to lớn cho các ngươi, và không thể giúp các ngươi, hoặc thay đổi các ngươi. Ta dự định làm công tác mới không phải để làm ứng nghiệm bất kỳ phân đoạn nào trong Kinh Thánh. Nếu Đức Chúa Trời chỉ đến thế gian để làm ứng nghiệm lời của các tiên tri thời xưa trong Kinh Thánh, thì ai vĩ đại hơn, Đức Chúa Trời nhập thể hay các tiên tri thời xưa đó? Rốt cuộc, các tiên tri cai quản Đức Chúa Trời, hay Đức Chúa Trời cai quản các tiên tri? Ngươi giải thích những lời này như thế nào?
– Xét về danh xưng và thân phận, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 165
Mỗi bước trong công tác của Đức Chúa Trời đều theo cùng một dòng chảy, và vì vậy trong kế hoạch quản lý sáu nghìn năm của Đức Chúa Trời, mỗi bước đều đã được theo sát bởi bước kế tiếp, từ buổi sáng thế xuyên suốt đến ngày nay. Nếu không có ai dọn đường, thì sẽ không có ai theo sau; vì có những người theo sau, nên có những người dọn đường. Theo cách này, công tác đã được truyền lại, từng bước một. Bước này nối tiếp bước kia, và nếu không có ai mở đường thì sẽ không thể bắt đầu công tác, và Đức Chúa Trời sẽ không có cách nào để đưa công tác của Ngài tiến triển. Không có bước nào mâu thuẫn với bước nào, và từng bước nối tiếp nhau theo chuỗi để tạo thành một dòng chảy; tất cả điều này được thực hiện bởi cùng một Thần. Nhưng bất kể cho dù ai đó mở đường hay tiếp tục công tác của người khác, điều này không quyết định thân phận của họ. Điều này không đúng sao? Giăng đã mở đường, và Jêsus đã tiếp tục công tác của người, vậy điều này có chứng tỏ rằng thân phận của Jêsus thấp hơn của Giăng không? Đức Giê-hô-va đã thực hiện công tác của Ngài trước Jêsus, vậy ngươi có thể nói rằng Đức Giê-hô-va vĩ đại hơn Jêsus không? Cho dù họ đã dọn đường hay tiếp tục công tác của những người khác thì đều không quan trọng; điều quan trọng nhất là thực chất công tác của họ và thân phận mà nó đại diện. Điều này không đúng sao? Vì Đức Chúa Trời đã dự định làm việc giữa con người nên Ngài đã phải dấy lên những người có thể làm công tác dọn đường. Khi Giăng mới bắt đầu rao giảng, người đã nói: “Hãy dọn đường Chúa, Ban bằng các nẻo Ngài”. “Các ngươi phải ăn năn, vì nước thiên đàng đã đến gần!” Người đã nói như vậy ngay từ đầu, và tại sao người có thể nói những lời này? Xét về thứ tự mà những lời này được nói ra, chính Giăng là người đầu tiên nói về Phúc Âm của thiên quốc, và Jêsus là người đã phán sau đó. Theo các quan niệm của con người, chính Giăng là người đã mở ra con đường mới, và vì thế, dĩ nhiên Giăng vĩ đại hơn Jêsus. Nhưng Giăng đã không nói mình là Đấng Christ, và Đức Chúa Trời đã không làm chứng cho người là Con yêu dấu của Đức Chúa Trời, mà chỉ đơn thuần dùng người để mở đường và chuẩn bị sẵn con đường cho Chúa. Người đã dọn đường cho Jêsus, nhưng đã không thể làm việc thay mặt Jêsus. Mọi công tác của con người cũng đều đã được Đức Thánh Linh duy trì.
Trong thời đại Cựu Ước, chính Đức Giê-hô-va đã dẫn đường, và công tác của Đức Giê-hô-va đã đại diện cho toàn bộ thời đại Cựu Ước, cùng mọi công tác đã được thực hiện ở Y-sơ-ra-ên. Môi-se chỉ đơn thuần duy trì công tác này trên đất, và những công sức của người được xem là sự hợp tác do con người mang lại. Vào lúc đó, chính Đức Giê-hô-va là Đấng đã phán, kêu gọi Môi-se, và Ngài đã dấy Môi-se lên giữa dân Y-sơ-ra-ên, và bắt Môi-se dẫn họ vào đồng vắng vào xứ Ca-na-an. Đây không phải là công tác của chính Môi-se, mà là công tác do đích thân Đức Giê-hô-va chỉ đạo, và vì thế Môi-se không thể được gọi là Đức Chúa Trời. Môi-se cũng đã đặt ra luật pháp, nhưng luật pháp này đã được đích thân Đức Giê-hô-va ban hành. Chỉ là Ngài đã để Môi-se bày tỏ điều đó. Jêsus cũng đã đưa ra các điều răn, và Ngài đã bãi bỏ luật pháp của Cựu Ước và đặt ra các điều răn cho thời đại mới. Tại sao Jêsus lại là chính Đức Chúa Trời? Bởi vì có sự khác biệt. Vào thời điểm đó, công tác do Môi-se thực hiện đã không đại diện cho thời đại, cũng không mở ra một con đường mới; người đã được Đức Giê-hô-va dẫn dắt tiến lên, và chỉ đơn thuần là một người đã được Đức Chúa Trời sử dụng. Khi Jêsus đến, Giăng đã thực hiện một bước của công tác dọn đường, và đã bắt đầu truyền bá Phúc Âm của thiên quốc (Đức Thánh Linh đã bắt đầu việc này). Khi Jêsus đến, Ngài đã trực tiếp làm công tác của chính Ngài, nhưng có một sự khác biệt lớn giữa công tác của Ngài và công tác của Môi-se. Ê-sai cũng đã nói nhiều lời tiên tri, nhưng tại sao người không phải là chính Đức Chúa Trời? Jêsus đã không phán quá nhiều lời tiên tri, nhưng tại sao Ngài lại là chính Đức Chúa Trời? Không ai dám nói rằng mọi công tác của Jêsus lúc bấy giờ đều đến từ Đức Thánh Linh, họ cũng không dám nói tất cả đều xuất phát từ ý muốn của con người, hoặc nó hoàn toàn là công tác của chính Đức Chúa Trời. Con người không có cách nào để phân tích những điều như vậy. Có thể nói rằng Ê-sai đã làm công tác như thế, đã nói những lời tiên tri như thế, và tất cả chúng đều đã đến từ Đức Thánh Linh; chúng đã không đến trực tiếp từ chính Ê-sai, mà là những sự mặc khải từ Đức Giê-hô-va. Jêsus đã không làm khối lượng lớn công việc, và đã không phán nhiều lời, Ngài cũng đã không phán nhiều lời tiên tri. Đối với con người, sự rao giảng của Ngài dường như không được đặc biệt tán dương, nhưng Ngài là chính Đức Chúa Trời, và con người không thể giải thích được điều này. Không ai đã từng tin vào Giăng, hoặc Ê-sai, hoặc Đa-vít, cũng chưa từng có ai đã gọi họ là Đức Chúa Trời, hoặc Đa-vít là Đức Chúa Trời, hoặc Giăng là Đức Chúa Trời; không ai đã từng nói như vậy, và chỉ có Jêsus mới từng được gọi là Đấng Christ. Sự phân loại này được thực hiện theo chứng ngôn của Đức Chúa Trời, công tác mà Ngài đã đảm nhận, và chức vụ mà Ngài đã thực hiện. Xét về những con người vĩ đại trong Kinh Thánh – Áp-ra-ham, Đa-vít, Giô-suê, Đa-ni-ên, Ê-sai, Giăng và Jêsus – thông qua công tác họ đã làm, ngươi có thể nhận ra ai mới là chính Đức Chúa Trời, loại người nào là các tiên tri, và loại nào là các sứ đồ. Ai đã được Đức Chúa Trời sử dụng, và ai là chính Đức Chúa Trời, được phân biệt và quyết định bởi thực chất và loại công tác họ đã làm. Nếu ngươi không thể chỉ ra sự khác biệt, thì điều này chứng tỏ rằng ngươi không biết ý nghĩa của việc tin vào Đức Chúa Trời. Jêsus là Đức Chúa Trời vì Ngài đã phán rất nhiều lời, và đã làm rất nhiều công tác, đặc biệt là việc làm nhiều phép lạ của Ngài. Tương tự, Giăng cũng đã làm nhiều việc và nói nhiều lời, Môi-se cũng vậy; tại sao họ đã không được gọi là Đức Chúa Trời? A-đam đã được tạo dựng trực tiếp bởi Đức Chúa Trời; tại sao người đã không được gọi là Đức Chúa Trời, mà thay vào đó chỉ được gọi là một tạo vật? Nếu ai đó nói với ngươi rằng: “Ngày nay, Đức Chúa Trời đã làm rất nhiều công tác, và đã phán rất nhiều lời; Ngài là chính Đức Chúa Trời. Vậy thì, vì Môi-se đã nói quá nhiều lời, người cũng phải là chính Đức Chúa Trời!” thì ngươi nên hỏi lại họ: “Vào thời điểm đó, tại sao Đức Chúa Trời lại làm chứng cho Jêsus, mà không phải cho Giăng, là chính Đức Chúa Trời? Chẳng phải Giăng đã đến trước Jêsus sao? Điều nào vĩ đại hơn, công tác của Giăng hay Jêsus? Đối với con người, công tác của Giăng dường như vĩ đại hơn của Jêsus, nhưng tại sao Đức Thánh Linh lại làm chứng cho Jêsus, mà không phải cho Giăng?” Điều tương tự cũng đang diễn ra ngày nay! Thời đó, khi Môi-se lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên, Đức Giê-hô-va đã phán với người từ giữa những đám mây. Môi-se đã không nói trực tiếp, mà thay vào đó đã được hướng dẫn trực tiếp bởi Đức Giê-hô-va. Đây là công tác của Y-sơ-ra-ên trong Cựu Ước. Bên trong Môi-se không có Thần, cũng không có hữu thể của Đức Chúa Trời. Người đã không thể làm công tác đó, và vì vậy có một sự khác biệt lớn giữa công tác mà người và Jêsus đã làm. Và đó là vì công tác họ đã làm thì khác nhau! Việc một ai đó được Đức Chúa Trời sử dụng, hoặc là một tiên tri, một sứ đồ, hoặc là chính Đức Chúa Trời, đều có thể được phân biệt qua thực chất công tác của người đó, và điều này sẽ chấm dứt những nghi ngờ của ngươi. Trong Kinh Thánh có viết rằng chỉ Chiên Con mới có thể mở bảy ấn. Trong suốt các thời đại, đã có nhiều nhà chú giải Kinh Thánh trong số những nhân vật vĩ đại đó, và vì vậy ngươi có thể nói rằng tất cả họ đều là Chiên Con sao? Ngươi có thể nói rằng tất cả những lời giải thích của họ đều đến từ Đức Chúa Trời sao? Họ chỉ đơn thuần là những nhà chú giải; họ không có thân phận của Chiên Con. Làm sao họ có thể xứng đáng để mở bảy ấn được? Đúng là “Chỉ Chiên Con mới có thể mở bảy ấn”, nhưng Ngài không chỉ đến để mở bảy ấn; công tác này là không cần thiết, nó được thực hiện một cách tình cờ. Ngài hoàn toàn biết rõ về công tác của chính mình; Ngài có cần phải tốn nhiều thời gian để giải nghĩa Kinh Thánh không? Lẽ nào “thời đại của Chiên Con giải nghĩa Kinh Thánh” phải được thêm vào sáu nghìn năm công tác? Ngài đến để làm công tác mới, nhưng Ngài cũng cung cấp một số sự mặc khải về công tác của những thời đại đã qua, khiến mọi người hiểu được sự thật của sáu nghìn năm công tác. Không cần phải giải thích quá nhiều phân đoạn từ Kinh Thánh; chính công tác của ngày nay mới là then chốt, mới là quan trọng. Ngươi nên biết rằng Đức Chúa Trời không đến chỉ để phá vỡ bảy ấn, mà để làm công tác cứu rỗi.
– Xét về danh xưng và thân phận, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 166
Trong Thời đại Ân điển, Giăng đã dọn đường cho Jêsus. Giăng không thể làm công tác của chính Đức Chúa Trời mà chỉ đơn thuần thực hiện bổn phận của con người. Mặc dù Giăng là đấng tiên phong của Chúa, nhưng ông không thể đại diện cho Đức Chúa Trời; ông chỉ là một con người được Đức Thánh Linh sử dụng. Sau khi Jêsus được làm phép báp-tem, Đức Thánh Linh đã ngự xuống Ngài như chim bồ câu. Sau đó, Ngài đã bắt đầu công tác của mình, nghĩa là Ngài bắt đầu thực hiện chức vụ của Đấng Christ. Đó là lý do Ngài mang thân phận của Đức Chúa Trời, vì Ngài đã đến từ chính Đức Chúa Trời. Bất kể đức tin của Ngài ra sao trước đây – đức tin ấy có thể đôi khi yếu đuối hay đôi khi mạnh mẽ – thì tất cả cũng đều thuộc về đời sống con người bình thường mà Ngài đã sống trước khi thực hiện chức vụ của mình. Sau khi Ngài chịu phép báp-tem (nghĩa là được xức dầu), quyền năng và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời ngay lập tức có trong Ngài, và vì thế, Ngài đã bắt đầu thực hiện chức vụ của mình. Ngài có thể làm những dấu kỳ phép lạ, thực hiện những phép mầu, và Ngài có quyền năng cùng thẩm quyền, vì Ngài đang trực tiếp làm việc nhân danh chính Đức Chúa Trời; Ngài đang làm công tác của Thần thay mặt cho Thần và đang bày tỏ tiếng phán của Thần. Vì vậy, Ngài chính là Đức Chúa Trời; điều này không thể bàn cãi. Giăng là người đã được Đức Thánh Linh sử dụng. Ông không thể đại diện cho Đức Chúa Trời, cũng không có khả năng đại diện cho Đức Chúa Trời. Nếu ông có muốn làm như vậy, Đức Thánh Linh cũng sẽ không cho phép, vì ông không thể làm công tác mà chính Đức Chúa Trời đã dự định hoàn thành. Có lẽ phần nhiều trong ông là ý muốn của con người, hay điều gì đó lệch lạc; trong bất kỳ trường hợp nào, ông cũng không thể trực tiếp đại diện cho Đức Chúa Trời. Những lỗi lầm và sự ngớ ngẩn của ông chỉ đại diện cho bản thân ông, nhưng công việc của ông đại diện cho Đức Thánh Linh. Tuy nhiên, ngươi không thể nói rằng mọi thứ của ông đều đại diện cho Đức Chúa Trời. Lẽ nào sự lệch lạc và sai sót của ông cũng đại diện cho Đức Chúa Trời? Sai sót khi đại diện cho con người là chuyện bình thường, nhưng nếu một người lệch lạc khi đại diện cho Đức Chúa Trời, thì chẳng phải đó sẽ là sỉ nhục Đức Chúa Trời sao? Chẳng phải đó sẽ là sự báng bổ Đức Thánh Linh sao? Đức Thánh Linh không dễ dàng cho phép con người thay thế cho Đức Chúa Trời, ngay cả khi họ được người khác đề cao. Nếu họ không phải là Đức Chúa Trời, cuối cùng họ sẽ không thể đứng vững. Đức Thánh Linh không cho phép con người đại diện cho Đức Chúa Trời theo ý muốn của con người! Chẳng hạn, chính Đức Thánh Linh đã làm chứng cho Giăng và cũng chính Đức Thánh Linh đã mặc khải Giăng sẽ là người dọn đường cho Jêsus, nhưng công tác Đức Thánh Linh thực hiện trên ông đã được cân nhắc kỹ càng. Tất cả những gì yêu cầu ở Giăng là trở thành người dọn đường cho Jêsus, để chuẩn bị con đường cho Ngài. Điều đó có nghĩa là, Đức Thánh Linh chỉ ủng hộ công việc dọn đường của ông và chỉ cho phép ông làm công việc đó – ông không được phép làm công việc nào khác. Giăng đại diện cho Ê-li, và đại diện cho một nhà tiên tri mở đường. Đức Thánh Linh đã ủng hộ ông làm điều này; miễn công việc của ông là mở đường, thì Đức Thánh Linh ủng hộ ông. Tuy nhiên, nếu ông tuyên bố mình là chính Đức Chúa Trời và nói rằng ông đã đến để hoàn thành công tác cứu chuộc, thì Đức Thánh Linh sẽ phải sửa dạy ông. Cho dù công việc của Giăng vĩ đại đến đâu, và dù nó đã được Đức Thánh Linh ủng hộ, nhưng công việc của ông không phải không có ranh giới. Cứ cho rằng Đức Thánh Linh đã thực sự ủng hộ công việc của ông, thì quyền năng ban cho ông vào thời điểm đó chỉ giới hạn trong việc dọn đường. Ông không thể nào làm bất kỳ công việc nào khác, vì ông chỉ là Giăng, người dọn đường, chứ không phải Jêsus. Do đó, lời chứng của Đức Thánh Linh là mấu chốt, nhưng công việc Đức Thánh Linh cho phép con người thực hiện còn quan trọng hơn. Chẳng phải lúc đó Giăng đã nhận được lời chứng vang dội sao? Công việc của ông chẳng phải cũng vĩ đại sao? Nhưng công việc ông đã làm không thể vượt qua công tác của Jêsus, vì ông không hơn gì một con người được Đức Thánh Linh sử dụng và không thể trực tiếp đại diện cho Đức Chúa Trời, và vì vậy, công việc ông làm có hạn. Sau khi ông đã hoàn thành công việc dọn đường, Đức Thánh Linh đã không còn ủng hộ lời chứng của ông, không có công việc mới nào theo sau ông, và ông đã rời đi khi công tác của chính Đức Chúa Trời bắt đầu.
Có một số người bị quỷ dữ ám và kêu gào om sòm rằng: “Ta là Đức Chúa Trời!” Tuy nhiên, cuối cùng họ cũng bị bại lộ, vì họ đã sai về điều họ đại diện. Họ đại diện cho Sa-tan, và Đức Thánh Linh không chú ý gì đến họ. Cho dù ngươi tâng bốc bản thân lên cao đến đâu hay ngươi gào thét mạnh mẽ ra sao, thì ngươi vẫn là một tạo vật và là kẻ thuộc về Sa-tan. Ta không bao giờ gào lên: “Ta là Đức Chúa Trời, Ta là Con yêu dấu của Đức Chúa Trời!” Nhưng công tác Ta làm là công tác của Đức Chúa Trời. Ta có cần phải hét lên không? Không cần phải tâng bốc. Đức Chúa Trời tự làm công tác của riêng Ngài và không cần con người phong cho Ngài một địa vị hay trao cho Ngài một danh hiệu cao quý: công tác của Ngài đại diện cho thân phận và địa vị của Ngài. Trước khi chịu phép báp-tem, chẳng phải Jêsus là chính Đức Chúa Trời sao? Chẳng phải Ngài là xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời sao? Chắc chắn không thể nói rằng chỉ sau khi nhận được lời chứng thì Ngài mới trở thành Con một của Đức Chúa Trời chứ? Rất lâu trước khi Ngài bắt đầu công tác của mình, chẳng phải đã có một người tên là Jêsus rồi sao? Ngươi không thể đưa ra những con đường mới hay đại diện cho Thần được. Ngươi không thể bày tỏ công tác của Thần hay những lời Ngài phán được. Ngươi không thể làm công tác của chính Đức Chúa Trời, và ngươi không thể làm công tác của Thần. Sự khôn ngoan, phép lạ và sự không thể dò lường của Đức Chúa Trời, cùng toàn bộ tâm tính mà qua đó Đức Chúa Trời hành phạt con người – tất cả những điều này đều vượt quá khả năng bày tỏ của ngươi. Vì vậy, sẽ vô ích khi cố gắng tự xưng là Đức Chúa Trời; ngươi sẽ chỉ là hữu danh vô thực. Chính Đức Chúa Trời đã đến, nhưng không ai nhận ra Ngài, tuy vậy Ngài vẫn tiếp tục trong công tác của Ngài và làm việc đại diện cho Thần. Cho dù ngươi gọi Ngài là con người hay Đức Chúa Trời, là Chúa hay Đấng Christ, hay gọi Ngài là chị, thì điều đó không cũng quan trọng. Nhưng công tác Ngài làm là của Thần và đại diện cho công tác của chính Đức Chúa Trời. Ngài không quan tâm đến danh xưng con người gọi Ngài. Liệu danh xưng đó có thể quyết định công tác của Ngài không? Bất kể ngươi gọi Ngài là gì, khi nói đến Đức Chúa Trời, Ngài là xác thịt nhập thể của Thần Đức Chúa Trời; Ngài đại diện cho Thần và được Thần chấp thuận. Nếu ngươi không thể dọn đường cho một thời đại mới, hay kết thúc thời đại cũ, hay mở ra một thời đại mới, hay làm công tác mới, thì ngươi không thể được gọi là Đức Chúa Trời!
– Lẽ mầu nhiệm của sự nhập thể (1), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 167
Ngay cả một người được Đức Thánh Linh sử dụng cũng không thể đại diện cho chính Đức Chúa Trời. Điều này không chỉ có nghĩa là một người như vậy không thể đại diện cho Đức Chúa Trời, mà còn có nghĩa là công việc họ làm không thể đại diện trực tiếp cho Đức Chúa Trời. Nói cách khác, kinh nghiệm của con người không thể được đưa trực tiếp vào trong sự quản lý của Đức Chúa Trời, và nó không thể đại diện cho sự quản lý của Đức Chúa Trời. Công tác chính Đức Chúa Trời thực hiện hoàn toàn là công tác Ngài dự định làm trong kế hoạch quản lý của chính Ngài và nó gắn liền với sự quản lý vĩ đại. Công việc được con người thực hiện bao gồm việc cung cấp kinh nghiệm cá nhân của họ. Nó bao gồm việc tìm ra một con đường trải nghiệm mới vượt ra khỏi con đường mà những người đi trước đã bước, và việc hướng dẫn anh chị em của họ dưới sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh. Những gì mà những người này cung cấp là kinh nghiệm cá nhân của họ hoặc các tác phẩm tâm linh của những con người thuộc linh. Mặc dù những người này được Đức Thánh Linh sử dụng, nhưng công việc họ làm không liên quan đến công tác quản lý vĩ đại trong kế hoạch 6.000 năm. Họ chỉ đơn thuần là những người đã được Đức Thánh Linh dấy lên trong các thời kỳ khác nhau để dẫn dắt mọi người trong dòng chảy của Đức Thánh Linh, cho đến khi kết thúc các chức năng họ có thể thực hiện hoặc cho đến khi kết thúc cuộc đời họ. Công việc họ làm chỉ là chuẩn bị một con đường thích hợp cho chính Đức Chúa Trời hoặc tiếp tục một khía cạnh nhất định trong sự quản lý của chính Đức Chúa Trời trên đất. Tự bản thân họ, những người này không thể làm công tác quản lý vĩ đại hơn của Ngài, họ cũng chẳng thể mở ra những lối thoát mới, càng chẳng có ai trong số họ có thể khép lại tất cả công tác của Đức Chúa Trời từ thời đại trước. Do đó, công việc họ làm chỉ đại diện cho một tạo vật đang thực hiện chức năng của mình và không thể đại diện cho chính Đức Chúa Trời thực hiện chức vụ của Ngài. Điều này là do công việc họ làm không giống với công tác do chính Đức Chúa Trời làm. Công tác mở ra một thời đại mới không phải là điều con người có thể thực hiện thay cho Đức Chúa Trời. Nó không thể được thực hiện bởi bất kỳ ai khác ngoài chính Đức Chúa Trời. Tất cả các công việc do con người thực hiện bao gồm việc thực hiện bổn phận của họ như một tạo vật và được thực hiện khi họ được Đức Thánh Linh cảm thúc hoặc khai sáng. Sự hướng dẫn những người này cung cấp chỉ bao gồm việc cho con người thấy con đường thực hành trong đời sống hàng ngày và cách họ nên hành động cho hòa hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời. Công việc của con người không liên quan đến sự quản lý của Đức Chúa Trời, cũng không đại diện cho công tác của Thần. Ví dụ, công việc của Lý Thường Thụ và Nghê Thác Thanh là dẫn đường. Dù là con đường mới hay cũ, công việc đó cũng dựa trên nguyên tắc không vượt quá phạm vi Kinh Thánh. Dù là để khôi phục hội thánh địa phương hay xây dựng hội thánh địa phương, công việc của họ phải liên quan đến việc thiết lập các hội thánh. Công việc họ làm đã tiếp nối công tác còn dang dở hoặc chưa được phát triển thêm của Jêsus và các sứ đồ của Ngài trong Thời đại Ân điển. Những gì họ đã làm trong công việc của mình là khôi phục lại những gì Jêsus trong công tác lúc bấy giờ của Ngài đã yêu cầu đối với những thế hệ sau Ngài, như trùm đầu, nhận phép báp-tem, bẻ bánh, hoặc uống rượu. Có thể nói rằng công việc của họ là tuân giữ Kinh Thánh và tìm kiếm những con đường bên trong Kinh Thánh. Họ không tạo nên bất kỳ một bước tiến mới nào dưới bất kỳ hình thức nào. Do đó, người ta chỉ có thể thấy trong công việc của họ sự khám phá ra những con đường mới bên trong Kinh Thánh, cũng như những sự thực hành tốt hơn và thực tế hơn. Nhưng người ta không thể tìm thấy trong công việc của họ ý muốn hiện tại của Đức Chúa Trời, càng không thể tìm thấy công tác mới mà Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt dự định làm. Đó là bởi con đường họ đã bước đi vẫn là một con đường cũ – không có sự đổi mới và không có sự tiến bộ nào. Họ tiếp tục bám vào sự thật Jêsus bị đóng đinh trên thập tự giá, để giữ tục lệ yêu cầu mọi người ăn năn và xưng tội, bám chặt lấy những câu nói rằng người chịu đựng đến cùng sẽ được cứu rỗi, rằng người nam là đầu của người nữ, và người nữ phải vâng lời chồng mình, và thậm chí còn theo quan niệm truyền thống rằng chị em không thể thuyết giảng, mà chỉ được vâng lời. Nếu cách thức lãnh đạo như vậy tiếp tục được tuân giữ, thì Đức Thánh Linh hẳn đã không bao giờ có thể thực hiện công tác mới, giải phóng mọi người khỏi những phép tắc, hay dẫn dắt họ vào một cõi tự do và đẹp đẽ. Do đó, giai đoạn công tác này, công tác làm thay đổi thời đại đòi hỏi rằng chính Đức Chúa Trời phải làm việc và phán dạy; nếu không thì không ai có thể làm thay cho Ngài. Cho đến nay, tất cả các công tác của Đức Thánh Linh bên ngoài dòng chảy này đều đi vào bế tắc, và những người được Đức Thánh Linh sử dụng đã mất phương hướng. Do đó, vì công việc của những người được Đức Thánh Linh sử dụng không giống với công tác do chính Đức Chúa Trời thực hiện, nên thân phận của họ và chủ thể mà họ thay mặt hành động cũng khác nhau. Đó là bởi các công tác Đức Thánh Linh dự định thực hiện là khác nhau, và vì lý do này, những người làm công việc giống nhau được ban cho thân phận và địa vị khác nhau. Những người được Đức Thánh Linh sử dụng cũng có thể làm một số công việc mới và cũng có thể loại bỏ một số công việc đã được thực hiện trong thời đại trước, nhưng những gì họ làm không thể bày tỏ tâm tính và ý muốn của Đức Chúa Trời trong thời đại mới. Họ làm việc chỉ để loại bỏ công việc của thời đại cũ, chứ không phải để làm công việc mới với mục đích trực tiếp đại diện cho tâm tính của chính Đức Chúa Trời. Do đó, cho dù họ có bãi bỏ bao nhiêu sự thực hành lỗi thời hay họ có đưa ra bao nhiêu sự thực hành mới đi nữa, thì họ vẫn đại diện cho con người và những tạo vật. Tuy nhiên, khi chính Đức Chúa Trời thực hiện công tác, Ngài không công khai tuyên bố bãi bỏ những sự thực hành của thời đại cũ hay trực tiếp tuyên bố bắt đầu một thời đại mới. Ngài trực tiếp và thẳng thắn trong công tác của Ngài. Ngài quả quyết trong việc thực hiện công tác Ngài dự định làm; nghĩa là, Ngài trực tiếp bày tỏ công tác mà Ngài đã mang đến, trực tiếp thực hiện công tác của Ngài như dự định ban đầu, bày tỏ hữu thể và tâm tính của Ngài. Như con người thấy, tâm tính Ngài và công tác của Ngài cũng khác với các thời đại trước. Tuy nhiên, từ góc độ của chính Đức Chúa Trời, đây chỉ đơn thuần là sự tiếp nối và phát triển thêm công tác Ngài. Khi chính Đức Chúa Trời làm việc, Ngài bày tỏ lời Ngài và trực tiếp mang đến công tác mới. Ngược lại, khi con người làm việc, đó là thông qua sự xem xét kỹ lưỡng và nghiên cứu, hoặc đó là một sự mở rộng kiến thức và hệ thống hóa việc thực hành dựa trên công trình của người khác. Điều đó có nghĩa là, bản chất của công việc do con người thực hiện là tuân theo một trật tự đã định sẵn và “đi những con đường cũ trong đôi giày mới”. Điều này có nghĩa là ngay cả con đường mà những người được Đức Thánh Linh sử dụng đã đi cũng được xây trên con đường do chính Đức Chúa Trời đã mở ra. Vì vậy, xét cho cùng, con người vẫn là con người, và Đức Chúa Trời vẫn là Đức Chúa Trời.
– Lẽ mầu nhiệm của sự nhập thể (1), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 168
Giăng đã được sinh ra theo lời hứa, cũng giống như Y-sác đã được sinh ra cho Áp-ra-ham. Ông đã dọn đường cho Jêsus và làm nhiều việc, nhưng ông không phải là Đức Chúa Trời. Thay vào đó, ông là một trong các tiên tri, bởi vì ông chỉ dọn đường cho Jêsus mà thôi. Công việc của ông cũng vĩ đại, và chỉ sau khi ông đã dọn đường xong, Jêsus mới chính thức bắt đầu công tác của Ngài. Về bản chất, ông chỉ đơn giản là dốc sức cho Jêsus, và công việc ông đã làm phục vụ cho công tác của Jêsus. Sau khi ông hoàn thành việc dọn đường, Jêsus đã bắt đầu công tác của Ngài, công tác mới hơn, cụ thể hơn, và chi tiết hơn. Giăng chỉ làm phần đầu của công tác; phần lớn công tác mới do Jêsus thực hiện. Giăng cũng làm công việc mới, nhưng ông không phải là người mở ra một thời đại mới. Giăng đã được sinh ra theo lời hứa, và tên của ông được thiên sứ đặt cho. Vào thời điểm đó, một số người muốn đặt tên cho ông theo tên cha của ông là Xa-cha-ri, nhưng mẹ ông đã lên tiếng phản đối: “Đứa trẻ này không thể được gọi bằng tên đó. Nó phải được gọi là Giăng”. Toàn bộ việc này đều theo lệnh của Đức Thánh Linh. Jêsus cũng đã được đặt tên theo lệnh của Đức Thánh Linh, Ngài đã được sinh ra từ Đức Thánh Linh, và Ngài đã được hứa bởi Đức Thánh Linh. Jêsus là Đức Chúa Trời, Đấng Christ, và là Con người. Nhưng công việc của Giăng cũng vĩ đại, tại sao ông không được gọi là Đức Chúa Trời? Chính xác thì sự khác biệt giữa công tác do Jêsus thực hiện và công việc do Giăng thực hiện là gì? Có phải chỉ vì Giăng là người dọn đường cho Jêsus không? Hay bởi vì điều này đã được Đức Chúa Trời định trước? Mặc dù Giăng cũng đã nói: “Các ngươi phải ăn năn, vì nước thiên đàng đã đến gần”, và ông cũng đã rao giảng Phúc Âm về vương quốc thiên đàng, nhưng công việc của ông không được phát triển thêm mà chỉ đơn thuần là một sự khởi đầu. Ngược lại, Jêsus đã mở ra một thời đại mới cũng như kết thúc thời đại cũ, nhưng Ngài cũng đã thực thi luật pháp của Cựu Ước. Công tác Ngài đã làm vĩ đại hơn của Giăng, và hơn thế nữa, Ngài đã đến để cứu chuộc toàn thể nhân loại – Ngài đã hoàn thành giai đoạn công tác đó. Về phần Giăng, ông chỉ đơn giản là chuẩn bị con đường. Mặc dù công việc của ông vĩ đại, những lời của ông cũng nhiều, và những môn đệ đã theo ông rất đông, nhưng công việc của ông chỉ là mang đến cho con người một sự khởi đầu mới. Con người không bao giờ nhận được từ ông sự sống, đường đi, hay những lẽ thật sâu nhiệm hơn, con người cũng không đạt được một sự hiểu biết về ý muốn của Đức Chúa Trời thông qua ông. Giăng là một tiên tri vĩ đại (Ê-li), người đã mở ra một nền tảng mới cho công tác của Jêsus và chuẩn bị những người được chọn; ông là đấng tiên phong của Thời đại Ân điển. Những vấn đề như vậy không thể nhận ra được chỉ bằng cách quan sát vẻ ngoài con người bình thường của họ. Điều này càng đúng hơn bởi vì Giăng cũng đã làm công việc khá lớn, và hơn nữa, ông đã được hứa bởi Đức Thánh Linh, và công việc của ông đã được Đức Thánh Linh ủng hộ. Vì vậy, chỉ thông qua công việc họ làm, người ta mới có thể phân biệt được thân phận tương ứng của họ, vì không có cách nào để xác định thực chất của một người từ vẻ bề ngoài của họ, cũng không có bất kỳ cách nào để con người xác định được đâu là lời chứng của Đức Thánh Linh. Công việc do Giăng thực hiện và công tác do Jêsus thực hiện không giống nhau và mang bản chất khác nhau. Chính từ đó người ta có thể xác định Giăng có phải là Đức Chúa Trời hay không. Công tác của Jêsus là khởi đầu, tiếp tục, kết thúc và thành tựu. Ngài đã thực hiện từng bước này, trong khi công việc của Giăng chỉ là khởi đầu. Ban đầu, Jêsus đã rao truyền Phúc Âm và rao giảng con đường của sự ăn năn, sau đó làm phép báp-tem cho con người, chữa lành người bệnh, và đuổi quỷ. Cuối cùng, Ngài đã cứu chuộc loài người khỏi tội lỗi và hoàn thành công tác của Ngài cho cả thời đại. Ngài cũng đã đi khắp nơi rao giảng cho con người và truyền bá Phúc Âm của vương quốc thiên đàng. Về điểm này, Ngài và Giăng giống nhau, sự khác biệt là Jêsus đã mở ra một thời đại mới và mang đến Thời đại Ân điển cho con người. Từ miệng Ngài phán ra lời về những gì con người nên thực hành và con đường mà con người nên đi theo trong Thời đại Ân điển, và cuối cùng, Ngài đã hoàn thành công tác cứu chuộc. Giăng không bao giờ có thể thực hiện công tác này. Và vì vậy, chính Jêsus đã làm công tác của chính Đức Chúa Trời, Ngài chính là Đức Chúa Trời, và là Đấng trực tiếp đại diện cho Đức Chúa Trời. Quan niệm của con người cho rằng tất cả những ai được sinh ra theo lời hứa, được sinh ra từ Thần, được Đức Thánh Linh ủng hộ, và những người mở ra những lối thoát mới đều là Đức Chúa Trời. Theo lý luận này, Giăng cũng sẽ là Đức Chúa Trời, và Môi-se, Áp-ra-ham và Đa-vít…, tất cả họ cũng sẽ là Đức Chúa Trời. Đây chẳng phải là một trò đùa quá lố hay sao?
– Lẽ mầu nhiệm của sự nhập thể (1), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 169
Một số người có thể tự hỏi: “Tại sao thời đại phải được chính Đức Chúa Trời mở ra? Một tạo vật không thể thay mặt cho Ngài được sao?” Tất cả các ngươi đều biết rằng Đức Chúa Trời trở nên xác thịt vì mục đích rõ ràng là mở ra một thời đại mới, và tất nhiên, khi Ngài mở ra một thời đại mới, Ngài sẽ đồng thời kết thúc thời đại cũ. Đức Chúa Trời là Đầu Tiên và Cuối Cùng; chính Ngài là Đấng khởi động công tác của Ngài và vì vậy, chính Ngài phải là Đấng kết thúc thời đại cũ. Đó là bằng chứng về việc Ngài đánh bại Sa-tan và về việc chinh phục thế gian của Ngài. Mỗi lần chính Ngài làm việc giữa con người, đó đều là sự khởi đầu của một trận chiến mới. Không có sự khởi đầu của công tác mới, đương nhiên sẽ không có sự kết thúc của công tác cũ. Và khi không có sự kết thúc của công tác cũ, đây là bằng chứng cho thấy trận chiến với Sa-tan vẫn chưa đi đến kết thúc. Chỉ khi chính Đức Chúa Trời đến và thực hiện công tác mới giữa con người, thì con người mới có thể hoàn toàn thoát khỏi quyền lực của Sa-tan và có được một đời sống mới và một khởi đầu mới. Nếu không, con người sẽ mãi mãi sống trong thời đại cũ và mãi mãi sống dưới ảnh hưởng cũ của Sa-tan. Với mỗi thời đại được Đức Chúa Trời dẫn dắt, một bộ phận nhân loại được giải phóng, và do đó, con người tiến tới cùng với công tác của Đức Chúa Trời hướng đến thời đại mới. Chiến thắng của Đức Chúa Trời có nghĩa là một chiến thắng dành cho tất cả những ai theo Ngài. Nếu loài người thọ tạo được giao nhiệm vụ kết thúc thời đại, thì trong mắt con người hay Sa-tan, việc này sẽ không khác gì một hành động chống đối hay phản bội Đức Chúa Trời, không phải là một hành động vâng lời Đức Chúa Trời, và công việc của con người sẽ trở thành một công cụ cho Sa-tan. Chỉ khi con người vâng lời và đi theo Đức Chúa Trời trong một thời đại do chính Đức Chúa Trời mở ra, thì Sa-tan mới có thể bị thuyết phục hoàn toàn, vì đó là bổn phận của một tạo vật. Vì vậy, Ta phán rằng các ngươi chỉ cần đi theo và vâng lời, không đòi hỏi thêm gì ở các ngươi. Điều này có nghĩa là mỗi người giữ đúng bổn phận của mình và mỗi người thực hiện chức năng tương ứng của mình. Đức Chúa Trời làm công tác riêng của Ngài và không cần con người làm điều đó thay Ngài, Ngài cũng không tham gia vào công việc của các tạo vật. Con người thực hiện bổn phận của riêng mình và không tham gia vào công tác của Đức Chúa Trời. Chỉ đây mới là sự vâng lời, và là bằng chứng về sự thất bại của Sa-tan. Sau khi chính Đức Chúa Trời đã hoàn tất việc mở ra thời đại mới, Ngài không còn ngự xuống để làm việc giữa loài người nữa. Chỉ khi đó con người mới chính thức bước vào thời đại mới để thực hiện bổn phận của mình và thực hiện sứ mệnh của mình như một tạo vật. Đây là những nguyên tắc Đức Chúa Trời làm việc, mà không ai có thể vi phạm. Chỉ làm việc theo cách này mới là đúng đắn và hợp lý. Công tác của Đức Chúa Trời phải do chính Đức Chúa Trời thực hiện. Chính Ngài là Đấng khởi động công tác của mình, và chính Ngài là Đấng kết thúc công tác của mình. Chính Ngài là Đấng hoạch định công tác, và chính Ngài là Đấng quản lý nó, và còn hơn thế nữa, chính Ngài là Đấng mang lại thành quả cho công tác. Như đã nói trong Kinh Thánh: “Ta là Đầu Tiên và Cuối Cùng; Ta là Người Gieo và Người Gặt”. Tất cả những gì liên quan đến công tác quản lý của Đức Chúa Trời đều do chính Ngài thực hiện. Ngài là Đấng Cai Trị kế hoạch quản lý 6.000 năm; không ai có thể làm công tác của Ngài thay cho Ngài và không ai có thể kết thúc công tác của Ngài, vì chính Ngài là Đấng nắm giữ mọi thứ trong tay Ngài. Khi đã dựng nên thế giới, Ngài sẽ dẫn dắt toàn bộ thế giới sống trong sự sáng của Ngài, và Ngài cũng sẽ kết thúc toàn bộ thời đại, qua đó mang lại thành quả cho toàn bộ kế hoạch của Ngài!
– Lẽ mầu nhiệm của sự nhập thể (1), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 170
Toàn bộ tâm tính của Đức Chúa Trời đã được tỏ lộ trong tiến trình của kế hoạch quản lý sáu nghìn năm. Nó được tỏ lộ không chỉ trong Thời đại Ân điển, cũng không chỉ trong Thời đại Luật pháp, càng không chỉ trong giai đoạn này của thời kỳ sau rốt. Công tác được thực hiện trong thời kỳ sau rốt đại diện cho sự phán xét, thịnh nộ và hành phạt. Công tác được thực hiện trong thời kỳ sau rốt không thể thay thế công tác của Thời đại Luật pháp hoặc của Thời đại Ân điển. Tuy nhiên, ba giai đoạn liên kết với nhau tạo thành một thực thể, và tất cả đều là công tác của một Đức Chúa Trời. Đương nhiên, việc thực hiện công tác này được chia thành các thời đại riêng biệt. Công tác được thực hiện trong thời kỳ sau rốt kết thúc mọi thứ; công tác được thực hiện trong Thời đại Luật pháp là công tác khởi đầu; và công tác được thực hiện trong Thời đại Ân điển là công tác cứu chuộc. Đối với các khải tượng về công tác trong toàn bộ kế hoạch quản lý sáu nghìn năm này, không ai có thể đạt được sự thông sáng hoặc hiểu biết, và các khải tượng này vẫn còn là những bí ẩn. Trong thời kỳ sau rốt, chỉ có công tác của lời được thực hiện để mở ra Thời đại Vương quốc, nhưng nó không đại diện cho mọi thời đại. Thời kỳ sau rốt chỉ là thời kỳ sau rốt không hơn và chỉ là Thời đại Vương quốc không hơn, và nó không đại diện cho Thời đại Ân điển hay Thời đại Luật pháp. Chỉ là, trong thời kỳ sau rốt, mọi công tác trong kế hoạch quản lý sáu nghìn năm được tiết lộ cho các ngươi. Đây là sự vén mở lẽ mầu nhiệm. Loại mầu nhiệm này là điều không thể được vén mở bởi bất kỳ con người nào. Cho dù con người có sự hiểu biết về Kinh Thánh nhiều đến đâu, nó vẫn chẳng là gì hơn ngôn từ, vì con người không hiểu được thực chất của Kinh Thánh. Khi đọc Kinh Thánh, con người có thể hiểu một vài lẽ thật, giải thích một vài từ, hoặc đưa một số đoạn và chương nổi tiếng ra soi xét vụn vặt, nhưng họ sẽ không bao giờ có thể bóc tách được ý nghĩa chứa đựng bên trong những lời đó, vì mọi thứ mà con người nhìn thấy đều là những ngôn từ chết, không phải là những cảnh tượng về công tác của Đức Giê-hô-va và của Jêsus, và con người không có cách nào làm sáng tỏ lẽ mầu nhiệm của công tác này. Do đó, lẽ mầu nhiệm của kế hoạch quản lý sáu nghìn năm là lẽ mầu nhiệm lớn nhất, ẩn sâu nhất, và hoàn toàn không thể dò lường đối với con người. Không ai có thể trực tiếp nắm bắt được ý muốn của Đức Chúa Trời, trừ phi chính Đức Chúa Trời giải thích và tiết lộ nó cho con người; nếu không, những điều này sẽ vẫn mãi mãi là những bí ẩn đối với con người, vẫn mãi mãi là những lẽ mầu nhiệm sâu kín. Không cần nói đến những người trong giới tôn giáo; nếu hôm nay các ngươi không được nói cho biết, các ngươi cũng sẽ không nắm bắt được nó. Công tác của sáu nghìn năm này còn mầu nhiệm hơn mọi lời tiên tri của các tiên tri. Đó là lẽ mầu nhiệm vĩ đại nhất từ khi sáng thế cho đến nay, và không ai trong số các tiên tri trong mọi thời đại từng có thể dò lường được nó, vì lẽ mầu nhiệm này chỉ được vén mở trong thời đại cuối cùng và chưa từng được tiết lộ trước đây. Nếu các ngươi có thể nắm bắt được lẽ mầu nhiệm này, và nếu các ngươi có thể đón nhận được toàn bộ điều đó, thì tất cả những người theo tôn giáo sẽ được lẽ mầu nhiệm này chinh phục. Chỉ đây mới là khải tượng vĩ đại nhất trong tất cả; nó chính là điều con người mong mỏi nắm bắt nhất nhưng cũng là điều không rõ ràng nhất đối với họ. Khi các ngươi ở trong Thời đại Ân điển, các ngươi không biết công tác Jêsus đã làm là gì hoặc công tác Đức Giê-hô-va đã làm là gì. Mọi người đã không hiểu tại sao Đức Giê-hô-va lại đặt ra luật pháp, tại sao Ngài lại yêu cầu dân chúng giữ luật pháp hoặc tại sao đền thờ phải được xây dựng, và mọi người càng không hiểu được tại sao dân Y-sơ-ra-ên được dẫn từ Ê-díp-tô vào đồng vắng rồi sau đó đến Ca-na-an. Mãi cho đến ngày nay, những vấn đề này mới được tiết lộ.
– Lẽ mầu nhiệm của sự nhập thể (4), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 171
Không ai có thể sống một cách độc lập ngoại trừ những người được sự chỉ dẫn và dìu dắt bởi Đức Thánh Linh, bởi họ cần đến chức vụ và sự chăn dắt của những người được Đức Chúa Trời dùng. Như vậy, trong mỗi thời đại Đức Chúa Trời đều lập nên những người khác nhau, những người hối hả bận rộn trong việc chăn dắt các hội thánh vì công tác của Ngài. Điều này có nghĩa rằng, công tác của Đức Chúa Trời phải được thực hiện bởi những người Ngài hài lòng và chấp nhận; Đức Thánh Linh phải sử dụng cái phần trong họ đáng được dùng để Đức Thánh Linh làm việc, và thông qua việc được Đức Thánh Linh làm cho hoàn thiện, họ đã được làm cho phù hợp để Đức Chúa Trời sử dụng. Vì khả năng để hiểu biết của con người rất thiếu sót, nên con người phải được dẫn dắt bởi những người được Đức Chúa Trời sử dụng; tương tự như việc Đức Chúa Trời dùng Môi-se, người mà Ngài thấy rất phù hợp để dùng vào lúc đó, và đã được Ngài dùng để làm công tác của Ngài trong suốt giai đoạn ấy. Trong giai đoạn này, Đức Chúa Trời dùng một con người và đồng thời cũng tận dụng phần có thể được sử dụng bởi Đức Thánh Linh trong người đó để làm công việc, và Đức Thánh Linh hướng dẫn người đó và đồng thời cũng khiến phần không dùng được còn lại trở nên trọn vẹn.
Công việc được thực hiện bởi người được Đức Chúa Trời sử dụng là để hợp tác với công việc của Đấng Christ hay của Đức Thánh Linh. Người này được Đức Chúa Trời dựng nên giữa con người, để dẫn dắt tất cả những người được Đức Chúa Trời chọn, và người này cũng được Đức Chúa Trời dựng nên để làm công việc hợp tác với con người. Với một người có khả năng thực hiện công việc hợp tác giữa con người như thế, những yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người và công tác của Đức Thánh Linh phải làm giữa con người có thể được thành toàn nhiều hơn qua họ. Điều này nói một cách khác, chính là: Mục tiêu của Đức Chúa Trời trong việc dùng con người này là để cho tất cả những người theo Đức Chúa Trời có thể hiểu rõ hơn ý muốn của Ngài, và đạt được nhiều hơn những đòi hỏi của Đức Chúa Trời. Vì con người không có khả năng hiểu một cách trực tiếp lời Đức Chúa Trời hay ý muốn của Ngài, cho nên Đức Chúa Trời đã lập nên một người được dùng để thực hiện công việc như thế. Người được Đức Chúa Trời sử dụng này có thể được mô tả như là một phương tiện, mà qua đó Đức Chúa Trời hướng dẫn con người, với tư cách “người phiên dịch” liên lạc giữa Đức Chúa Trời và con người. Do đó, một người như thế khác với những người làm việc trong nhà Đức Chúa Trời hay những người là sứ đồ của Ngài. Giống như họ, người này có thể được gọi là người hầu việc Đức Chúa Trời, nhưng trong thực chất công việc của người đó và bối cảnh được Đức Chúa Trời dùng khác hơn rất nhiều so với những người làm công và các sứ đồ khác. Về mặt thực chất của công việc và bối cảnh được sử dụng, người được Đức Chúa Trời dùng được Ngài lập nên, được Đức Chúa Trời chuẩn bị cho công việc của Ngài và người này phối hợp trong công việc của chính Đức Chúa Trời. Không ai có thể làm thay cho công việc của người này bao giờ – đây là sự phối hợp của con người, không thể thiếu bên cạnh công việc thần thánh. Trong khi đó, công việc được những người làm công hay các sứ đồ khác thực hiện chỉ là truyền đạt và triển khai sự sắp xếp về nhiều phương diện cho các hội thánh trong mỗi giai đoạn, hoặc chỉ là công việc chu cấp sự sống đơn giản để duy trì đời sống hội thánh. Những người làm công và các sứ đồ ấy không được Đức Chúa Trời chỉ định, huống gì là có thể được gọi là người được Đức Thánh Linh sử dụng. Họ được chọn lựa từ trong các hội thánh, và sau khi được rèn tập và được bồi dưỡng một thời gian, những người thích hợp tiếp tục, còn những người không thích hợp bị trả về nơi xuất phát. Vì những người này được chọn lựa giữa các hội thánh, nên có một số phô bày bản chất thật của họ sau khi trở thành người lãnh đạo, và một số thậm chí làm nhiều điều xấu và sau cùng bị loại bỏ. Người được Đức Chúa Trời dùng, mặt khác, chính là người được Đức Chúa Trời chuẩn bị, là người sở hữu một tố chất nhất định và có nhân tính. Họ đã được Đức Thánh Linh chuẩn bị và được làm cho hoàn thiện từ trước, và hoàn toàn được Đức Thánh Linh dẫn dắt, và đặc biệt khi nói đến công việc của họ, họ được Đức Thánh Linh hướng dẫn và điều khiển – kết quả của việc này là chẳng có sự sai lệch nào trên con đường dẫn dắt những người được Đức Chúa Trời chọn, vì Đức Chúa Trời chắc chắn chịu trách nhiệm về công việc của chính Ngài, và Đức Chúa Trời luôn làm công việc của chính Ngài.
– Về việc Đức Chúa Trời sử dụng con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 172
Công tác trong dòng chảy của Đức Thánh Linh, bất kể là công tác của riêng Đức Chúa Trời hay công việc của những người được sử dụng, thì vẫn là công tác của Đức Thánh Linh. Thực chất của chính Đức Chúa Trời là Thần, có thể gọi là Đức Thánh Linh hay Thần uy lực gấp bảy lần. Nói chung, Họ đều là Thần của Đức Chúa Trời, cho dù Thần của Đức Chúa Trời đã được gọi bằng các danh xưng khác nhau trong các thời đại khác nhau. Thực chất của Họ vẫn là một. Vì thế, công tác của chính Đức Chúa Trời là công tác của Đức Thánh Linh, trong khi công tác của Đức Chúa Trời nhập thể không gì khác hơn là Đức Thánh Linh đang làm việc. Công tác của những người được sử dụng cũng là công tác của Đức Thánh Linh. Tuy nhiên, công tác của Đức Chúa Trời là sự bày tỏ trọn vẹn của Đức Thánh Linh, điều tuyệt đối đúng, trong khi công việc của những người được sử dụng thì bị lẫn lộn với nhiều thứ của con người, và không phải là sự bày tỏ trực tiếp của Đức Thánh Linh, huống hồ là sự bày tỏ trọn vẹn của Ngài. Công tác của Đức Thánh Linh đa dạng và không bị giới hạn bởi bất cứ điều kiện gì. Công tác của Đức Thánh Linh biến đổi ở những người khác nhau; thể hiện các bản chất khác nhau, và khác nhau theo thời đại, cũng như theo quốc gia. Dĩ nhiên, mặc dù Đức Thánh Linh làm việc bằng nhiều phương cách khác nhau và theo nhiều nguyên tắc, nhưng bất kể công tác được thực hiện như thế nào hay trên loại người nào, thì bản chất của nó luôn khác nhau; tất cả những công tác được thực hiện trên những người khác nhau đều có nguyên tắc của chúng, và hết thảy đều có thể đại diện cho bản chất đối tượng của chúng. Đó là bởi công tác của Đức Thánh Linh khá cụ thể về phạm vi và khá cân nhắc. Công tác được thực hiện trong xác thịt nhập thể không giống như công tác được thực hiện trên con người, và công tác cũng biến đổi theo tố chất của người mà nó được tiến hành. Công tác thực hiện trong xác thịt nhập thể thì không được thực hiện trên con người, và nó không phải là cùng công tác được thực hiện trên con người. Nói tóm lại, bất kể được làm như thế nào, công tác được thực hiện trên những đối tượng khác nhau thì không bao giờ giống nhau, và các nguyên tắc Ngài làm việc thay đổi theo tình trạng và bản tính của những người khác nhau mà Ngài làm việc. Đức Thánh Linh làm việc trên những người khác nhau dựa trên thực chất vốn có của họ và không đòi hỏi ở họ nhiều hơn thực chất đó, Ngài cũng không làm công tác trên họ vượt quá tố chất vốn có của họ. Vì vậy, công tác của Đức Thánh Linh trên con người cho phép mọi người thấy được bản chất của đối tượng công tác đó. Bản chất vốn có của con người không thay đổi; tố chất vốn có của họ thì hạn chế. Đức Thánh Linh sử dụng con người hay làm việc trên họ phù hợp với những hạn chế trong tố chất của họ, hầu cho họ có thể được lợi từ việc đó. Khi Đức Thánh Linh làm việc trên những người được sử dụng, tài năng và tố chất vốn có của những người đó được giải phóng, không bị kìm hãm. Tố chất vốn có của họ được phát huy trong việc phụng sự cho công tác. Có thể nói rằng Ngài sử dụng những phần của con người mà có thể sử dụng được trong công tác của Ngài, nhằm đạt được kết quả trong công tác đó. Ngược lại, công tác được thực hiện trong xác thịt nhập thể thì trực tiếp thể hiện công tác của Thần và không bị pha trộn với tâm trí và những suy nghĩ của con người; những ân tứ, kinh nghiệm hay trạng thái bẩm sinh của con người đều không thể đạt được việc đó. Hết thảy vô vàn công tác của Đức Thánh Linh đều là để làm lợi và khai trí cho con người. Tuy nhiên, một số người có thể được hoàn thiện trong khi những người khác không sở hữu những điều kiện để được hoàn thiện, có nghĩa là họ không thể được hoàn thiện và khó có thể được cứu rỗi, và cho dù họ có thể đã có công tác của Đức Thánh Linh, thì cuối cùng họ cũng bị loại bỏ. Điều này có nghĩa là mặc dù công tác của Đức Thánh Linh là khai trí cho mọi người, thì cũng không thể nói rằng tất cả những ai có được công tác của Đức Thánh Linh đều sẽ được hoàn thiện trọn vẹn, bởi vì con đường mà nhiều người đi theo trong sự theo đuổi của họ chẳng phải là con đường để được hoàn thiện. Họ chỉ có phần việc đơn phương của Đức Thánh Linh, mà không có sự hợp tác chủ quan từ phía con người hay sự theo đuổi đúng đắn của con người. Do vậy, công tác của Đức Thánh Linh trên những người này thành ra phục vụ cho những người đang được hoàn thiện. Công tác của Đức Thánh Linh không thể trực tiếp nhìn thấy được bởi mọi người, cũng không thể trực tiếp chạm vào được bởi chính mọi người. Nó chỉ có thể được biểu lộ bởi những ai có ân tứ làm việc, có nghĩa là công tác của Đức Thánh Linh được cung cấp cho các môn đệ thông qua những biểu lộ mà mọi người thể hiện.
– Công tác của Đức Chúa Trời và công việc của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 173
Công tác của Đức Thánh Linh được thực hiện và hoàn thành thông qua nhiều kiểu người và nhiều điều kiện khác nhau. Mặc dù công tác của Đức Chúa Trời nhập thể có thể đại diện cho công tác của cả một thời đại, và có thể đại diện cho sự bước vào của con người trong cả một thời đại, nhưng công việc về chi tiết sự bước vào của mọi người vẫn cần được thực hiện bởi những người được Đức Thánh Linh sử dụng, chứ không phải bởi Đức Chúa Trời nhập thể. Vì thế, công tác của Đức Chúa Trời, hay chức vụ riêng của Đức Chúa Trời, là công tác của xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời, mà con người không thể làm thay Ngài. Công tác của Đức Thánh Linh được hoàn tất thông qua nhiều kiểu người khác nhau; không một người nào có thể đạt được hoàn toàn, và không một người nào có thể bày tỏ trọn vẹn. Những người lãnh đạo các hội thánh cũng không thể đại diện đầy đủ cho công tác của Đức Thánh Linh; họ chỉ có thể làm một số công việc lãnh đạo. Công tác của Đức Thánh Linh vì thế có thể được chia thành ba phần: công tác của chính Đức Chúa Trời, công tác của những người được sử dụng, và công tác được thực hiện trên những người trong dòng chảy của Đức Thánh Linh. Công tác của chính Đức Chúa Trời là dẫn dắt toàn bộ thời đại; công việc của những người được sử dụng là thông qua việc được sai phái hay được giao ủy nhiệm sau khi Đức Chúa Trời đã thực hiện công tác của chính Ngài, mà dẫn dắt toàn bộ các môn đệ của Đức Chúa Trời, và đây là những người hợp tác với công tác của Đức Chúa Trời; công tác được Đức Thánh Linh thực hiện trên những người trong dòng chảy là duy trì mọi công tác của chính Ngài, có nghĩa là duy trì toàn bộ sự quản lý của Ngài và lời chứng của Ngài, trong khi đồng thời hoàn thiện những ai có thể được hoàn thiện. Kết hợp lại, ba phần này là toàn bộ công tác của Đức Thánh Linh, nhưng nếu không có công tác của chính Đức Chúa Trời, thì công tác quản lý sẽ bị đình trệ toàn bộ. Công tác của chính Đức Chúa Trời bao gồm công việc của toàn nhân loại, và nó cũng đại diện cho công tác của cả một thời đại, có nghĩa là công tác của riêng Đức Chúa Trời đại diện cho mọi động lực và khuynh hướng trong công tác của Đức Thánh Linh, trong khi công tác của các sứ đồ thì đến sau công tác của riêng Đức Chúa Trời và bắt nguồn từ đó, chứ không dẫn dắt thời đại, cũng không đại diện cho những khuynh hướng công tác của Đức Thánh Linh trong cả thời đại. Họ chỉ thực hiện công việc mà con người phải làm, hoàn toàn không có gì liên quan đến công tác quản lý. Công tác chính Đức Chúa Trời thực hiện là một công trình trong phạm vi công tác quản lý. Công việc của con người chỉ là bổn phận mà những người được sử dụng thực hiện, và không liên quan đến công tác quản lý. Mặc dù chúng đều là công tác của Đức Thánh Linh, nhưng do những khác biệt trong thân phận và sự đại diện của công tác, nên có những khác biệt rõ ràng về thực chất giữa công tác của chính Đức Chúa Trời và công việc của con người. Hơn nữa, phạm vi công tác được Đức Thánh Linh thực hiện thì khác nhau trên các đối tượng mang thân phận khác nhau. Đây là các nguyên tắc và phạm vi công tác của Đức Thánh Linh.
– Công tác của Đức Chúa Trời và công việc của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 174
Công việc của con người biểu thị kinh nghiệm và nhân tính của họ. Những gì con người cung cấp và công việc họ thực hiện đại diện cho họ. Mọi sự thông sáng, lý luận, lô-gic và óc tưởng tượng phong phú của con người đều chứa đựng trong công việc của họ. Kinh nghiệm của con người đặc biệt có thể biểu thị công việc của họ, và những kinh nghiệm của một người trở thành những hợp phần trong công việc của họ. Công việc của con người có thể biểu lộ kinh nghiệm của họ. Khi một số người trải nghiệm một cách tiêu cực, thì hầu hết ngôn ngữ thông công của họ sẽ gồm những yếu tố tiêu cực. Nếu trải nghiệm của họ trong một thời gian là tích cực và họ đặc biệt có một con đường trên phương diện tích cực, thì sự thông công của họ đầy khích lệ, và mọi người có thể nhận được những sự cung cấp tích cực từ họ. Nếu một cộng sự trở nên tiêu cực trong một thời gian, thì sự thông công của người đó sẽ luôn mang các yếu tố tiêu cực. Loại thông công này gây chán nản, và những người khác sẽ vô thức trở nên buồn chán sau mối thông công của người đó. Trạng thái của các môn đệ thay đổi dựa theo trạng thái của người dẫn dắt. Bất kể một cộng sự như thế nào bên trong, thì đó là những gì người đó bày tỏ, và công tác của Đức Thánh Linh thường thay đổi theo tình trạng của con người. Ngài làm việc tùy theo kinh nghiệm của con người và không ép buộc họ, mà đưa ra những yêu cầu cho con người tùy theo quá trình trải nghiệm bình thường của họ. Điều này có nghĩa là sự thông công của con người khác với lời Đức Chúa Trời. Những gì mọi người thông công truyền tải những sự thông sáng và kinh nghiệm cá nhân của họ, bày tỏ những sự thông sáng và kinh nghiệm của họ trên cơ sở công tác của Đức Chúa Trời. Trách nhiệm của họ là phải tìm ra được, sau khi Đức Chúa Trời làm việc hay phán dạy, những gì trong đó mà họ phải thực hành hay bước vào, và sau đó truyền đạt lại cho các môn đệ. Do đó, công việc của con người đại diện cho sự bước vào và thực hành của họ. Dĩ nhiên, những công việc như thế này bị pha trộn với những bài học và kinh nghiệm của con người hoặc một số tư tưởng của họ. Bất kể Đức Thánh Linh làm việc như thế nào, dù là trên con người hay trong Đức Chúa Trời nhập thể, thì những cộng sự luôn bày tỏ họ là gì. Mặc dù chính là Đức Thánh Linh làm việc, nhưng công việc được đặt trên cơ sở những gì con người vốn có, bởi vì Đức Thánh Linh không làm việc gì mà không có cơ sở. Nói cách khác, công việc không đến từ hư vô, mà luôn được thực hiện phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện thực tế. Chỉ bằng cách này, tâm tính của con người mới có thể được chuyển hóa và những quan niệm cùng tư tưởng cũ kỹ của họ mới có thể được thay đổi. Những gì con người bày tỏ là những gì họ nhìn thấy, cảm nghiệm, có thể tưởng tượng, và có thể đạt được bằng suy nghĩ của con người, cho dù đó có là học thuyết hay những quan niệm. Công việc của con người không thể vượt quá phạm vi kinh nghiệm của con người, những gì con người thấy, những gì con người có thể tưởng tượng hay nghĩ ra, bất kể quy mô của công việc đó thế nào. Tất cả những gì Đức Chúa Trời bày tỏ là những gì về chính Ngài, và điều này không thể đạt được bởi con người – nghĩa là vượt quá tầm suy nghĩ của con người. Ngài bày tỏ công tác dẫn dắt toàn nhân loại của Ngài, và điều này không liên quan đến các chi tiết trong kinh nghiệm của con người, mà thay vào đó, liên quan đến kế hoạch quản lý của riêng Ngài. Những gì con người bày tỏ là kinh nghiệm của họ, trong khi những gì Đức Chúa Trời bày tỏ là hữu thể của Ngài, đó là tâm tính cố hữu của Ngài, vượt tầm con người. Kinh nghiệm của con người là sự thông sáng và kiến thức có được dựa trên sự bày tỏ của Đức Chúa Trời về hữu thể của Ngài. Sự thông sáng và kiến thức như thế gọi là hữu thể của con người, và cơ sở cho sự bày tỏ chúng là tâm tính và tố chất vốn có của con người – đây là lí do vì sao chúng cũng được gọi là hữu thể của con người. Con người có thể thông công những gì họ trải nghiệm và nhìn thấy. Không ai có thể thông công những gì họ chưa từng trải nghiệm, chưa từng nhìn thấy, hay tư duy của họ không thể đạt tới, những thứ họ không có bên trong mình. Nếu những gì con người bày tỏ không phải từ kinh nghiệm của họ, thì đó là trí tưởng tượng của họ hoặc là giáo lý. Nói đơn giản là không có hiện thực trong lời họ. Nếu ngươi chưa từng tiếp xúc với những thứ trong xã hội, thì ngươi không thể nào thông công rõ ràng về các mối quan hệ xã hội phức tạp. Nếu ngươi không có gia đình mà người khác lại nói về những chuyện gia đình, thì ngươi sẽ không hiểu phần lớn những gì họ nói. Vì thế, những gì con người thông công và công việc họ làm đại diện cho hữu thể nội tại của họ. Nếu ai đó thông công sự hiểu biết của họ về hình phạt và sự phán xét, nhưng ngươi lại không có kinh nghiệm về điều đó, thì ngươi sẽ không dám phủ nhận hiểu biết của họ, càng không dám chắc một trăm phần trăm về nó. Đó là bởi sự thông công của họ là về thứ ngươi chưa từng trải nghiệm, thứ ngươi chưa từng biết đến, và tâm trí ngươi không thể mường tượng ra được. Từ hiểu biết của họ, tất cả những gì ngươi có thể thu được là một con đường trải qua hình phạt và sự phán xét trong tương lai. Nhưng con đường này chỉ có thể là một trong những kiến thức giáo lý; nó không thể thay thế cho hiểu biết của chính ngươi, càng không thể thay thế cho kinh nghiệm của ngươi. Có lẽ ngươi nghĩ rằng những gì họ nói khá đúng, nhưng trong trải nghiệm của bản thân, ngươi nhận thấy chúng phi thực tế trong nhiều mặt. Có lẽ ngươi cảm thấy một số điều mình nghe được là hoàn toàn phi thực tế; ngươi chấp chứa những quan niệm về chúng tại thời điểm đó, và mặc dù ngươi chấp nhận chúng, ngươi chỉ làm vậy một cách miễn cưỡng. Nhưng trong trải nghiệm của bản thân ngươi, những kiến thức tạo nên các quan niệm trong ngươi trở thành đường lối thực hành của ngươi, và càng thực hành, ngươi càng hiểu nhiều hơn về giá trị và ý nghĩa thật sự của những lời ngươi nghe được. Sau khi đã có kinh nghiệm của chính mình, ngươi lúc đó mới có thể nói về những kiến thức ngươi cần có về những gì ngươi vừa trải nghiệm. Thêm vào đó, ngươi còn có thể phân biệt được những người có kiến thức thật sự và thực tế với những người mà kiến thức chỉ dựa trên giáo lý và vô giá trị. Vì thế, liệu kiến thức mà ngươi nói có đúng theo lẽ thật hay không phần lớn phụ thuộc vào việc liệu ngươi có kinh nghiệm thực tế về điều đó hay không. Một khi có lẽ thật trong kinh nghiệm của ngươi, thì kiến thức của ngươi sẽ thực tế và có giá trị. Thông qua trải nghiệm của mình, ngươi còn có thể đạt được sự sáng suốt và thông sáng, đào sâu kiến thức của mình, và tăng cường sự khôn ngoan cũng như óc suy xét về cách ngươi nên hành xử. Những kiến thức được bày tỏ bởi những người không sở hữu lẽ thật chỉ là giáo lý, cho dù nó có thể cao xa đến đâu. Kiểu người này cũng có thể rất thông minh khi bàn đến các vấn đề xác thịt, nhưng không thể rạch ròi khi nói về các vấn đề thuộc linh. Đó là bởi những người như thế không có một chút kinh nghiệm gì về các vấn đề thuộc linh. Đây là những người không được khai sáng về các vấn đề thuộc linh và không hiểu những việc tâm linh. Bất kể loại kiến thức nào ngươi bày tỏ, miễn kiến thức đó là hữu thể của ngươi, thì đó là kinh nghiệm cá nhân của ngươi, kiến thức thật sự của ngươi. Những gì được thảo luận bởi những người chỉ nói về giáo lý – những người không sở hữu lẽ thật hay hiện thực – thì cũng có thể gọi là hữu thể của họ, bởi vì họ đã đạt được giáo lý của mình chỉ thông qua sự suy ngẫm sâu sắc, và đó là kết quả từ sự chiêm nghiệm sâu sắc của họ. Thế nhưng, đó cũng chỉ là giáo lý, là sự tưởng tượng không hơn!
– Công tác của Đức Chúa Trời và công việc của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 175
Kinh nghiệm của hết thảy mọi kiểu người đều đại diện cho những điều bên trong họ. Bất cứ ai không có kinh nghiệm thuộc linh thì không thể nói những kiến thức về lẽ thật, hoặc kiến thức đúng đắn về những vấn đề thuộc linh khác nhau. Những gì con người bày tỏ là những gì về họ bên trong – điều này là chắc chắn. Nếu ai đó muốn có được kiến thức về những vấn đề thuộc linh và lẽ thật, thì họ phải có kinh nghiệm thực tế. Nếu ngươi không thể nói rõ ràng về lẽ thường trong đời sống con người, thì làm sao ngươi nói được về các vấn đề thuộc linh? Những người có thể dẫn dắt các hội thánh, cung cấp sự sống cho mọi người, và làm sứ đồ cho mọi người, thì phải có kinh nghiệm thực tế; họ phải có hiểu biết đúng đắn về các vấn đề thuộc linh, cùng một nhận thức đúng đắn và kinh nghiệm về lẽ thật. Chỉ những người như thế mới đủ tư cách làm người làm công hay sứ đồ dẫn dắt các hội thánh. Nếu không, họ chỉ có thể theo sau như những người thấp kém nhất và không thể dẫn dắt, càng không thể là những sứ đồ có thể cung cấp sự sống cho mọi người. Đó là bởi chức năng của các sứ đồ không phải là chạy tất bật hay đấu tranh, mà là làm công tác chăm sóc sự sống và dẫn dắt người khác trong việc chuyển hóa tâm tính của họ. Những ai thực hiện chức năng này được ủy thác để gánh vác một trọng trách, điều không phải ai cũng có thể gánh vác. Loại công việc này chỉ có thể được đảm nhận bởi những người có sự sống, có nghĩa là những người có trải nghiệm về lẽ thật. Nó không thể được đảm nhận đơn thuần bởi bất kỳ ai có thể từ bỏ, có thể chạy tất bật, hay sẵn lòng dâng trọn bản thân; những người không có trải nghiệm về lẽ thật, chưa được tỉa sửa hay phán xét, thì không thể làm loại công việc này. Những người không có kinh nghiệm, tức là những người không có hiện thực, thì không thể nhìn thấy hiện thực một cách rõ ràng, bởi vì bản thân họ không có dạng hữu thể này. Vì vậy, kiểu người này không những không có khả năng làm công việc dẫn dắt, mà sẽ họ sẽ bị bỏ ra nếu họ vẫn không có được lẽ thật trong một thời gian dài. Sự thông sáng ngươi bày tỏ có thể là minh chứng cho những gian khổ ngươi đã trải qua trong cuộc sống, những điều mà vì đó ngươi đã bị hành phạt và những vấn đề mà vì đó ngươi đã bị phán xét. Điều này cũng đúng đối với những sự thử luyện: một người được tinh luyện ở điểm nào, một người yếu kém ở điểm nào – thì đó đều là những lĩnh vực mà họ có trải nghiệm, mà họ có con đường. Chẳng hạn, nếu ai đó bị thất vọng trong hôn nhân, họ sẽ thường xuyên thông công: “Tạ ơn Đức Chúa Trời, ngợi khen Đức Chúa Trời, con phải làm thỏa mong muốn trong lòng Đức Chúa Trời, dâng hiến cả sự sống của con, và con phải đặt trọn cuộc hôn nhân của mình vào tay Đức Chúa Trời. Con sẵn lòng thề nguyện dâng cả cuộc đời con cho Đức Chúa Trời”. Tất cả mọi thứ bên trong con người đều có thể biểu lộ những gì về họ thông qua sự thông công. Tốc độ nói của một người, họ nói to hay nhỏ – những vấn đề như vậy không phải là vấn đề về kinh nghiệm và không thể đại diện cho họ có gì và là gì. Những điều này chỉ có thể nói lên tính cách của một người là tốt hay xấu, hay bản tính của họ tốt hay xấu, nhưng chúng không thể được đánh đồng với việc ai đó có kinh nghiệm hay không. Khả năng bày tỏ bản thân khi nói, hay kỹ năng hoặc tốc độ nói, chỉ là vấn đề tập luyện và không thể thay thế cho kinh nghiệm của một người. Khi ngươi nói về những trải nghiệm cá nhân của mình, ngươi thông công những gì mình thấy quan trọng và tất cả những điều bên trong mình. Lời nói của Ta đại diện cho hữu thể của Ta, nhưng những gì Ta nói vượt tầm con người. Những gì Ta nói không phải là những gì con người trải nghiệm, và không phải là thứ con người có thể nhìn thấy, cũng chẳng phải thứ con người có thể chạm vào, mà là những gì về Ta. Một số người chỉ thừa nhận những gì Ta thông công là những gì Ta đã trải nghiệm, nhưng họ không nhận ra đó là sự bày tỏ trực tiếp của Thần. Dĩ nhiên, những gì Ta nói là những gì Ta đã trải nghiệm. Chính Ta đã thực hiện công tác quản lý trong sáu ngàn năm. Ta đã trải nghiệm mọi thứ từ buổi đầu tạo dựng nhân loại cho đến nay; làm sao Ta không thể thảo luận về điều đó được? Khi nói về bản tính con người, Ta đã thấy rõ; Ta đã quan sát nó từ lâu. Làm sao Ta không thể nói rõ về nó được? Vì Ta đã thấy rõ bản chất của con người, nên Ta đủ tư cách để hành phạt con người và phán xét họ, bởi vì hết thảy con người đều đến từ Ta nhưng đã bị Sa-tan làm cho bại hoại. Dĩ nhiên, Ta cũng đủ tư cách để đánh giá công tác Ta đã thực hiện. Mặc dù công tác này không được thực hiện bởi xác thịt của Ta, nhưng đó là sự bày tỏ trực tiếp của Thần, là những gì Ta có và những gì về Ta. Vì thế, Ta đủ tư cách để bày tỏ về điều đó và làm công việc Ta phải làm. Những gì mọi người nói là những gì họ đã trải nghiệm. Đó là những gì họ đã nhìn thấy, những gì tâm trí của họ có thể đạt tới, và những gì các giác quan của họ có thể cảm nhận được. Đó là những gì họ có thể thông công. Những lời do xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời phán là sự bày tỏ trực tiếp của Thần và chúng bày tỏ về công tác đã được thực hiện bởi Thần, điều mà xác thịt chưa từng trải nghiệm hay nhìn thấy, thế nhưng Ngài vẫn bày tỏ hữu thể của Ngài, bởi vì thực chất của xác thịt là Thần, và Ngài bày tỏ công tác của Thần. Đó là công tác đã được Thần thực hiện, mặc dù nó vượt tầm xác thịt. Sau khi nhập thể, thông qua sự bày tỏ của xác thịt, Ngài khiến mọi người có thể biết được hữu thể của Đức Chúa Trời và cho phép mọi người thấy được tâm tính của Đức Chúa Trời và công tác Ngài đã làm. Công việc của con người cho mọi người sự rõ ràng hơn về những gì họ nên bước vào và những gì họ nên hiểu; nó liên quan đến việc dẫn dắt mọi người hiểu và trải nghiệm lẽ thật. Công việc của con người là hỗ trợ mọi người; công tác của Đức Chúa Trời là mở ra những con đường mới và những kỷ nguyên mới cho nhân loại, và mặc khải cho con người những điều người phàm không hay biết, giúp họ biết được tâm tính của Ngài. Công tác của Đức Chúa Trời là dẫn dắt toàn bộ nhân loại.
– Công tác của Đức Chúa Trời và công việc của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 176
Hết thảy công tác của Đức Thánh Linh đều được thực hiện để làm lợi lạc cho con người. Tất cả là để khai trí cho con người; chẳng có công tác nào không làm lợi cho con người. Bất kể lẽ thật sâu hay nông, và bất kể tố chất của những người chấp nhận lẽ thật ra sao, bất kể Đức Thánh Linh làm gì, thì điều đó đều có lợi cho con người. Nhưng công tác của Đức Thánh Linh không thể được thực hiện trực tiếp, mà phải được thể hiện thông qua những người hợp tác với Ngài. Chỉ như vậy, công tác của Đức Thánh Linh mới đạt được kết quả. Dĩ nhiên, khi Đức Thánh Linh trực tiếp làm việc, nó không hề bị pha tạp; nhưng khi Đức Thánh Linh làm việc thông qua con người, nó trở nên rất ô tạp và không còn là công tác ban đầu của Đức Thánh Linh. Vì vậy, lẽ thật thay đổi ở những mức độ khác nhau. Các môn đệ không nhận được ý định ban đầu của Đức Thánh Linh mà là sự kết hợp giữa công tác của Đức Thánh Linh và kinh nghiệm cùng kiến thức của con người. Trong những gì các môn đệ nhận lãnh, phần là công tác của Đức Thánh Linh thì đúng đắn, trong khi kinh nghiệm và kiến thức của con người mà họ nhận lãnh được thì khác nhau vì những cộng sự khác nhau. Những cộng sự có được sự khai sáng và chỉ dẫn của Đức Thánh Linh sẽ tiếp tục có những trải nghiệm dựa trên sự khai sáng và chỉ dẫn này. Bên trong những trải nghiệm này là trí tuệ và kinh nghiệm của con người kết hợp lại, cũng như là hữu thể của nhân tính, và sau đó, họ đạt được kiến thức hay sự thông sáng mà họ cần có. Đây là đường lối thực hành của con người sau khi trải nghiệm lẽ thật. Lối thực hành này không phải luôn luôn giống nhau, bởi vì con người trải nghiệm khác nhau, và những điều mà con người trải nghiệm cũng khác nhau. Theo cách này, cùng một sự khai sáng của Đức Thánh Linh cho ra những kiến thức và sự thực hành khác nhau, bởi những người nhận lãnh sự khai sáng là khác nhau. Một số người mắc những lỗi nhỏ trong lúc thực hành, trong khi một số khác mắc lỗi lớn, còn một số thì chẳng làm được gì khác ngoài mắc lỗi. Điều này là bởi khả năng hiểu biết của con người khác nhau và cũng bởi tố chất vốn có của họ khác nhau. Một số người hiểu kiểu này sau khi nghe một thông điệp, còn một số người hiểu kiểu khác sau khi nghe một lẽ thật. Một số người hơi trệch hướng, trong khi một số thì chẳng hiểu chút gì về ý nghĩa thật sự của lẽ thật. Bởi thế, sự hiểu biết của một người quyết định người đó sẽ dẫn dắt người khác như thế nào; điều này hoàn toàn đúng, bởi vì công việc của một người đơn giản là sự thể hiện hữu thể của người đó. Những người được dẫn dắt bởi những ai có hiểu biết đúng đắn về lẽ thật thì cũng sẽ có hiểu biết đúng đắn về lẽ thật. Ngay cả khi có những người hiểu sai, thì cũng chỉ có một số rất ít như vậy, và không phải mọi người đều sai lầm. Nếu một người hiểu sai về lẽ thật, thì những người theo họ chắc chắn cũng sẽ bị sai, và những người này sẽ sai lạc trong mọi phương diện. Mức độ hiểu lẽ thật của những môn đệ phần lớn phụ thuộc vào những cộng sự. Dĩ nhiên, lẽ thật từ Đức Chúa Trời là đúng, không sai sót, và chắc chắn tuyệt đối. Nhưng những cộng sự thì không hoàn toàn đúng và không thể nói là hoàn toàn đáng tin cậy. Nếu những cộng sự có một phương cách rất thực tế trong việc đưa lẽ thật vào thực hành, thì những môn đệ cũng sẽ có được một cách thực hành. Nếu những cộng sự không có một phương cách thực hành lẽ thật mà chỉ có giáo lý, thì những môn đệ sẽ không có hiện thực. Tố chất và bản tính của các môn đệ được định đoạt bẩm sinh và không liên quan đến những cộng sự, nhưng mức độ các môn đệ hiểu lẽ thật và biết Đức Chúa Trời lại phụ thuộc vào những cộng sự (điều này chỉ đúng với một số người). Bất kể một cộng sự như thế nào, những môn đệ mà người đó dẫn dắt cũng sẽ như thế ấy. Những gì một cộng sự thể hiện là hữu thể của chính người đó, không chút dè dặt. Những yêu cầu người đó đặt ra cho những người theo mình là những gì bản thân người đó sẵn sàng hoặc có thể đạt được. Hầu hết những cộng sự sử dụng những gì bản thân họ làm như một cơ sở để đưa ra yêu cầu cho các môn đệ của mình, dù có nhiều điều các môn đệ của họ không thể đạt được chút nào – và những điều một người không thể đạt được trở thành chướng ngại cho sự bước vào của họ.
– Công tác của Đức Chúa Trời và công việc của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 177
Công việc của những người đã qua tỉa sửa, xử lý, phán xét và hình phạt có ít sai lệch hơn nhiều, và sự bày tỏ từ công việc của họ chính xác hơn nhiều. Những ai dựa vào tính cách tự nhiên của mình để làm việc thì mắc phải những sai lầm khá lớn. Công việc của những người chưa được hoàn thiện thể hiện quá nhiều tính cách tự nhiên của bản thân họ, gây trở ngại lớn cho công tác của Đức Thánh Linh. Cho dù tố chất của một người tốt đến đâu, họ vẫn phải trải qua sự tỉa sửa, xử lý, và phán xét trước khi họ có thể thực hiện công việc được Đức Chúa Trời ủy nhiệm. Nếu họ chưa trải qua sự phán xét như thế, thì công việc của họ, cho dù có được thực hiện tốt đến đâu, cũng không thể phù hợp với các nguyên tắc của lẽ thật và luôn là một sản phẩm của tính cách tự nhiên và sự thiện lành của con người nơi chính bản thân họ. Công việc của những ai đã qua tỉa sửa, xử lý, và phán xét thì chính xác hơn nhiều so với công việc của những ai chưa được tỉa sửa, xử lý, và phán xét. Những ai chưa qua phán xét thì chẳng bày tỏ được gì ngoài xác thịt và những tư tưởng của con người, pha trộn với nhiều trí thông minh của con người và tài năng thiên bẩm. Đây không phải là sự bày tỏ chính xác của con người về công tác của Đức Chúa Trời. Những ai đi theo những người như vậy đến với họ bởi tố chất bẩm sinh của họ. Bởi vì họ bày tỏ quá nhiều sự thông sáng và kinh nghiệm của con người, những điều gần như chẳng can hệ gì và lệch lạc quá xa so với ý định ban đầu của Đức Chúa Trời, nên công việc của kiểu người này không thể mang mọi người đến trước Đức Chúa Trời, mà thay vào đó, mang họ đến trước con người. Vì vậy, những ai chưa qua sự phán xét và hình phạt thì không đủ tư cách để thực hiện công việc được Đức Chúa Trời ủy nhiệm. Công việc của một cộng sự đủ tư cách có thể dẫn mọi người đến con đường đúng đắn và giúp họ bước sâu hơn vào lẽ thật. Công việc của người đó có thể đưa mọi người đến trước Đức Chúa Trời. Thêm vào đó, công việc người đó làm có thể biến đổi theo từng cá nhân và không bị trói buộc bởi các phép tắc, cho mọi người sự giải phóng và tự do, cũng như khả năng dần trưởng thành trong đời sống và bước sâu hơn vào lẽ thật. Công việc của một cộng sự không đủ tư cách thì thiếu sót rất nhiều. Công việc của người đó thật xuẩn ngốc. Người đó chỉ có thể đưa mọi người vào quy củ, và những gì người đó đòi hỏi ở con người không biến đổi theo từng cá nhân; người đó không làm việc theo các nhu cầu thực tế của mọi người. Trong kiểu công việc này, có quá nhiều phép tắc và quá nhiều giáo lý, và nó không thể đưa con người vào hiện thực hay vào sự thực hành bình thường để trưởng thành trong đời sống. Nó chỉ có thể khiến con người bám lấy một vài phép tắc vô giá trị. Loại hướng dẫn như thế này chỉ có thể khiến mọi người lạc lối. Người đó dẫn dắt ngươi trở nên giống như người đó; người đó có thể khiến ngươi trở thành những gì người đó có và là. Để các môn đệ phân biệt liệu những người dẫn dắt có đủ tư cách hay không, bí quyết là nhìn vào đường lối họ dẫn dắt và kết quả công việc của họ, cũng như nhìn xem liệu các môn đệ có nhận lãnh được các nguyên tắc hợp với lẽ thật hay không và liệu họ có nhận lãnh được các đường lối thực hành phù hợp cho sự chuyển hóa của họ hay không. Ngươi nên phân biệt giữa các công việc khác nhau của những kiểu người khác nhau; ngươi không nên là một môn đệ ngốc nghếch. Điều này liên quan đến vấn đề bước vào của mọi người. Nếu ngươi không có khả năng phân biệt được sự dẫn dắt của người nào là có đường lối và của người nào thì không, ngươi sẽ dễ bị lừa gạt. Toàn bộ điều này đều ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của chính ngươi. Có quá nhiều sự tự nhiên trong công việc của những người chưa được hoàn thiện; nó được pha trộn với quá nhiều ý muốn của con người. Hữu thể của họ là tính cách tự nhiên – những gì họ vốn sinh ra như vậy. Đó không phải sự sống sau khi đã được xử lý hay hiện thực sau khi đã được chuyển hóa. Làm sao một người như thế này có thể hỗ trợ những ai đang theo đuổi sự sống được? Sự sống mà con người có ban đầu là trí tuệ hoặc tài năng bẩm sinh của họ. Loại trí tuệ hay tài năng này khác xa với những yêu cầu chính xác của Đức Chúa Trời đối với con người. Nếu một người chưa được làm cho hoàn thiện và tâm tính bại hoại của người đó chưa được tỉa sửa và xử lý, thì sẽ có một khoảng cách lớn giữa những gì người đó bày tỏ và lẽ thật; những gì người đó bày tỏ sẽ bị pha trộn với những thứ mơ hồ, chẳng hạn như sự tưởng tượng và kinh nghiệm phiến diện của người đó. Hơn nữa, bất kể người đó làm việc như thế nào, mọi người vẫn cảm thấy không có một mục tiêu chung và không có lẽ thật phù hợp cho sự bước vào của tất cả mọi người. Phần lớn những gì được yêu cầu đối với mọi người đều nằm ngoài khả năng của họ, như thể lùa vịt lên cây. Đây là công việc của ý muốn con người. Bản tính bại hoại của con người, những tư tưởng, và quan niệm của họ xâm nhập mọi phần cơ thể họ. Con người bẩm sinh không có bản năng thực hành lẽ thật, cũng không có bản năng hiểu lẽ thật một cách trực tiếp. Cộng với tâm tính bại hoại của người đó – khi loại người với tính cách tự nhiên này làm việc, chẳng phải điều đó gây gián đoạn sao? Nhưng một con người đã được hoàn thiện thì có kinh nghiệm về lẽ thật mà mọi người cần hiểu, và có hiểu biết về những tâm tính bại hoại của họ, để rồi những thứ mơ hồ và không thực trong công việc của người đó giảm dần, những sự pha tạp của con người trở nên ít hơn, và công việc cũng như sự phụng sự của người đó ngày càng tiến gần hơn tới những tiêu chuẩn Đức Chúa Trời yêu cầu. Vì thế, công việc của người đó đã bước vào thực tế của lẽ thật và cũng đã trở nên thiết thực. Những tư tưởng trong tâm trí con người đặc biệt cản trở công tác của Đức Thánh Linh. Con người có trí tưởng tượng phong phú cùng lô-gic hợp lý, và họ đã có kinh nghiệm xử lý vấn đề dày dạn. Nếu tất cả những khía cạnh này của con người không qua tỉa sửa và chấn chỉnh, thì chúng đều là những chướng ngại cho công việc. Vì thế, công việc của con người không thể đạt đến mức độ chính xác cao nhất, đặc biệt là công việc của những người chưa được hoàn thiện.
– Công tác của Đức Chúa Trời và công việc của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 178
Công việc của con người nằm trong một phạm vi và bị hạn chế. Một người chỉ có thể làm công việc của một giai đoạn nhất định, và không thể làm công việc của cả một thời đại – nếu không, người đó sẽ dẫn dắt mọi người vào giữa các phép tắc. Công việc của con người chỉ có thể áp dụng cho một thời gian hoặc một giai đoạn cụ thể. Đó là bởi kinh nghiệm của con người có phạm vi của nó. Công việc của con người không thể so sánh được với công tác của Đức Chúa Trời. Những đường lối thực hành và kiến thức của con người về lẽ thật đều khả dụng trong một phạm vi nhất định. Ngươi không thể nói rằng con đường mà con người bước đi hoàn toàn là ý muốn của Đức Thánh Linh, bởi vì con người chỉ có thể được khai sáng bởi Đức Thánh Linh, và không thể hoàn toàn được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Những thứ con người có thể trải nghiệm đều nằm trong phạm vi nhân tính bình thường và không thể vượt quá phạm vi của những tư tưởng trong tâm trí con người bình thường. Tất cả những người có thể sống trọn thực tế của lẽ thật đều trải nghiệm nội trong phạm vi này. Khi họ trải nghiệm lẽ thật, đó luôn là một trải nghiệm của đời sống con người bình thường được Đức Thánh Linh khai sáng; đó không phải một cách trải nghiệm lệch lạc với đời sống con người bình thường. Họ trải nghiệm lẽ thật được khai sáng bởi Đức Thánh Linh trên cơ sở sống cuộc sống con người của họ. Hơn nữa, lẽ thật này khác nhau ở mỗi người, và chiều sâu của nó liên quan đến trạng thái của người đó. Một người chỉ có thể nói rằng con đường họ đi là cuộc sống con người bình thường của một người theo đuổi lẽ thật, và có thể gọi là con đường được đi bởi một người bình thường được Đức Thánh Linh khai sáng. Một người không thể nói rằng con đường họ đi là con đường Đức Thánh Linh đi. Trong trải nghiệm bình thường của con người, bởi vì những người theo đuổi không giống nhau, nên công tác của Đức Thánh Linh cũng không giống nhau. Thêm vào đó, bởi vì môi trường con người trải nghiệm và phạm vi trải nghiệm của họ không giống nhau, và bởi sự pha trộn của tâm trí và tư tưởng họ, nên trải nghiệm của họ bị pha trộn ở các mức độ khác nhau. Mỗi người hiểu về lẽ thật tùy theo điều kiện cá nhân khác nhau của họ. Hiểu biết của họ về ý nghĩa thật sự của lẽ thật không đầy đủ và chỉ là một hoặc một vài phương diện. Phạm vi lẽ thật mà con người trải nghiệm khác nhau ở mỗi người, phù hợp với điều kiện của mỗi người. Theo cách này, kiến thức về cùng một lẽ thật, được bày tỏ bởi những người khác nhau thì không giống nhau. Điều này có nghĩa là kinh nghiệm của con người luôn có những hạn chế và không thể đại diện trọn vẹn cho ý muốn của Đức Thánh Linh, cũng như không thể coi công việc của con người là công tác của Đức Chúa Trời, ngay cả khi những gì con người bày tỏ rất gần với ý muốn của Đức Chúa Trời, và ngay cả khi kinh nghiệm của con người rất gần với công tác hoàn thiện mà Đức Thánh Linh thực hiện. Con người chỉ có thể là tôi tớ của Đức Chúa Trời, thực hiện các công việc Đức Chúa Trời giao phó cho họ. Con người chỉ có thể bày tỏ kiến thức do Đức Thánh Linh khai sáng và những lẽ thật đạt được từ những trải nghiệm cá nhân của họ. Con người không đủ tư cách và không đáp ứng các điều kiện để làm phương tiện bày tỏ của Đức Thánh Linh. Họ không được quyền nói rằng công việc của họ là công tác của Đức Chúa Trời. Con người có các nguyên tắc làm việc của con người, và hết thảy mọi người đều có các kinh nghiệm khác nhau và các điều kiện khác nhau. Công việc của con người bao gồm toàn bộ kinh nghiệm của họ dưới sự khai sáng của Đức Thánh Linh. Những kinh nghiệm này chỉ có thể đại diện cho hữu thể của con người và không đại diện cho hữu thể của Đức Chúa Trời hay ý muốn của Đức Thánh Linh. Do đó, con đường mà con người đi không thể nói là con đường Đức Thánh Linh đi, bởi vì công việc của con người không thể đại diện cho công tác của Đức Chúa Trời, và công việc của con người cũng như kinh nghiệm của con người không phải là toàn bộ ý muốn của Đức Thánh Linh. Công việc của con người dễ rơi vào những phép tắc, phương pháp làm việc của họ dễ bị gò bó trong một phạm vi hạn chế, và không thể dẫn dắt mọi người đến một con đường tự do. Hầu hết các môn đệ đều sống trong một phạm vi giới hạn, và cách trải nghiệm của họ cũng bị hạn chế trong phạm vi đó. Kinh nghiệm của con người luôn hạn chế; phương pháp làm việc của họ cũng chỉ giới hạn trong một vài kiểu và không thể so sánh với công tác của Đức Thánh Linh hay công tác của chính Đức Chúa Trời. Điều này là bởi suy cho cùng, kinh nghiệm của con người cũng có hạn. Bất kể Đức Chúa Trời thực hiện công tác của Ngài như thế nào, nó cũng không bị bó buộc bởi các phép tắc; bất kể nó được thực hiện như thế nào cũng không bị giới hạn ở một phương pháp nào. Không có bất cứ phép tắc nào cho công tác của Đức Chúa Trời – mọi công tác của Ngài đều được giải phóng và tự do. Cho dù con người có theo Ngài bao lâu, họ cũng không thể chắt lọc được bất cứ quy luật nào chi phối cách làm việc của Đức Chúa Trời. Mặc dù công tác của Ngài có nguyên tắc, nhưng nó luôn được thực hiện theo những cách mới, luôn có những bước phát triển mới, và nó vượt tầm con người. Chỉ trong một thời kỳ, Đức Chúa Trời có thể có vài kiểu công tác khác nhau và những cách dẫn dắt con người khác nhau, khiến con người luôn có được những sự bước vào và những thay đổi mới mẻ. Ngươi không thể nhận thấy quy luật trong công tác của Ngài bởi vì Ngài luôn làm việc theo những cách mới, và chỉ như vậy, những môn đệ của Đức Chúa Trời mới không trở nên bị bó buộc bởi phép tắc. Công tác của chính Đức Chúa Trời luôn tránh những quan niệm của con người và chống lại chúng. Chỉ những ai đi theo và theo đuổi Ngài với một tấm lòng chân thật mới có thể chuyển hóa được tâm tính của họ và có thể sống tự do, không phải chịu bất kỳ phép tắc nào, hay bị kìm hãm bởi bất kỳ các quan niệm tôn giáo nào. Công việc của con người đưa ra các đòi hỏi cho mọi người dựa trên kinh nghiệm của chính họ và những gì bản thân họ có thể đạt được. Tiêu chuẩn của những yêu cầu này bị giới hạn trong một phạm vi nhất định, và các phương cách thực hành cũng rất hạn chế. Những môn đệ vì vậy mà vô thức sống trong phạm vi giới hạn này; qua thời gian, những điều này trở thành các phép tắc và nghi thức. Nếu công việc của một giai đoạn được dẫn dắt bởi một người chưa từng trải qua sự hoàn thiện bởi đích thân Đức Chúa Trời và chưa nhận lãnh sự phán xét, thì những môn đệ của người đó hết thảy sẽ trở thành những người cuồng tín và những chuyên gia chống lại Đức Chúa Trời. Do đó, nếu ai đó là một người dẫn dắt đủ tư cách, thì người đó đã phải trải qua sự phán xét và đã chấp nhận được hoàn thiện. Những ai chưa từng trải qua sự phán xét, thì cho dù có thể có công tác của Đức Thánh Linh, họ cũng chỉ bày tỏ được những điều mơ hồ và hão huyền. Theo thời gian, họ sẽ dẫn dắt mọi người vào các phép tắc mơ hồ và siêu nhiên. Công việc Đức Chúa Trời thực hiện không hợp với xác thịt của con người. Nó không hợp với những tư tưởng của con người mà còn chống lại các quan niệm của họ; nó không bị nhuốm màu sắc tôn giáo mơ hồ. Các kết quả công tác của Đức Chúa Trời không thể được gặt hái bởi một người chưa được Ngài làm cho hoàn thiện; chúng vượt khỏi tầm tư duy của con người.
– Công tác của Đức Chúa Trời và công việc của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 179
Công việc trong tâm trí con người quá dễ để con người đạt được. Các mục sư và lãnh đạo trong giới tôn giáo chẳng hạn, họ dựa vào những ân tứ và chức vụ để làm công việc của họ. Những người theo họ trong thời gian dài sẽ lây những ân tứ của họ và chịu ảnh hưởng bởi một phần hữu thể của họ. Họ tập trung vào những ân tứ, khả năng và kiến thức của mọi người, và họ chú ý đến những thứ siêu nhiên và nhiều giáo lý thâm sâu phi thực tế (dĩ nhiên, những giáo lý thâm sâu này không thể đạt được). Họ không tập trung vào việc thay đổi tâm tính mọi người, mà thay vào đó, tập trung vào huấn luyện mọi người giảng đạo và làm việc, nâng cao kiến thức của mọi người và các giáo lý tôn giáo phong phú của họ. Họ không tập trung vào việc tâm tính của mọi người đã được thay đổi bao nhiêu, hay mọi người hiểu được bao nhiêu về lẽ thật. Họ không quan tâm đến thực chất của mọi người, càng không cố gắng để biết được các trạng thái bình thường và bất thường của mọi người. Họ không phản đối các quan niệm của mọi người, hay tỏ lộ các quan niệm của họ, càng không tỉa sửa mọi người vì những khiếm khuyết hay sự bại hoại của họ. Hầu hết những người theo họ phục vụ vì ân tứ của họ, và tất cả những gì họ đưa ra là những quan niệm tôn giáo và lí thuyết thần học, những điều xa rời thực tế và hoàn toàn không thể trao sự sống cho mọi người. Thực ra, thực chất công việc của họ là ươm mầm tài năng, ươm mầm một người từ không có gì trở thành một cử nhân trường dòng tài năng, để sau này tiếp tục làm việc và lãnh đạo. Ngươi có thể nhận ra được bất kỳ quy luật nào trong sáu ngàn năm công tác của Đức Chúa Trời không? Có nhiều phép tắc và hạn chế trong công việc con người làm, và bộ óc con người quá giáo điều. Vì vậy, những gì con người bày tỏ là kiến thức và những nhận thức trong phạm vi kinh nghiệm của họ. Con người không thể bày tỏ bất cứ điều gì ngoài những thứ này. Kinh nghiệm và kiến thức của con người không tăng lên nhờ những ân tứ bẩm sinh hay bản năng của họ; chúng tăng lên bởi sự hướng dẫn và chăn dắt trực tiếp của Đức Chúa Trời. Con người chỉ có khả năng nhận lãnh sự chăn dắt này và không có khả năng bày tỏ trực tiếp những gì thuộc về thần tính. Con người không thể là nguồn, họ chỉ có thể là một chiếc bình nhận nước từ nguồn. Đây là bản năng của con người, là khả năng một người cần có khi là một con người. Nếu một người đánh mất khả năng chấp nhận lời Đức Chúa Trời và đánh mất bản năng con người, thì người đó cũng mất đi điều quý giá nhất, và mất đi bổn phận của con người thọ tạo. Nếu một người không có kiến thức hay kinh nghiệm gì về lời Đức Chúa Trời hoặc công tác của Ngài, thì người đó đánh mất bổn phận của mình, bổn phận họ phải thực hiện với tư cách một loài thọ tạo, và đánh mất phẩm giá của một loài thọ tạo. Bản năng của Đức Chúa Trời chính là bày tỏ những gì thuộc về thần tính, dù được bày tỏ trong xác thịt hay trực tiếp bởi Thần; đây là chức vụ của Đức Chúa Trời. Con người bày tỏ những kinh nghiệm hoặc kiến thức của chính họ (nghĩa là bày tỏ những gì về họ) trong hoặc sau công tác của Đức Chúa Trời; đây là bản năng của con người, là bổn phận của con người, và là điều con người nên đạt được. Mặc dù sự bày tỏ của con người còn nhiều thiếu sót so với những gì Đức Chúa Trời bày tỏ, và mặc dù sự bày tỏ của con người bị bó buộc bởi nhiều phép tắc, nhưng con người vẫn phải thực hiện bổn phận họ phải thực hiện và làm những gì họ phải làm. Con người nên làm mọi thứ có thể đối với con người để thực hiện bổn phận của mình, và họ không nên một chút dè dặt nào.
– Công tác của Đức Chúa Trời và công việc của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 180
Các ngươi phải biết phân biệt giữa công tác của Đức Chúa Trời và công việc của con người. Ngươi có thể thấy gì trong công việc của con người? Có nhiều yếu tố kinh nghiệm của con người trong công việc của họ; những gì con người bày tỏ là những gì về họ. Công tác của chính Đức Chúa Trời cũng bày tỏ Ngài là gì, nhưng hữu thể của Ngài khác với của con người. Hữu thể của con người đại diện cho kinh nghiệm và cuộc sống của con người (những gì con người trải nghiệm hoặc gặp phải trong cuộc sống, hoặc những triết lý sống mà họ có), và những người sống ở các môi trường khác nhau thì bày tỏ những hữu thể khác nhau. Liệu ngươi có kinh nghiệm xã hội hay không và ngươi thực sự đang sống và trải nghiệm như thế nào trong gia đình mình, đều có thể thấy được trong những gì ngươi bày tỏ, trong khi đó, ngươi không thể thấy được trong công tác của Đức Chúa Trời nhập thể liệu Ngài có kinh nghiệm xã hội hay không. Ngài biết rõ bản chất của con người, và có thể tiết lộ đủ loại thói quen thuộc về đủ loại người. Ngài thậm chí còn giỏi hơn trong việc vạch trần những tâm tính bại hoại và hành vi nổi loạn của con người. Ngài không sống giữa những con người trần tục, nhưng Ngài biết bản tính của người phàm và mọi điều bại hoại của con người trần tục. Đây là hữu thể của Ngài. Mặc dù Ngài không đối nhân xử thế, Ngài vẫn biết các quy tắc đối nhân xử thế, vì Ngài hiểu hết bản tính con người. Ngài biết công tác của Thần mà mắt người không thể thấy và tai người không thể nghe, cả ngày nay và trong quá khứ. Điều này bao gồm sự khôn ngoan mà không phải một triết lý sống và những điều kỳ diệu mà con người khó hiểu thấu. Đây là hữu thể của Ngài, cởi mở với mọi người và cũng ẩn giấu với mọi người. Những gì Ngài bày tỏ không phải hữu thể của một con người phi thường, mà là những thuộc tính vốn có và hữu thể của Thần. Ngài không đi vòng quanh thế giới nhưng biết mọi thứ về nó. Ngài tiếp xúc với những “con vượn người” chẳng có chút kiến thức hay sự thông sáng nào, nhưng Ngài bày tỏ những lời cao hơn kiến thức và trên tầm vĩ nhân. Ngài sống giữa một nhóm người trì độn và tê liệt, những kẻ chẳng có nhân tính và chẳng hiểu gì về tập tục và đời sống của con người, nhưng Ngài có thể yêu cầu nhân loại sống trọn nhân tính bình thường, đồng thời vạch trần nhân tính thấp hèn của nhân loại. Tất cả những điều này là hữu thể của Ngài, cao cả hơn hữu thể của bất cứ con người bằng xương bằng thịt nào. Đối với Ngài, chẳng cần thiết phải trải nghiệm một đời sống xã hội phức tạp, nặng trọc, và bẩn thỉu mới có thể làm công tác Ngài cần làm và vạch trần hết bản chất của nhân loại bại hoại. Một đời sống xã hội bẩn thỉu không mở mang cho xác thịt Ngài. Công tác và những lời của Ngài chỉ vạch trần sự bất tuân của con người và không cung cấp cho con người kinh nghiệm và các bài học để đối phó với thế gian. Ngài chẳng cần phải điều tra xã hội hay gia đình của con người khi Ngài cung cấp cho con người sự sống. Phơi bày và phán xét con người không phải là sự bày tỏ những kinh nghiệm của xác thịt Ngài; đó là sự vạch trần của Ngài về sự bất chính của con người sau khi đã biết về sự bất tuân của con người trong một thời gian dài và ghê tởm sự bại hoại của loài người. Công tác Ngài làm đều nhằm tỏ lộ tâm tính của Ngài cho con người và bày tỏ hữu thể của Ngài. Chỉ có Ngài mới có thể làm công tác này, đây không phải là thứ mà một con người bằng xương bằng thịt có thể đạt được.
– Công tác của Đức Chúa Trời và công việc của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 181
Công tác Đức Chúa Trời làm không đại diện cho kinh nghiệm của xác thịt Ngài; công việc con người làm đại diện cho kinh nghiệm của họ. Mọi người đều nói về kinh nghiệm cá nhân của họ. Đức Chúa Trời có thể trực tiếp bày tỏ lẽ thật, trong khi con người chỉ có thể bày tỏ kinh nghiệm tương ứng sau khi đã trải nghiệm lẽ thật. Công tác của Đức Chúa Trời không có quy tắc và không chịu các ràng buộc về thời gian hay địa lý. Ngài có thể bày tỏ Ngài là gì bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu. Ngài làm việc theo ý muốn của Ngài. Công việc của con người có những điều kiện và bối cảnh; không có chúng, họ sẽ không thể làm việc và không thể bày tỏ kiến thức của họ về Đức Chúa Trời hay trải nghiệm của họ về lẽ thật. Để biết một việc gì đó là công tác của chính Đức Chúa Trời hay công việc của con người, ngươi chỉ cần so sánh sự khác biệt giữa hai công việc. Nếu không có công tác nào do chính Đức Chúa Trời thực hiện, và chỉ có công việc của con người, thì ngươi sẽ chỉ đơn giản biết rằng những lời dạy của con người thật cao xa, vượt khỏi khả năng của bất kỳ ai khác; giọng điệu họ nói, những nguyên tắc của họ khi xử lý mọi việc, và phong cách làm việc từng trải và vững vàng của họ đều vượt tầm người khác. Hết thảy các ngươi đều ngưỡng mộ những người có tố chất tốt và kiến thức cao xa này, nhưng từ công tác và những lời của Đức Chúa Trời, ngươi không thể nhìn thấy nhân tính của Ngài cao đến đâu. Thay vào đó, Ngài thật bình thường, và khi làm việc, Ngài bình thường và thực tế nhưng cũng không thể dò lường đối với người phàm, vì thế mà khiến con người hồ như cảm thấy tôn kính Ngài. Có thể kinh nghiệm của một người trong công việc của họ đặc biệt dày dạn, hay sức tưởng tượng và lý luận của người đó đặc biệt giỏi, và nhân tính của người đó đặc biệt tốt; những thuộc tính như thế chỉ khiến mọi người ngưỡng mộ, chứ không gợi lên ở họ sự kính sợ hay sợ hãi. Mọi người đều ngưỡng mộ những người có thể làm việc tốt, những người có kinh nghiệm đặc biệt sâu sắc và những người có thể thực hành lẽ thật, nhưng những người như thế không bao giờ có thể gợi lên niềm kính sợ, mà chỉ có sự ngưỡng mộ và ghen tỵ. Nhưng những người đã trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời thì không ngưỡng mộ Ngài; thay vào đó, họ cảm thấy rằng công tác của Ngài vượt tầm con người và không thể hiểu thấu đối với con người, và rằng nó thật tươi mới và kỳ diệu. Khi mọi người trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời, hiểu biết đầu tiên của họ về Ngài là Ngài thật không thể dò lường, khôn ngoan và kỳ diệu, và họ vô thức tôn kính Ngài và cảm thấy sự mầu nhiệm trong công tác Ngài làm, điều vượt tầm tâm trí con người. Mọi người chỉ muốn có thể đáp ứng các yêu cầu của Ngài, làm thỏa các mong muốn của Ngài; họ không mong vượt qua Ngài, bởi vì công tác Ngài làm vượt quá sự suy nghĩ và tưởng tượng của con người, và không thể được con người thực hiện thay Ngài. Ngay cả bản thân con người còn không biết được những khiếm khuyết của chính mình, thế mà Đức Chúa Trời đã mở ra một con đường mới và đã đến để đưa con người vào một thế giới mới hơn và tươi đẹp hơn, và vì vậy mà nhân loại đã đạt được bước tiến mới và đã có một khởi đầu mới. Những gì mọi người cảm nhận về Ngài không phải là sự ngưỡng mộ, mà đúng hơn, không chỉ là sự ngưỡng mộ. Cảm nghiệm sâu sắc nhất của họ là sự kính sợ và tình yêu; cảm giác của họ là Đức Chúa Trời thật sự kỳ diệu. Ngài làm những việc con người không thể làm và nói những điều con người không thể nói. Những người đã trải nghiệm công tác của Ngài luôn có một cảm xúc khôn tả. Những người có những trải nghiệm đủ sâu có thể hiểu tình yêu của Đức Chúa Trời; họ có thể cảm nhận được sự đáng mến của Ngài, cảm nhận rằng công tác của Ngài thật quá khôn ngoan, quá kỳ diệu, và bởi đó mà tạo nên một sức mạnh vô hạn giữa họ. Đó không phải là sự sợ hãi hay tình yêu và sự tôn kính thỉnh thoảng, mà là một cảm nhận sâu sắc về lòng thương xót của Đức Chúa Trời dành cho con người và sự bao dung của Ngài. Tuy nhiên, những người đã trải qua hình phạt và phán xét của Ngài thì cảm nhận được sự oai nghi của Ngài và rằng Ngài không dung thứ cho bất kỳ sự xúc phạm nào. Ngay cả những người đã trải nghiệm nhiều công tác của Ngài cũng không thể hiểu thấu Ngài; tất cả những ai thực sự tôn kính Ngài đều biết công tác của Ngài không hợp với những quan niệm của con người mà luôn đi ngược lại các quan niệm của họ. Ngài không cần con người phải hoàn toàn ngưỡng mộ Ngài hay tỏ vẻ quy phục Ngài; thay vào đó, họ phải có được lòng tôn kính thực sự và sự quy phục thực sự. Trong rất nhiều công tác của Ngài, bất cứ ai có kinh nghiệm thực sự đều cảm thấy tôn kính Ngài, điều còn cao hơn cả sự ngưỡng mộ. Mọi người đã thấy được tâm tính của Ngài qua công tác của hình phạt và sự phán xét của Ngài, và họ vì vậy mà tôn kính Ngài trong lòng. Đức Chúa Trời là để được tôn kính và vâng phục, bởi hữu thể của Ngài và tâm tính Ngài không giống như của một loài thọ tạo và cao hơn của một loài thọ tạo. Đức Chúa Trời là tự hữu và bất diệt, Ngài không phải một loài thọ tạo, và chỉ có Đức Chúa Trời mới đáng được tôn kính và vâng phục; con người không đủ tư cách được như vậy. Vì thế, hết thảy những người đã trải nghiệm công tác của Ngài và thực sự biết Ngài đều cảm thấy tôn kính Ngài. Tuy nhiên, những ai không buông bỏ các quan niệm của họ về Ngài – những ai đơn giản không xem Ngài là Đức Chúa Trời – thì không có sự tôn kính Ngài, và mặc dù họ theo Ngài, nhưng họ không được chinh phục; họ là những kẻ bất tuân từ trong bản tính. Vì vậy, những gì Ngài muốn đạt qua công tác là để cho muôn loài thọ tạo đều có lòng tôn kính Đấng Tạo Hóa, thờ phượng Ngài, và vâng phục vô điều kiện sự thống trị của Ngài. Đây là kết quả cuối cùng mà mọi công tác của Ngài đều nhằm đạt được. Nếu những người đã trải nghiệm công tác như thế không tôn kính Đức Chúa Trời, dù chỉ một chút, và nếu sự bất tuân của họ trong quá khứ không thay đổi chút nào, thì họ chắc chắn sẽ bị loại bỏ. Nếu thái độ của một người đối với Đức Chúa Trời chỉ là ngưỡng mộ Ngài, hoặc thể hiện sự kính trọng với Ngài từ xa, và không yêu mến Ngài chút nào, thì đây là kết quả mà một người không có lòng yêu mến Đức Chúa Trời có được, và người đó thiếu các điều kiện để được hoàn thiện. Nếu quá nhiều công tác vẫn không thể có được tình yêu đích thực của một người, thì người đó chưa có được Đức Chúa Trời và không thực sự theo đuổi lẽ thật. Một người không yêu mến Đức Chúa Trời thì không yêu lẽ thật và vì thế không thể có được Đức Chúa Trời, càng không thể nhận được sự chấp thuận của Đức Chúa Trời. Những người như thế, bất kể họ trải nghiệm công tác của Đức Thánh Linh như thế nào, và bất kể họ trải nghiệm sự phán xét như thế nào, vẫn không thể tôn kính Đức Chúa Trời. Đây là những người có bản tính không thể thay đổi và là những người có tâm tính cực kỳ xấu xa. Hết thảy những ai không tôn kính Đức Chúa Trời đều sẽ bị loại bỏ, là đối tượng của sự trừng phạt, và sẽ bị trừng phạt y như những kẻ hành ác, thậm chí còn phải chịu khổ hơn những kẻ đã làm điều bất chính.
– Công tác của Đức Chúa Trời và công việc của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 182
Suy cho cùng, công tác của Đức Chúa Trời khác với công tác của con người và, hơn nữa, làm sao những sự bày tỏ của Ngài có thể giống như của họ được? Đức Chúa Trời có tâm tính riêng của Ngài, trong khi con người có những bổn phận mà họ phải hoàn thành. Tâm tính của Đức Chúa Trời được bày tỏ trong công tác của Ngài, trong khi bổn phận của con người được biểu hiện trong những trải nghiệm của con người và được thể hiện trong những sự mưu cầu của con người. Do vậy, thông qua công tác được thực hiện, việc liệu một điều gì đó là sự bày tỏ của Đức Chúa Trời hay sự bày tỏ của con người trở nên rõ ràng. Điều này không cần chính Đức Chúa Trời phải giải thích, cũng không cần con người cố gắng làm chứng; hơn nữa, điều này không cần chính Đức Chúa Trời phải áp chế bất kỳ ai. Toàn bộ điều này đến như một sự mặc khải tự nhiên, không bị ép buộc và cũng không phải là điều mà con người có thể xen vào. Bổn phận của con người có thể được biết đến thông qua những trải nghiệm của họ, và không yêu cầu mọi người làm bất cứ công tác thực nghiệm nào thêm. Toàn bộ thực chất của con người có thể được bộc lộ khi họ thực hiện bổn phận của mình, trong khi Đức Chúa Trời có thể bày tỏ tâm tính vốn có của Ngài trong lúc thực hiện công tác của Ngài. Nếu đó là công tác của con người, thì nó không thể bị che đậy. Nếu đó là công tác của Đức Chúa Trời, thì tâm tính của Đức Chúa Trời thậm chí càng không thể bị che giấu bởi bất kỳ ai, càng không bị kiểm soát bởi con người. Không thể nói một con người nào là Đức Chúa Trời, và công tác cũng như những lời của họ cũng không thể được coi là thánh khiết hay bất biến. Có thể nói Đức Chúa Trời là con người bởi Ngài mặc lấy xác thịt, nhưng không thể coi công tác của Ngài là công tác hay bổn phận của con người. Hơn nữa, những lời phán của Đức Chúa Trời và những bức thư của Phao-lô không thể được đánh đồng, và sự phán xét, hình phạt của Đức Chúa Trời không thể được nói đến ngang hàng với những lời hướng dẫn của con người. Do vậy, có những nguyên tắc phân biệt công tác của Đức Chúa Trời với công tác của con người. Những điều này được phân biệt theo thực chất của chúng, chứ không phải bởi phạm vi công tác hay tính hiệu quả nhất thời. Về chủ đề này, hầu hết mọi người đều nhầm lẫn về nguyên tắc. Đây là vì con người nhìn vào bề ngoài, điều mà họ có thể đạt được, trong khi Đức Chúa Trời thì nhìn vào thực chất, là điều không thể được quan sát bởi mắt thường của nhân loại. Nếu ngươi coi những lời và công tác của Đức Chúa Trời là những bổn phận của một người bình thường, và coi công tác quy mô lớn của con người là công tác của Đức Chúa Trời mặc lấy xác thịt, hơn là bổn phận mà con người hoàn thành, vậy thì chẳng phải ngươi đang nhầm lẫn về nguyên tắc sao? Những bức thư và tiểu sử của con người có thể được viết dễ dàng, nhưng chỉ trên nền tảng công tác của Đức Thánh Linh. Tuy nhiên, những lời phán và công tác của Đức Chúa Trời không thể được làm trọn một cách dễ dàng bởi con người hay đạt được bởi sự khôn ngoan và tư duy của con người, và con người cũng không thể giải thích chúng một cách thấu đáo sau khi khám phá chúng. Nếu những vấn đề nguyên tắc này không gợi lên bất kỳ phản ứng nào trong các ngươi, vậy thì đức tin của các ngươi rõ ràng là không chân thật hay chưa được tinh luyện cho lắm. Chỉ có thể nói rằng đức tin của các ngươi đầy sự mơ hồ, vừa rối mù và vừa vô luân lý. Khi thậm chí không hiểu những vấn đề thiết yếu cơ bản nhất về Đức Chúa Trời và con người, chẳng phải dạng đức tin này là dạng hoàn toàn thiếu khả năng nhận thức sao?
– Ngươi đứng ở đâu trong mười ba thư tín? Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 183
Jêsus đã ở trần gian ba mươi ba năm rưỡi, Ngài đã đến để thực hiện công tác chịu đóng đinh trên thập tự giá, và thông qua việc chịu đóng đinh trên thập tự giá, Đức Chúa Trời đã đạt được một phần vinh quang của Ngài. Khi Đức Chúa Trời đến trong xác thịt, Ngài đã có thể khiêm nhường và ẩn giấu, và đã có thể chịu đựng đau khổ cùng cực. Mặc dù Ngài chính là Đức Chúa Trời, nhưng Ngài vẫn chịu đựng mọi sự sỉ nhục và mọi lời mắng nhiếc, và Ngài đã chịu đựng nỗi đau to lớn qua việc bị đóng đinh trên thập tự giá để hoàn tất công tác cứu chuộc. Sau khi giai đoạn công tác này đã khép lại, mặc dù mọi người thấy rằng Đức Chúa Trời đã đạt được vinh quang to lớn, nhưng đây không phải là toàn bộ vinh quang của Ngài; nó chỉ là một phần trong vinh quang của Ngài, là điều mà Ngài đã đạt được từ Jêsus. Mặc dù Jêsus đã có thể chịu đựng mọi khó khăn, đã khiêm nhường và ẩn giấu, chịu đóng đinh trên thập tự giá vì Đức Chúa Trời, nhưng Đức Chúa Trời chỉ đạt được một phần vinh quang của Ngài, và vinh quang của Ngài đã đạt được tại Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời vẫn còn có một phần vinh quang khác: đến trần gian để hành động một cách thực tế và làm cho một nhóm người hoàn thiện. Trong giai đoạn công tác của Jêsus, Ngài đã làm một số việc siêu nhiên, nhưng giai đoạn công tác đó hoàn toàn không phải chỉ để thực hiện các dấu kỳ phép lạ. Nó chủ yếu là để cho thấy rằng Jêsus có thể chịu khổ và chịu đóng đinh trên thập tự giá vì Đức Chúa Trời, rằng Jêsus có thể chịu nỗi đau cùng cực vì Ngài yêu mến Đức Chúa Trời và mặc dù Đức Chúa Trời đã bỏ rơi Ngài, nhưng Ngài vẫn sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình vì ý muốn của Đức Chúa Trời. Sau khi Đức Chúa Trời đã hoàn tất công tác của Ngài tại Y-sơ-ra-ên và Jêsus đã chịu đóng đinh trên thập tự giá, Đức Chúa Trời đã đạt được vinh hiển, và Ngài đã làm chứng trước Sa-tan. Các ngươi không biết và cũng chưa thấy Đức Chúa Trời trở nên xác thịt tại Trung Quốc như thế nào, vậy làm thế nào các ngươi có thể thấy rằng Đức Chúa Trời đã đạt được vinh hiển? Khi Đức Chúa Trời thực hiện nhiều công tác chinh phục trong các ngươi và các ngươi đứng vững vàng, thì giai đoạn công tác này của Đức Chúa Trời đã thành công, và đây là một phần vinh quang của Đức Chúa Trời. Các ngươi chỉ nhìn thấy điều này, và các ngươi vẫn chưa được Đức Chúa Trời làm cho hoàn thiện, vẫn chưa trao trọn lòng mình cho Đức Chúa Trời. Các ngươi vẫn chưa hoàn toàn nhìn thấy được vinh quang này; các ngươi chỉ thấy rằng Đức Chúa Trời đã chinh phục lòng của các ngươi, rằng các ngươi không bao giờ có thể rời bỏ Ngài, và sẽ theo Đức Chúa Trời cho đến tận cùng và lòng các ngươi sẽ không thay đổi, và rằng đây là vinh quang của Đức Chúa Trời. Các ngươi thấy vinh quang của Đức Chúa Trời qua điều gì? Qua những ảnh hưởng của công tác Ngài trong con người. Mọi người thấy rằng Đức Chúa Trời rất đáng mến, họ có Đức Chúa Trời trong lòng và không muốn rời xa Ngài, và đây là vinh quang của Đức Chúa Trời. Khi sức mạnh của các anh chị em trong hội thánh nổi lên, và họ có thể yêu mến Đức Chúa Trời từ trong lòng mình, nhìn thấy sức mạnh tối thượng của công tác được thực hiện bởi Đức Chúa Trời, sức mạnh vô song của lời Ngài, khi họ thấy rằng những lời của Ngài mang thẩm quyền và rằng Ngài có thể bắt tay vào công tác của Ngài tại thị trấn ma quỷ của Trung Quốc đại lục, khi mọi người mặc dù yếu đuối, nhưng lòng họ cúi lạy trước Đức Chúa Trời và họ sẵn sàng chấp nhận lời của Đức Chúa Trời, và khi họ mặc dù yếu đuối và không xứng đáng, nhưng họ có thể thấy rằng lời Đức Chúa Trời thật đáng yêu, và thật xứng đáng với sự yêu mến của họ, thì đây là vinh quang của Đức Chúa Trời. Khi đến ngày mà mọi người được Đức Chúa Trời làm cho hoàn thiện, có thể đầu hàng trước Ngài, có thể hoàn toàn vâng lời Đức Chúa Trời, và giao phó tiền đồ và số phận của họ trong tay Đức Chúa Trời, thì phần thứ hai của vinh quang Đức Chúa Trời sẽ hoàn toàn đạt được. Điều đó có nghĩa là, khi công tác của Đức Chúa Trời thực tế đã được hoàn tất một cách trọn vẹn thì công tác của Ngài tại Trung Quốc đại lục sẽ kết thúc. Nói cách khác, khi những người được Đức Chúa Trời định trước và chọn lựa đã được làm cho hoàn thiện thì Đức Chúa Trời cũng đã đạt được vinh hiển. Đức Chúa Trời đã phán rằng Ngài đã mang phần thứ hai của vinh quang Ngài đến phương Đông, tuy nhiên điều này là vô hình đối với mắt thường. Đức Chúa Trời đã mang công tác của Ngài đến phương Đông: Ngài đã đến phương Đông, và đây là vinh quang của Đức Chúa Trời. Ngày nay, mặc dù công tác của Ngài vẫn chưa được hoàn tất, nhưng bởi vì Đức Chúa Trời đã quyết định hành động nên nó chắc chắn sẽ được thành toàn. Đức Chúa Trời đã quyết định Ngài sẽ hoàn tất công tác này tại Trung Quốc, và Ngài đã quyết tâm làm cho các ngươi trọn vẹn. Như thế, Ngài không cho ngươi lối thoát – Ngài đã chinh phục lòng của ngươi, và ngươi phải tiếp tục cho dù ngươi có muốn hay không, và khi ngươi được Đức Chúa Trời thu phục thì Đức Chúa Trời đạt được vinh hiển. Ngày nay, Đức Chúa Trời vẫn chưa đạt được sự vinh hiển toàn vẹn, bởi vì các ngươi vẫn chưa được làm cho hoàn thiện. Mặc dù lòng của các ngươi đã trở lại với Đức Chúa Trời, nhưng vẫn còn nhiều sự yếu đuối trong xác thịt của các ngươi, các ngươi không có khả năng làm hài lòng Đức Chúa Trời, các ngươi không thể quan tâm đến ý muốn của Đức Chúa Trời, và các ngươi vẫn sở hữu những điều tiêu cực mà các ngươi phải tự giải thoát khỏi chúng cũng như các ngươi phải trải qua nhiều thử luyện và sự tinh luyện. Chỉ bằng cách đó thì những tâm tính sống của các ngươi mới thay đổi và các ngươi mới có thể được Đức Chúa Trời thu phục.
– Bài nói ngắn về “Vương quốc Một Nghìn năm đã đến”, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 184
Vào thời điểm đó, công tác của Jêsus là công tác cứu chuộc cả nhân loại. Tội lỗi của tất cả những ai tin vào Ngài đã được tha thứ; miễn là ngươi tin vào Ngài, Ngài sẽ cứu chuộc ngươi; nếu ngươi tin vào Ngài, ngươi không còn tội lỗi nữa, ngươi đã được giải thoát khỏi tội lỗi của mình. Điều này là ý nghĩa của việc được cứu, và được xưng công chính bởi đức tin. Tuy nhiên, trong những người tin, vẫn còn có sự dấy loạn và chống đối Đức Chúa Trời, và điều đó vẫn phải bị loại bỏ từ từ. Sự cứu rỗi không có nghĩa là con người đã được Jêsus hoàn toàn thu phục, mà có nghĩa là con người không còn tội lỗi nữa, họ đã được tha tội: Miễn là ngươi tin, thì ngươi sẽ không bao giờ còn tội lỗi nữa. Vào thời điểm đó, Jêsus đã làm nhiều việc mà các môn đệ của Ngài không thể hiểu nổi, và đã phán nhiều điều mà mọi người không hiểu được. Điều này là vì, tại thời điểm đó, Ngài đã không đưa ra lời giải thích. Do đó, vài năm sau khi Ngài rời đi, Ma-thi-ơ đã lập phả hệ cho Jêsus, và những người khác cũng đã làm nhiều việc theo ý muốn của con người. Jêsus đã không đến để hoàn thiện và thu phục con người, mà để thực hiện một giai đoạn của công tác: đưa ra Phúc Âm của vương quốc thiên đàng và hoàn thành công tác chịu đóng đinh. Và vì thế, một khi Jêsus đã bị đóng đinh, công tác của Ngài hoàn toàn chấm dứt. Nhưng trong giai đoạn hiện nay – công tác chinh phục – nhiều lời hơn phải được phán ra, nhiều công tác hơn phải được thực hiện, và phải có nhiều quá trình. Những sự mầu nhiệm về công tác của Jêsus và Đức Giê-hô-va cũng phải được tiết lộ, hầu cho tất cả mọi người có thể có sự hiểu biết và sự rõ ràng trong niềm tin của họ, vì đây là công tác của những ngày sau rốt, và những ngày sau rốt là hồi cuối trong công tác của Đức Chúa Trời, thời điểm kết thúc công tác này. Giai đoạn công tác này sẽ làm cho ngươi sáng tỏ về luật pháp của Đức Giê-hô-va và sự cứu chuộc của Jêsus, và chủ yếu để ngươi có thể hiểu được toàn bộ công tác của kế hoạch quản lý sáu nghìn năm của Đức Chúa Trời, và đánh giá cao tất cả ý nghĩa và thực chất của kế hoạch quản lý sáu nghìn năm này, hiểu được mục đích của tất cả công tác đã được Jêsus thực hiện và những lời Ngài đã phán, và thậm chí cả lòng tin mù quáng cùng sự sùng bái Kinh Thánh của ngươi. Tất cả điều này sẽ cho phép ngươi hiểu một cách thấu đáo. Ngươi sẽ hiểu được cả công tác được thực hiện bởi Jêsus lẫn công tác của Đức Chúa Trời ngày nay; ngươi sẽ hiểu và thấy được mọi lẽ thật, sự sống và đường đi. Trong giai đoạn công tác do Jêsus thực hiện, tại sao Jêsus lại rời đi mà không thực hiện công tác kết thúc? Bởi vì giai đoạn công tác của Jêsus không phải là công tác kết thúc. Khi Ngài bị đóng đinh trên thập tự giá, những lời của Ngài cũng chấm dứt; sau khi Ngài bị đóng đinh, công tác của Ngài đã hoàn thành trọn vẹn. Giai đoạn hiện nay thì khác: Chỉ sau khi những lời được phán ra đến cuối cùng và toàn bộ công tác của Đức Chúa Trời kết thúc thì công tác của Ngài mới hoàn thành. Trong giai đoạn công tác của Jêsus, đã có nhiều lời vẫn chưa được phán ra, hoặc chưa được phán rõ ràng đầy đủ. Tuy nhiên, Jêsus đã không quan tâm đến những gì Ngài phán hoặc không phán, vì chức vụ của Ngài không phải là một chức vụ của lời phán, và vì vậy sau khi Ngài đã bị đóng đinh trên thập tự giá thì Ngài đã rời đi. Giai đoạn công tác đó chủ yếu là để chịu đóng đinh, và khác với giai đoạn ngày nay. Giai đoạn công tác này chủ yếu là để hoàn thành, làm sáng tỏ, và đưa đến kết thúc toàn bộ công tác. Nếu những lời không được phán ra đến cùng, sẽ không có cách nào để kết thúc công tác này, vì trong giai đoạn công tác này, tất cả công tác đều được kết thúc và hoàn thành bằng cách sử dụng những lời phán. Vào thời điểm đó, Jêsus đã làm nhiều việc mà con người không thể hiểu được. Ngài đã lặng lẽ rời đi, và ngày nay vẫn còn nhiều người không hiểu lời của Ngài, sự hiểu biết của họ là sai lầm nhưng vẫn được họ tin là đúng, và không biết rằng mình sai. Giai đoạn cuối cùng sẽ đưa đến kết thúc hoàn toàn công tác của Đức Chúa Trời và sẽ khép lại nó. Tất cả sẽ hiểu và biết được về kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời. Những quan niệm bên trong con người, những ý định của họ, sự hiểu biết sai lầm và phi lý của họ, những quan niệm của họ về công tác của Đức Giê-hô-va và Jêsus, những quan điểm của họ về dân ngoại, và những sự lệch lạc và sai lầm khác của họ sẽ được chỉnh đốn. Và con người sẽ hiểu mọi con đường đúng đắn của sự sống, tất cả những công tác được Đức Chúa Trời thực hiện, và toàn bộ lẽ thật. Khi điều đó xảy ra, giai đoạn công tác này sẽ đi đến kết thúc. Công tác của Đức Giê-hô-va là sự sáng thế, đó là sự khởi đầu; giai đoạn công tác này là sự kết thúc của công tác, và nó là sự chấm dứt. Vào lúc bắt đầu, công tác của Đức Chúa Trời đã được thực hiện giữa những người được chọn của Y-sơ-ra-ên, và đó là buổi bình minh của một kỷ nguyên mới ở nơi thánh khiết nhất trong mọi nơi. Giai đoạn cuối cùng của công tác được thực hiện ở nơi ô uế nhất của mọi quốc gia, để phán xét thế gian và kết thúc thời đại. Trong giai đoạn đầu tiên, công tác của Đức Chúa Trời đã được thực hiện ở nơi sáng sủa nhất trong mọi nơi, và giai đoạn cuối cùng được thực hiện ở nơi tối tăm nhất trong mọi nơi, và sự tối tăm này sẽ bị xua tan, ánh sáng được mang lại, và tất cả mọi người đều được chinh phục. Khi con người ở nơi ô uế và đen tối nhất trong mọi nơi này đã được chinh phục, và toàn thể dân chúng đã công nhận rằng có một Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời thật, và mọi người đã bị thuyết phục hoàn toàn, thì sự thật này sẽ được dùng để thực hiện công tác chinh phục khắp toàn thể vũ trụ. Giai đoạn công tác này mang tính tượng trưng: Một khi công tác của thời đại này đã được hoàn thành, công tác quản lý sáu nghìn năm sẽ hoàn toàn kết thúc. Một khi những người ở nơi tối tăm nhất trong mọi nơi đã được chinh phục, hiển nhiên cũng sẽ là như thế ở mọi nơi khác. Như vậy, chỉ có công tác chinh phục ở Trung Quốc mang tính tượng trưng đầy ý nghĩa. Trung Quốc tiêu biểu cho mọi thế lực của sự tối tăm, và người dân Trung Quốc đại diện cho tất cả những ai thuộc về xác thịt, thuộc về Sa-tan, thuộc về thịt và huyết. Chính người dân Trung Quốc là những người đã bị bại hoại nhất bởi con rồng lớn sắc đỏ, là những người có sự chống đối mạnh mẽ nhất đối với Đức Chúa Trời, nhân tính của họ là hèn hạ và ô uế nhất, và vì vậy họ là nguyên mẫu của cả loài người bại hoại. Điều này không có nghĩa là các quốc gia khác không có vấn đề gì cả; các quan niệm của con người đều giống nhau, và mặc dù người dân của các quốc gia này có thể có tố chất tốt, nhưng nếu họ không biết Đức Chúa Trời, thì chắc chắn họ chống đối Ngài. Tại sao người Do Thái cũng đã chống đối và thách thức Đức Chúa Trời? Tại sao những người Pha-ri-si cũng đã chống đối Ngài? Tại sao Giu-đa phản bội Jêsus? Vào thời điểm đó, nhiều môn đệ đã không biết Jêsus. Tại sao sau khi Jêsus đã bị đóng đinh và sống lại, mọi người vẫn không tin Ngài? Chẳng phải sự bất tuân của con người hết thảy đều giống nhau sao? Chỉ là người dân Trung Quốc được lấy làm gương, và khi được chinh phục thì họ sẽ trở thành một kiểu mẫu và hình mẫu, và sẽ là sự tham khảo cho những người khác. Tại sao Ta đã luôn phán rằng các ngươi là một sự bổ trợ cho kế hoạch quản lý của Ta? Chính ở người dân Trung Quốc mà sự bại hoại, ô uế, bất chính, chống đối và nổi loạn được thể hiện đầy đủ nhất và được biểu lộ dưới mọi hình thức khác nhau của chúng. Một mặt, họ có tố chất kém, và mặt khác, đời sống và tư duy của họ lạc hậu, và những thói quen, môi trường xã hội, gia đình sinh ra họ – tất cả đều nghèo nàn và lạc hậu nhất. Vóc giạc của họ cũng thấp kém. Công tác ở nơi này mang tính tượng trưng, và sau khi công tác thử nghiệm này đã được thành toàn, công tác tiếp theo của Ngài sẽ dễ dàng hơn nhiều. Nếu bước công tác này có thể được hoàn thành, thì công tác tiếp theo sẽ khỏi phải bàn. Một khi bước công tác này đã được hoàn thành, thành công lớn sẽ đạt được trọn vẹn, và công tác chinh phục khắp toàn thể vũ trụ sẽ hoàn toàn kết thúc.
– Khải tượng về công tác của Đức Chúa Trời (2), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 185
Hoạt động lúc này trên các con cháu Mô-áp là cứu rỗi những người đã rơi vào sự tăm tối nhất. Mặc dù họ bị rủa sả, Đức Chúa Trời cũng sẵn lòng có được vinh quang từ họ, bởi họ lúc đầu đều là những người không có Đức Chúa Trời trong lòng; chỉ có làm cho những người không có Đức Chúa Trời trong lòng vâng phục và yêu thương Ngài mới là một sự chinh phục thật sự, và thành quả của công tác như thế là có giá trị nhất và có sức thuyết phục nhất. Chỉ đây mới là đạt được vinh quang – đây là vinh quang mà Đức Chúa Trời muốn đạt được trong thời kỳ sau rốt. Mặc dù những người này có vị trí thấp hèn, nhưng việc họ giờ đây có thể đạt được sự cứu rỗi vĩ đại như thế thật là một sự nâng đỡ bởi Đức Chúa Trời. Công tác này rất ý nghĩa, và chính thông qua sự phán xét mà Ngài thu phục những người này. Ý định của Ngài không phải là trừng phạt những người này, mà là cứu họ. Nếu trong thời kỳ sau rốt, Ngài vẫn làm công tác chinh phục ở Y-sơ-ra-ên, thì sẽ vô giá trị; ngay cả khi nó sinh hoa kết quả, thì cũng không có giá trị hay ý nghĩa to lớn nào, và Ngài sẽ không thể đạt được trọn vẹn vinh quang. Ngài đang hoạt động trên các ngươi, những người đã rơi vào những nơi tăm tối nhất, những người chậm tiến nhất. Những người này không công nhận rằng có một Đức Chúa Trời và chưa bao giờ biết rằng có một Đức Chúa Trời. Những sinh vật này đã bị Sa-tan làm cho bại hoại quá nhiều đến nỗi họ đã quên Đức Chúa Trời. Họ đã bị Sa-tan làm cho mù quáng và không hề biết rằng có một Đức Chúa Trời trên trời. Trong lòng các ngươi, tất cả các ngươi đều thờ những thần tượng và thờ Sa-tan – chẳng phải các ngươi thấp hèn nhất, chậm tiến nhất trong nhân loại sao? Các ngươi là dạng thấp hèn nhất của xác thịt, không có bất kỳ sự tự do cá nhân nào, và các ngươi cũng phải chịu đựng gian khổ. Các ngươi cũng là những người ở tầng lớp dưới đáy xã hội này, thậm chí không có tự do tín ngưỡng. Ý nghĩa của việc hoạt động trên các ngươi nằm ở đây. Hoạt động vào ngày nay trên các ngươi, các con cháu của Mô-áp, không có nghĩa là làm nhục các ngươi, mà là tỏ lộ ý nghĩa của công tác. Đối với các ngươi, đó là một sự nâng đỡ rất lớn. Nếu một người có lý trí và sự hiểu biết sâu sắc, họ sẽ nói: “Tôi là con cháu Mô-áp, thật sự không xứng đáng để ngày hôm nay nhận lãnh sự nâng đỡ to lớn như thế bởi Đức Chúa Trời, hay những phúc lành lớn lao như thế. Trong tất cả những gì tôi nói và làm, và theo như địa vị và giá trị của tôi, tôi không hề xứng đáng với những phúc lành lớn như vậy từ Đức Chúa Trời. Dân Y-sơ-ra-ên đã có tình yêu vĩ đại đối với Đức Chúa Trời, và ân điển mà họ được hưởng là do Ngài ban cho họ, nhưng địa vị của họ cao hơn nhiều so với của chúng tôi. Áp-ra-ham đã rất tận tâm với Đức Giê-hô-va, và Phi-e-rơ đã rất tận tâm với Jêsus. Dựa trên những hành động của chúng tôi, chúng tôi tuyệt đối không xứng đáng được hưởng ân điển của Đức Chúa Trời”. Việc phụng sự của những người này ở Trung Quốc đơn giản là không thể được đưa đến trước Đức Chúa Trời. Đó là một sự hỗn loạn hoàn toàn; việc các ngươi giờ đây được hưởng rất nhiều ân điển của Đức Chúa Trời đơn thuần là sự nâng đỡ của Đức Chúa Trời! Các ngươi đã tìm kiếm công tác của Đức Chúa Trời khi nào? Các ngươi đã hy sinh cuộc đời mình cho Đức Chúa Trời khi nào? Các ngươi đã sẵn sàng từ bỏ gia đình mình, cha mẹ mình, và con cái mình khi nào? Không ai trong các ngươi đã trả giá đắt cả! Nếu Đức Thánh Linh không khích lệ ngươi, bao nhiêu người trong các ngươi sẽ có thể hy sinh mọi thứ? Các ngươi đã theo cho đến hôm nay chỉ bởi sự ép buộc và cưỡng bức? Sự tận tâm của các ngươi ở đâu? Sự vâng phục của các ngươi ở đâu? Dựa trên những hành động của các ngươi, các ngươi nên bị hủy diệt từ lâu rồi – tất cả các ngươi lẽ ra đều đã bị quét sạch. Điều gì cho các ngươi đủ tư cách hưởng những phúc lành vĩ đại như thế? Các ngươi không xứng đáng một chút nào! Ai trong các ngươi đã tôi luyện con đường của riêng mình? Ai trong các ngươi đã tự mình tìm được con đường thật? Các ngươi đều là lũ khốn lười nhác, ham ăn, tìm kiếm sự thoải mái! Các ngươi có nghĩ mình vĩ đại không? Các ngươi có gì để huênh hoang? Kể cả khi bỏ qua việc các ngươi là con cháu của Mô-áp, có phải bản chất hay nơi sinh của các ngươi thuộc loại cao quý nhất không? Kể cả khi bỏ qua việc các ngươi là con cháu của ông ta, chẳng phải tất cả các ngươi đều hoàn toàn là con cháu Mô-áp sao? Có thể thay đổi được sự thật của sự việc không? Việc phơi bày bản chất của các ngươi giờ đây có làm sai lệch sự thật của sự việc không? Hãy nhìn vào thân phận nô lệ, cuộc sống, và tính cách của các ngươi – chẳng lẽ các ngươi không biết rằng các ngươi thấp hèn nhất trong số những kẻ thấp hèn giữa nhân loại sao? Các ngươi có gì để huênh hoang? Hãy nhìn vào vị trí của các ngươi trong xã hội. Chẳng phải các ngươi ở tầng lớp dưới đáy sao? Các ngươi có nghĩ Ta nói sai không? Áp-ra-ham đã dâng Y-sác – các ngươi đã dâng gì? Gióp đã dâng mọi thứ – các ngươi đã dâng gì? Quá nhiều người đã dâng cuộc đời họ, đầu rơi, máu đổ, để tìm con đường thật. Các ngươi đã trả cái giá đó chưa? So ra thì các ngươi không hề đủ tư cách được hưởng ân điển to lớn như thế. Có phải là chụp mũ các ngươi không khi hôm nay nói rằng các ngươi là con cháu của Mô-áp? Đừng xem mình quá cao. Ngươi chẳng có gì để huênh hoang cả. Sự cứu rỗi vĩ đại như thế, ân điển vĩ đại như thế được ban miễn phí cho các ngươi. Các ngươi đã chẳng hy sinh gì, nhưng các ngươi vui hưởng ân điển miễn phí. Các ngươi không cảm thấy xấu hổ sao? Có phải con đường thật này là điều các ngươi đã tìm kiếm và tự mình tìm thấy không? Chẳng phải Đức Thánh Linh đã buộc ngươi chấp nhận nó sao? Các ngươi chưa bao giờ có lòng tìm kiếm, càng không có lòng tìm kiếm và khao khát lẽ thật. Các ngươi chỉ ngồi nhàn nhã và hưởng thụ; các ngươi đã có được lẽ thật này mà không bỏ chút nỗ lực nào. Các ngươi có quyền gì để phàn nàn? Ngươi có nghĩ ngươi có giá trị lớn nhất không? So với những người đã hy sinh mạng sống của họ và đã đổ máu, các ngươi có gì để than oán? Hủy diệt các ngươi lúc này hẳn sẽ là việc đúng đắn và tự nhiên! Các ngươi không có chọn lựa nào khác hơn là vâng phục và đi theo. Các ngươi hoàn toàn không xứng đáng! Hầu hết những người trong các ngươi đều được triệu gọi, nhưng nếu hoàn cảnh không bắt buộc các ngươi hay các ngươi không được gọi tới, thì các ngươi sẽ hoàn toàn không sẵn lòng bước ra. Ai sẵn lòng chấp nhận sự từ bỏ như vậy chứ? Ai sẵn lòng từ bỏ những lạc thú xác thịt chứ? Tất cả các ngươi đều là những người ham thích sự thoải mái một cách tham lam và tìm kiếm cuộc sống xa hoa! Các ngươi đã đạt được những phúc lành vĩ đại như thế – các ngươi còn gì khác để nói? Các ngươi có gì để than oán? Các ngươi đã được cho phép vui hưởng những phúc lành vĩ đại nhất và ân điển vĩ đại nhất trên trời, và công tác chưa bao giờ được thực hiện trước kia trên thế gian đã được mặc khải với các ngươi hôm nay. Chẳng phải đây là phúc lành sao? Các ngươi bị hành phạt như thế hôm nay là bởi các ngươi đã chống đối Đức Chúa Trời và phản nghịch chống lại Ngài. Bởi hình phạt này, các ngươi đã thấy lòng thương xót và tình yêu của Đức Chúa Trời, và hơn thế nữa, các ngươi đã thấy sự công chính và thánh khiết của Ngài. Bởi hình phạt này và bởi sự nhơ bẩn của nhân loại, các ngươi đã thấy quyền năng vĩ đại của Đức Chúa Trời, và các ngươi đã thấy sự thánh khiết và vĩ đại của Ngài. Chẳng phải đây là những lẽ thật hiếm hoi nhất sao? Chẳng phải đây là cuộc sống có ý nghĩa sao? Công tác mà Đức Chúa Trời làm đầy ý nghĩa! Do đó, vị trí của các ngươi càng thấp thì càng chứng minh rằng các ngươi được Đức Chúa Trời nâng đỡ, và càng chứng minh giá trị vĩ đại của công tác Ngài làm trên các ngươi ngày nay. Nó đơn thuần là một kho báu vô giá, không thể có được ở bất cứ nơi nào khác! Qua các thời đại, không ai từng được hưởng sự cứu rỗi vĩ đại như thế. Thực tế rằng vị trí của các ngươi thấp hèn cho thấy sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời vĩ đại như thế nào, và nó cho thấy rằng Đức Chúa Trời trung nghĩa với nhân loại – Ngài cứu rỗi, Ngài không hủy diệt.
– Ý nghĩa của việc cứu rỗi con cháu Mô-áp, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 186
Khi Đức Chúa Trời đến thế gian, Ngài không thuộc về thế gian, và Ngài đã không trở nên xác thịt nhằm hưởng thụ thế gian. Nơi mà việc làm công tác sẽ tỏ lộ tâm tính Ngài và nhiều ý nghĩa nhất chính là nơi Ngài đã được sinh ra. Dù đó là vùng đất thánh khiết hay nhơ bẩn, và cho dù Ngài làm công tác ở đâu, Ngài cũng thánh khiết. Mọi thứ trên thế gian được tạo ra bởi Ngài, mặc dù tất cả đã bị Sa-tan làm cho bại hoại. Tuy nhiên, muôn vật vẫn thuộc về Ngài; chúng đều ở trong tay Ngài. Ngài đến một vùng đất nhơ bẩn và làm công tác ở đó nhằm tỏ lộ sự thánh khiết của Ngài; Ngài chỉ làm điều này vì lợi ích công tác của Ngài, nghĩa là Ngài chịu sự nhục nhã lớn lao để làm công tác ấy nhằm cứu rỗi con người của vùng đất nhơ bẩn này. Điều này được thực hiện để làm chứng, vì lợi ích của hết thảy nhân loại. Điều mà công tác như thế cho thấy chính là sự công chính của Đức Chúa Trời, và có thể thể hiện quyền tối cao của Đức Chúa Trời. Sự vĩ đại và ngay thẳng của Ngài được thể hiện trong sự cứu rỗi một nhóm người thấp hèn mà những người khác khinh bỉ. Việc sinh ra ở một vùng đất nhơ bẩn không hề chứng tỏ rằng Ngài thấp hèn; nó chỉ đơn thuần cho phép mọi tạo vật nhìn thấy sự vĩ đại của Ngài và tình yêu chân thực của Ngài dành cho nhân loại. Ngài càng làm như thế thì càng tỏ lộ tình yêu tinh sạch của Ngài, tình yêu không tì vết của Ngài đối với con người. Đức Chúa Trời thánh khiết và công chính. Mặc dù Ngài được sinh ra ở một vùng đất nhơ bẩn, và mặc dù Ngài sống với những người đầy sự nhơ bẩn, giống như Jêsus đã sống với những kẻ tội lỗi trong Thời đại Ân điển, nhưng chẳng phải mỗi một phần nhỏ trong công tác của Ngài được thực hiện vì sự sinh tồn của toàn thể nhân loại sao? Chẳng phải toàn bộ điều đó là để nhân loại có thể đạt được sự cứu rỗi vĩ đại sao? Hai ngàn năm trước, Ngài đã sống với những kẻ tội lỗi trong một số năm. Đó là vì mục đích của sự cứu chuộc. Hôm nay, Ngài đang sống với một nhóm người nhơ bẩn, thấp hèn. Điều này là vì mục đích của sự cứu rỗi. Chẳng phải toàn bộ công tác của Ngài là vì lợi ích của con người các ngươi sao? Nếu không phải vì cứu rỗi nhân loại, tại sao Ngài lại sống và chịu đựng với những kẻ tội lỗi nhiều năm như vậy sau khi được sinh ra trong máng cỏ? Và nếu không phải để cứu nhân loại, tại sao Ngài trở lại xác thịt lần thứ hai, được sinh ra ở vùng đất nơi ma quỷ tụ tập, và sống với những người đã bị Sa-tan làm cho bại hoại sâu sắc? Chẳng phải Đức Chúa Trời trung nghĩa sao? Phần nào trong công tác của Ngài không vì nhân loại chứ? Phần nào không phải vì vận mệnh của các ngươi chứ? Đức Chúa Trời thánh khiết – điều này là bất biến! Ngài không bị ô uế bởi sự nhơ bẩn, mặc dù Ngài đã đến một vùng đất nhơ bẩn; toàn bộ điều này chỉ có thể có nghĩa là tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho nhân loại là cực kỳ vị tha và sự đau khổ cùng nỗi nhục nhã mà Ngài phải chịu là cực kỳ lớn! Các ngươi không biết Ngài phải chịu nhục nhã nhiều như thế nào, vì tất cả các ngươi và vì vận mệnh của các ngươi ư? Thay vì cứu rỗi những người vĩ đại hay các con trai của những gia đình giàu có và quyền lực, Ngài lại quyết định cứu những kẻ thấp hèn và bị coi thường. Chẳng phải toàn bộ điều này là sự thánh khiết của Ngài sao? Chẳng phải toàn bộ điều này là sự công chính của Ngài sao? Vì sự sinh tồn của hết thảy nhân loại, Ngài thà được sinh ra ở một vùng đất nhơ bẩn và chịu mọi sự nhục nhã. Đức Chúa Trời rất thực – Ngài không làm việc gì sai lầm. Chẳng phải mỗi giai đoạn của công tác được thực hiện một cách thực tế như vậy sao? Mặc dù tất cả mọi người đều phỉ báng Ngài và nói rằng Ngài ngồi cùng bàn với những kẻ tội lỗi, mặc dù tất cả mọi người đều mỉa mai Ngài và nói Ngài sống với các con trai nhơ bẩn, rằng Ngài sống với những kẻ thấp hèn nhất, nhưng Ngài vẫn cho đi chính Ngài một cách vị tha, và do đó Ngài vẫn bị chối bỏ giữa nhân loại. Chẳng phải sự đau khổ mà Ngài chịu đựng lớn hơn của các ngươi sao? Chẳng phải công tác Ngài làm nhiều hơn cái giá mà các ngươi đã trả sao? Các ngươi được sinh ra ở một vùng đất nhơ bẩn, nhưng các ngươi đã có được sự thánh khiết của Đức Chúa Trời. Các ngươi được sinh ra ở một vùng đất nơi ma quỷ tụ tập, nhưng các ngươi đã nhận được sự bảo vệ tuyệt vời. Các ngươi còn lựa chọn gì? Các ngươi có gì để than oán? Chẳng phải sự đau khổ mà Ngài đã chịu lớn hơn sự đau khổ mà các ngươi đã chịu sao? Ngài đã đến thế gian và chưa bao giờ hưởng thụ những thú vui của thế giới con người. Ngài khinh ghét những thứ đó. Đức Chúa Trời đã không đến thế gian để con người đối đãi với Ngài bằng những thứ vật chất, Ngài cũng không đến để hưởng thụ cái ăn, cái mặc, và những món đồ trang sức của con người. Ngài không để tâm đến những thứ này. Ngài đến thế gian để chịu khổ vì con người, không phải để hưởng thụ sự giàu có phàm tục. Ngài đến để chịu khổ, để làm công tác, và để hoàn thành kế hoạch quản lý của Ngài. Ngài đã không chọn một nơi tốt, sống trong một tòa đại sứ hay một khách sạn sang trọng, Ngài cũng không có một số tôi tớ phục vụ Ngài. Dựa trên những gì các ngươi đã thấy, các ngươi không biết Ngài đến để làm công tác hay để hưởng thụ sao? Mắt các ngươi không nhìn thấy sao? Ngài đã ban cho các ngươi nhiều bao nhiêu? Nếu Ngài được sinh ra ở một nơi thoải mái, liệu Ngài sẽ có thể đạt được vinh quang không? Liệu Ngài sẽ có thể làm công tác không? Liệu việc làm của Ngài có bất kỳ ý nghĩa nào không? Liệu Ngài sẽ có thể hoàn toàn chinh phục nhân loại không? Liệu Ngài sẽ có thể cứu rỗi con người khỏi vùng đất nhơ bẩn không? Theo những quan niệm của mình, mọi người hỏi: “Bởi vì Đức Chúa Trời thánh khiết, tại sao Ngài lại sinh ra ở nơi nhơ bẩn của chúng con? Ngài căm ghét và ghê tởm những con người nhơ bẩn chúng con; Ngài khinh ghét sự chống đối và sự phản nghịch của chúng con, vậy thì tại sao Ngài sống với chúng con? Ngài là một Đức Chúa Trời tối cao. Ngài đã có thể sinh ra ở bất kỳ nơi nào, vậy tại sao Ngài lại phải sinh ra trong vùng đất nhơ bẩn này? Ngài hành phạt và phán xét chúng con mỗi ngày, và Ngài biết rõ rằng chúng con là con cháu Mô-áp, vậy tại sao Ngài vẫn sống giữa chúng con? Tại sao Ngài được sinh ra trong một gia đình của con cháu Mô-áp? Tại sao Ngài làm như thế?” Những suy nghĩ như thế của các ngươi hoàn toàn phi lý! Chỉ công tác như thế mới cho phép con người nhìn thấy sự vĩ đại của Ngài, sự khiêm nhường và ẩn giấu của Ngài. Ngài sẵn lòng hy sinh mọi thứ vì lợi ích công tác của Ngài. Ngài hành động vì lợi ích của nhân loại, và hơn thế nữa là chinh phục Sa-tan, để mọi sinh vật có thể quy phục dưới sự thống trị của Ngài. Chỉ đây mới là công tác ý nghĩa, giá trị.
– Ý nghĩa của việc cứu rỗi con cháu Mô-áp, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Trích đoạn 187
Thời điểm Jêsus làm việc tại Giu-đê, Ngài đã làm việc công khai, nhưng hiện nay, Ta làm việc và phán giữa các ngươi trong bí mật. Những người ngoại đạo hoàn toàn không hay biết về việc đó. Công tác của Ta giữa các ngươi khép kín đối với người ngoài. Những lời này, những hình phạt và sự phán xét này, chỉ các ngươi chứ không ai khác được biết. Tất cả công tác này được thực hiện giữa các ngươi và được tiết lộ chỉ cho các ngươi; không ai trong số những người ngoại đạo biết điều này, vì vẫn chưa đến lúc. Những người này ở đây sắp được làm cho trọn vẹn sau khi chịu những hình phạt, nhưng người ngoài không hay biết gì về điều này. Công tác này quá ẩn giấu! Đối với họ, việc Đức Chúa Trời trở nên xác thịt được giấu kín, nhưng đối với những người trong dòng chảy này, có thể nói rằng Ngài công khai. Mặc dù ở Đức Chúa Trời, tất cả đều công khai, tất cả đều được tỏ lộ, và tất cả đều được giải phóng, nhưng điều này chỉ đúng với những người tin vào Ngài; đối với phần còn lại, những người ngoại đạo, thì không được biết gì cả. Công tác hiện đang được tiến hành giữa các ngươi và ở Trung Quốc được khép chặt, để không cho họ biết. Nếu họ biết đến công tác này, tất cả những gì họ sẽ làm là lên án và bức hại. Họ sẽ không tin vào nó. Để làm việc trong quốc gia của con rồng lớn sắc đỏ, nơi lạc hậu nhất này, không phải là nhiệm vụ dễ dàng. Nếu công tác này được đưa ra công khai, nó sẽ không thể nào tiếp tục. Giai đoạn công tác này đơn giản là không thể được thực hiện tại nơi này. Nếu công tác này được thực hiện công khai, làm sao họ có thể cho phép nó tiếp tục được? Chẳng phải điều này sẽ khiến công tác gặp rủi ro còn lớn hơn sao? Nếu công tác này không được che giấu, mà lại được thực hiện như trong thời của Jêsus, khi Ngài đã chữa lành người bệnh và đuổi quỷ một cách ngoạn mục, thì chẳng phải nó đã bị ma quỷ “bắt giữ” từ lâu rồi sao? Liệu chúng có thể chịu được sự tồn tại của Đức Chúa Trời không? Nếu giờ đây Ta bước vào các hội đường để rao giảng và thuyết giáo cho con người, thì chẳng phải Ta đã tan thành từng mảnh từ lâu rồi sao? Và nếu điều này xảy ra, thì làm sao công tác của Ta có thể tiếp tục được thực hiện? Lý do không hề có dấu kỳ phép lạ nào được thể hiện công khai là vì mục đích che giấu. Vì vậy, đối với những người ngoại đạo, công tác của Ta không thể nhìn thấy, biết đến hoặc khám phá. Nếu giai đoạn công tác này được thực hiện theo cách tương tự như của Jêsus trong Thời đại Ân điển, thì nó không thể được vững chắc như bây giờ. Vì vậy, làm việc bí mật theo cách này có lợi cho các ngươi và cho công tác nói chung. Khi công tác của Đức Chúa Trời trên đất chấm dứt, nghĩa là khi công tác bí mật này kết thúc, thì giai đoạn công tác này sẽ rộ lên công khai. Tất cả sẽ biết rằng có một nhóm người đắc thắng ở Trung Quốc; tất cả sẽ biết rằng Đức Chúa Trời trở nên xác thịt ở Trung Quốc và công tác của Ngài đã kết thúc. Chỉ khi đó con người mới chợt nhận ra: Tại sao Trung Quốc vẫn chưa có biểu hiện suy tàn hay sụp đổ? Hóa ra Đức Chúa Trời đang đích thân thực hiện công tác của Ngài tại Trung Quốc và đã hoàn thiện một nhóm người thành những người đắc thắng.
– Lẽ mầu nhiệm của sự nhập thể (2), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời