Cách mưu cầu lẽ thật (10)

Hôm nay chúng ta sẽ tiếp tục thông công về nội dung của buổi nhóm họp lần trước. Buổi nhóm họp trước chúng ta đã thông công về điều gì? (Thưa, lần trước Đức Chúa Trời chủ yếu thông công về hai chủ đề. Đầu tiên, Đức Chúa Trời đã thông công một số nội dung về câu hỏi có người đưa ra: “Nếu nhân loại không mưu cầu lý tưởng và mong muốn thì liệu thế giới có còn phát triển được đến như hiện tại không?” Tiếp theo, Đức Chúa Trời đã thông công về một số cách nhìn nhận và quan điểm sai lầm của con người về hôn nhân, rồi sau đó còn thông công về khái niệm và định nghĩa đúng đắn của hôn nhân.) Lần trước Ta đã thông công về một chủ đề rất rộng – hôn nhân. Hôn nhân là một chủ đề rất rộng liên quan đến toàn bộ nhân loại và xuyên suốt lịch sử phát triển của nhân loại. Chủ đề này liên quan đến cuộc sống thường nhật của con người, và nó rất quan trọng với mỗi người. Lần trước chúng ta đã thông công về một số nội dung liên quan đến chủ đề này, chủ yếu là về nguồn gốc và sự hình thành của hôn nhân, cũng như sự căn dặn và tiền định của Đức Chúa Trời cho cả hai bên trong hôn nhân, trách nhiệm và nghĩa vụ trong hôn nhân mà cả hai bên phải đảm nhận. Những nội dung này được thông công chủ yếu căn cứ trên điều gì? (Thưa, căn cứ theo ghi chép Kinh Thánh.) Thông công này căn cứ trên ghi chép trong Kinh Thánh về những lời và đoạn trong Kinh Thánh nói về việc tiền định hôn nhân cho con người kể từ khi Đức Chúa Trời tạo ra loài người, đúng không? (Thưa, đúng.) Qua thông công lần trước, và thông qua lần đọc trước về một số câu nói và cách làm của Đức Chúa Trời đối với hôn nhân của con người như được ghi chép trong Kinh Thánh, hiện tại phải chăng các ngươi đã có định nghĩa chính xác về hôn nhân rồi? Có người nói: “Chúng con còn trẻ, về chuyện hôn nhân, chúng con chưa có khái niệm, cũng không có trải nghiệm nào. Bảo chúng con định nghĩa hôn nhân thì có hơi làm khó chúng con.” Có làm khó các ngươi không? (Thưa, không.) Không làm khó đâu. Vậy chúng ta nên định nghĩa hôn nhân như thế nào? Dựa vào những câu nói và cách làm của Đức Chúa Trời đối với hôn nhân của con người, chẳng phải các ngươi nên có định nghĩa chính xác về hôn nhân rồi sao? (Thưa, đúng vậy.) Về hôn nhân, dù đã kết hôn hay chưa, ngươi đều cần phải có hiểu biết chính xác về những lời mà Ta đang thông công. Đây là một phương diện lẽ thật mà ngươi phải hiểu. Theo góc nhìn này mà nói, thì dù ngươi đã có trải nghiệm hôn nhân hay chưa, dù ngươi có cảm thấy hứng thú với hôn nhân hay không, và bất kể những tính toán hay kế hoạch trước kia của ngươi đối với hôn nhân thế nào, chỉ cần vấn đề này liên quan đến việc mưu cầu lẽ thật của ngươi, thì ngươi phải hiểu biết nó. Đây cũng là một chuyện mà ngươi phải nhìn cho thấu, vì nó liên quan đến lẽ thật, đến những tư tưởng và quan điểm của con người, đến việc mưu cầu lẽ thật của con người, và đến những nguyên tắc và con đường thực hành trên con đường mưu cầu lẽ thật của ngươi. Vậy nên, dù ngươi đã trải nghiệm hôn nhân hay chưa, có hứng thú với hôn nhân hay không, hay tình trạng hôn nhân của ngươi như thế nào, nếu ngươi muốn mưu cầu lẽ thật và đạt được sự cứu rỗi thì ngươi nên có hiểu biết chính xác, có tư tưởng và quan điểm chính xác về hôn nhân, tương tự như ngươi nên có với bất kỳ vấn đề nào liên quan đến lẽ thật; mà không phải chống đối nó trong lòng, hay nhìn nó qua lăng kính nhất định và đối đãi với nó theo quan niệm nào đó, hoặc căn cứ vào bối cảnh và hoàn cảnh của ngươi mà đối đãi với nó, hoặc lựa chọn được mất với nó. Đó đều là những quan điểm không chính xác. Hôn nhân, cũng giống như bất kỳ vấn đề nào khác, đều liên quan đến quan điểm, lập trường, và góc độ con người nhìn nhận vấn đề này. Nếu ngươi muốn có những tư tưởng, quan điểm, góc nhìn và lập trường đúng đắn, phù hợp với lẽ thật về chuyện hôn nhân, thì ngươi phải có hiểu biết và định nghĩa chính xác về nó, và những chuyện này đều liên quan đến lẽ thật. Vì vậy, về chuyện hôn nhân, ngươi cũng nên có hiểu biết đúng đắn và cũng nên hiểu lẽ thật mà Đức Chúa Trời muốn con người hiểu trong chuyện này. Chỉ khi hiểu lẽ thật trong chuyện này, thì khi ngươi kết hôn, hoặc khi cuộc sống của ngươi phát sinh những chuyện liên quan đến chuyện hôn nhân, ngươi mới có thể có tư tưởng và quan điểm đúng đắn để đối diện với nó, mới có thể có lập trường và góc độ đúng đắn để nhìn nhận nó, và đương nhiên, cũng mới có một con đường chính xác để giải quyết những vấn đề liên quan đến hôn nhân. Có người nói: “Con sẽ không bao giờ bước chân vào hôn nhân.” Có lẽ ngươi sẽ không bao giờ bước vào hôn nhân, nhưng ngươi sẽ không tránh khỏi việc có những tư tưởng và quan điểm về hôn nhân, dù lớn hay nhỏ, đúng hay sai. Thêm vào đó, trong cuộc sống, ngươi sẽ không tránh khỏi gặp phải những người hoặc những sự việc đại diện cho những vấn đề liên quan đến chuyện hôn nhân, vậy ngươi sẽ nhìn nhận và giải quyết những vấn đề này như thế nào? Khi những vấn đề liên quan đến hôn nhân này nảy sinh, ngươi phải làm gì mới có thể có những tư tưởng và quan điểm, lập trường và nguyên tắc thực hành chính xác? Ngươi nên làm thế nào mới có thể đạt tới mức phù hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời? Đây là điều ngươi nên hiểu, và cũng là điều ngươi nên mưu cầu từ nay trở đi. Ta nói thế nghĩa là sao? Nghĩa là có một số người có thể nghĩ rằng hôn nhân chẳng liên quan gì đến họ, nên họ lắng nghe một cách lơ đễnh. Quan điểm như thế đúng hay sai? (Thưa, là sai.) Là sai. Bất kể chủ đề ta thông công là gì, chỉ cần nó liên quan đến lẽ thật, liên quan đến việc mưu cầu lẽ thật, và liên quan đến những căn cứ và tiêu chí trong việc nhìn nhận con người và sự việc, cách hành xử và hành động, thì ngươi nên tiếp nhận, lắng nghe thật nghiêm túc và cẩn thận. Vì đây không phải là thường thức, không phải là tri thức, càng không phải là kiến thức chuyên môn – mà là lẽ thật.

Hãy quay lại tiếp tục thông công về chủ đề hôn nhân. Định nghĩa của hôn nhân nên là gì? Dựa vào sự tiền định và an bài của Đức Chúa Trời đối với hôn nhân, cũng như những sự giao đãi và căn dặn của Ngài đối với hai bên trong hôn nhân mà chúng ta đã thông công lần trước, khái niệm và định nghĩa của các ngươi về hôn nhân không nên mơ hồ; mà đã phải rất rõ ràng và sáng tỏ rồi. Hôn nhân nên là sự kết hợp của một nam một nữ dưới sự tiền định và an bài của Đức Chúa Trời. Đây là sự cấu thành của hôn nhân, trong đó có những tiền đề. Dưới sự tiền định và an bài của Đức Chúa Trời, một nam một nữ kết hợp tạo nên một cuộc hôn nhân. Có phải là thế không? (Thưa, phải.) Định nghĩa về hôn nhân như thế có chính xác về mặt lý thuyết không? (Thưa, có.) Vì sao nói là chính xác? Làm sao các ngươi có thể chắc chắn như thế là chính xác? Vì nó căn cứ theo ghi chép Kinh Thánh, và có những dấu vết có thể lần theo. Ghi chép Kinh Thánh đã ghi lại rất rõ về ngóc ngách ngọn nguồn của hôn nhân. Đó là định nghĩa của hôn nhân. Dựa trên cơ sở đã rõ ràng về định nghĩa hôn nhân, chúng ta hãy xem trách nhiệm mà mỗi bên phải đảm nhận trong hôn nhân là gì. Những đoạn Kinh Thánh mà chúng ta đọc ở buổi nhóm họp trước có phải đã ghi chép rõ ràng rồi không? (Thưa, phải.) Trách nhiệm đơn giản nhất mà mỗi bên phải đảm nhận trong hôn nhân chính là bầu bạn và giúp đỡ lẫn nhau. Sau đó, Đức Chúa Trời đã căn dặn người nữ thế nào? (Đức Chúa Trời phán với người nữ: “Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con; dục vọng ngươi phải hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi” (Sáng Thế 3:16).) Đây là câu nói nguyên văn trong Kinh Thánh. Theo ngôn từ hiện tại thì sự căn dặn của Đức Chúa Trời cho người nữ chính là trách nhiệm của người nữ. Trách nhiệm đó là gì? Là sinh con và nuôi con, chăm sóc và yêu thương chồng mình. Đây là sự căn dặn của Đức Chúa Trời đối với người nữ. Vậy Đức Chúa Trời căn dặn người nam thực hiện trách nhiệm gì? Là trụ cột của gia đình, người nam phải gánh vác gánh nặng cuộc sống gia đình, dốc sức và đổ mồ hôi để nuôi gia đình, còn phải gánh vác gánh nặng quản lý các thành viên trong gia đình, quản lý người nữ của mình và cuộc sống của bản thân mình. Đây là sự phân công trách nhiệm của Đức Chúa Trời giữa nam và nữ. Ngươi đã sáng tỏ và rõ ràng về những trách nhiệm của nam và nữ rồi chứ. Đây chính là định nghĩa và sự hình thành của hôn nhân, cũng như trách nhiệm mà cả hai bên trong hôn nhân đảm nhận và nghĩa vụ mà họ phải thực hiện. Bản thân hôn nhân chính là vậy, nội dung thực tế của hôn nhân là vậy. Trong nội dung mà chúng ta đã thảo luận về hôn nhân, có điều tiêu cực nào không? (Thưa, không.) Không có gì tiêu cực cả. Tất cả đều thuần khiết nhất, phù hợp với lẽ thật nhất và phù hợp với sự thật, đồng thời cũng phù hợp theo căn cứ từ lời Đức Chúa Trời. Vì đã có những ghi chép Kinh Thánh làm căn cứ, nên chuyện hôn nhân đã trở nên rất sáng tỏ và rõ ràng với con người hiện tại; chúng ta không cần phải đặt ra quá nhiều tiền đề hay dùng quá nhiều ngôn từ để nói về lai lịch của hôn nhân. Không cần thiết. Định nghĩa của hôn nhân rất rõ ràng, trách nhiệm nên đảm nhận và nghĩa vụ nên thực hiện của hai bên trong hôn nhân cũng đã rất rõ ràng và sáng tỏ. Khi đã rõ ràng và sáng tỏ về những điều này, thì nó có tác dụng như thế nào đến việc mưu cầu lẽ thật? Ý nghĩa đằng sau việc hiểu định nghĩa và sự cấu thành của hôn nhân, cũng như trách nhiệm của cả hai bên là gì? Hay nói cách khác, thông công về nội dung này cần đạt được kết quả gì và có tác dụng gì trên con người? Nói một cách thông tục thì sau khi các ngươi đã nghe những nội dung này, chúng có lợi ích gì cho các ngươi? (Thưa, chúng cho phép chúng con có được một quan điểm nhìn nhận mọi sự đúng đắn và phù hợp với lẽ thật khi đối diện với hôn nhân, hay khi nhìn nhận những chuyện hôn nhân; chúng con sẽ không bị các trào lưu tà ác hay những tư tưởng do Sa-tan tiêm nhiễm ảnh hưởng và khiến cho lầm lạc.) Đây là một tác dụng tích cực. Thông công về định nghĩa và sự hình thành của hôn nhân, cũng như về trách nhiệm của hai bên trong hôn nhân, phải chăng có thể khiến con người có tư tưởng và quan điểm đúng đắn đối với hôn nhân? (Thưa, phải.) Khi người ta đã có tư tưởng và quan điểm đúng đắn, thì những lợi ích và tác dụng tích cực từ đó phải chăng có thể khiến họ tạo dựng một cái nhìn đúng đắn về hôn nhân trong tư tưởng và ý thức? Khi đã có cái nhìn đúng đắn về hôn nhân, có tư tưởng và quan điểm đúng đắn, thì phải chăng con người đã có sức đề kháng và miễn dịch nhất định với những tư tưởng và quan điểm sai trái và tiêu cực thuộc về những trào lưu tà ác? (Thưa, phải.) Sức đề kháng và miễn dịch này nghĩa là gì? Nghĩa là ít nhất, ngươi có sự phân định đối với một số tư tưởng và quan điểm tà ác về hôn nhân đến từ thế giới và xã hội. Khi có sự phân định rồi, ngươi sẽ không còn căn cứ vào những tư tưởng và quan điểm đến từ những trào lưu tà ác của thế giới mà nhìn nhận hôn nhân, cũng sẽ không còn tiếp nhận những tư tưởng và quan điểm đó nữa. Vậy thì việc không tiếp nhận những tư tưởng và quan điểm đó có lợi ích gì cho ngươi? Lợi ích chính là những tư tưởng và quan điểm đó sẽ không chi phối được cách nhìn nhận và cách hành động của ngươi đối với hôn nhân, sẽ không còn làm bại hoại ngươi được nữa, cũng sẽ không còn gieo vào ngươi những tư tưởng và quan điểm tà ác đó nữa; vì vậy ngươi sẽ không hùa theo những trào lưu tà ác của thế giới để nhìn nhận hôn nhân, cũng sẽ không bị cuốn theo những trào lưu tà ác đó, như vậy thì ngươi đã đứng vững làm chứng được về chuyện hôn nhân rồi. Vậy nên theo một nghĩa nào đó, phải chăng ngươi đã từ bỏ một phần tư tưởng hoặc cách nhìn của Sa-tan và thế giới về hôn nhân rồi? (Thưa, phải.) Khi đã có định nghĩa chính xác về hôn nhân, thì con người đã có thể đạt tới mức buông bỏ một số mưu cầu, lý tưởng và mong muốn của mình đối với hôn nhân, nhưng chỉ chừng đó đã đủ chưa? Như thế là họ đã có thể hoàn toàn buông bỏ được những mưu cầu, lý tưởng và mong muốn đối với hôn nhân rồi sao? Còn lâu mới đủ. Họ chẳng có gì ngoài một định nghĩa và khái niệm chính xác về hôn nhân, chỉ đơn thuần là một khái niệm và hiểu biết sơ bộ, cơ bản về hôn nhân trong suy nghĩ. Nhưng những tư tưởng, quan điểm và chủ đề khác nhau mà thế giới và xã hội truyền bá về hôn nhân vẫn sẽ ảnh hưởng tư tưởng và quan điểm của ngươi, ảnh hưởng đến cách nhìn nhận, thậm chí là cách hành động của ngươi đối với hôn nhân. Cho nên, đến hiện tại, sau khi đã có định nghĩa chính xác về hôn nhân, con người vẫn không thể triệt để và hoàn toàn buông bỏ những mưu cầu, lý tưởng và mong muốn của mình đối với hôn nhân. Vậy nên tiếp theo, phải chăng chúng ta nên thông công về những mưu cầu, lý tưởng và mong muốn khác nhau nảy sinh trong con người đối với hôn nhân không nhỉ? (Thưa, phải.)

Ta sẽ khép lại thông công về định nghĩa của hôn nhân phía trên. Tiếp theo, chúng ta sẽ thông công về cách để buông bỏ những mưu cầu, lý tưởng và mong muốn nảy sinh bởi vì hôn nhân. Trước hết, hãy thông công về những ảo tưởng khác nhau của con người về hôn nhân. Khi nói đến ảo tưởng, ý Ta là những hình ảnh mà con người tưởng tượng trong đầu. Những hình ảnh này chưa trở thành sự thật; chúng chỉ là tưởng tượng xuất phát từ cuộc sống thường nhật của con người hay những hoàn cảnh mà họ gặp. Những tưởng tượng này tạo ra những hình tượng và ảo ảnh trong đầu con người, thậm chí trở thành những mưu cầu, lý tưởng và mong muốn của họ đối với hôn nhân. Vậy nên, để có thể đạt đến mức buông bỏ những mưu cầu, lý tưởng và mong muốn đối với hôn nhân, trước hết ngươi nên buông bỏ những ảo tưởng khác nhau đã từng ở trong đầu óc và thâm tâm ngươi hoặc đã bị gieo rắc vào đó. Đây là việc đầu tiên các ngươi phải làm để buông bỏ những mưu cầu, lý tưởng và mong muốn đối với hôn nhân – đó là buông bỏ những ảo tưởng khác nhau về hôn nhân. Vậy trước tiên hãy nói về những ảo tưởng của con người về hôn nhân. Những câu nói khác nhau về hôn nhân của cổ nhân từ hàng trăm hoặc hàng ngàn năm trước đã cách ngày nay rất xa, nên chúng ta sẽ không nói về chúng. Thay vào đó chúng ta sẽ nói về những câu nói hoặc cách hành động mới mẻ, phổ biến, hợp thời và thuộc xu thế chủ đạo của con người hiện tại đối với hôn nhân; những điều này ảnh hưởng đến các ngươi, khiến các ngươi liên tục nảy sinh đủ mọi loại ảo tưởng về hôn nhân trong thâm tâm hay đầu óc mình. Đầu tiên, một số câu nói về hôn nhân sẽ trở nên phổ biến trong xã hội, rồi sau đó những tác phẩm văn học khác nhau cũng sẽ chứa những tư tưởng và câu nói của tác giả về hôn nhân, khi những tác phẩm văn học này được chuyển thể thành phim truyền hình hay điện ảnh để công chiếu, chúng càng thể hiện một cách sống động những câu nói khác nhau của con người về hôn nhân, những mưu cầu, lý tưởng và mong muốn của họ về nó. Dù ít hay nhiều, hữu hình hay vô hình thì những điều này cũng không ngừng bị nhồi nhét cho các ngươi. Các ngươi chưa kịp có khái niệm chính xác về hôn nhân thì những câu nói và thông điệp xã hội về hôn nhân đã giữ ấn tượng chủ đạo trước và được các ngươi tiếp nhận; rồi các ngươi bắt đầu ảo tưởng về chuyện hôn nhân của mình sẽ thế nào, nửa kia của mình sẽ ra sao. Dù ngươi tiếp nhận những thông điệp này qua phim truyền hình, điện ảnh và tiểu thuyết hay qua những nhóm xã hội và những người trong cuộc sống của ngươi – bất kể từ nguồn nào, thì những thông điểm này đều đến từ con người, xã hội và thế giới, hay nói một cách chính xác, chúng biến đổi và chuyển hóa từ những trào lưu tà ác. Đương nhiên, nói chính xác hơn thì chúng đến từ Sa-tan. Có phải vậy không? (Thưa, phải.) Trong quá trình này, bất kể các ngươi đã tiếp nhận những tư tưởng và quan điểm nào về hôn nhân, thì tóm lại, trong khi tiếp nhận những tư tưởng và quan điểm khác nhau về hôn nhân, các ngươi cũng đang liên tục ảo tưởng về hôn nhân trong suy nghĩ. Những ảo tưởng này đều xoay quanh một điều. Các ngươi có biết là gì không? (Thưa, là ái tình.) Trong xã hội hiện tại, thông điệp càng phổ biến hoặc càng thuộc xu thế chủ đạo hơn thì đều là những thông điệp xoay quanh ái tình để nói về hôn nhân; hạnh phúc của một cuộc hôn nhân phụ thuộc vào sự tồn tại của ái tình và việc vợ chồng có yêu thương nhau hay không. Những câu nói của xã hội về chuyện hôn nhân – những điều thấm vào trong tư tưởng của con người và sâu trong linh hồn họ – chủ yếu là về ái tình. Những câu nói này được tiêm nhiễm vào con người, khiến họ nảy sinh đủ loại ảo tưởng về hôn nhân. Ví dụ như, họ ảo tưởng về người họ yêu sẽ là ai, là người như thế nào, và những yêu cầu của họ về đối tượng kết hôn là gì. Đặc biệt là những thông điệp đa chiều đến từ xã hội, chúng đều nói rằng họ chắc chắn cần yêu người đó và người đó cần phải yêu họ, chỉ như vậy mới có ái tình chân thực, rằng có ái tình mới có thể dẫn đến hôn nhân, chỉ có hôn nhân dựa trên ái tình mới tốt đẹp và hạnh phúc, và hôn nhân mà không có ái tình là vô đạo đức. Vậy nên, trước cả khi tìm được người mình yêu, mỗi người đã chuẩn bị tìm kiếm ái tình của mình, thu xếp trước cho hôn nhân, chuẩn bị tốt cho ngày mà họ gặp người mình yêu để có thể quên mình lao vào tìm kiếm và thực hiện tình yêu của mình. Đúng không? (Thưa, đúng.) Trước kia, con người không nói về ái tình, cũng không nói về cái gọi là tự do hôn nhân, hay nói rằng tình yêu là vô tội, tình yêu là chí thượng. Lúc đó, con người cảm thấy ngại ngùng khi nói về hôn nhân, yêu đương và ái tình. Nhất là khi nó liên quan đến người khác giới, người ta sẽ cảm thấy ngại ngùng, họ sẽ đỏ mặt và tim đập nhanh hơn, hoặc họ sẽ ấp a ấp úng. Ngày nay, thái độ của con người đã thay đổi. Khi thấy người khác thảo luận về ái tình và hôn nhân một cách bình thản và tự tin, họ cũng muốn làm người như thế, có thể thảo luận về ái tình và hôn nhân một cách thoải mái và thẳng thắn, không bị đỏ mặt hay tim đập nhanh. Hơn thế nữa, họ muốn được thẳng thắn thú nhận cảm xúc khi họ gặp đối tượng mình muốn theo đuổi, thổ lộ lòng mình; họ thậm chí ảo tưởng về đủ mọi cảnh tượng tỏ tình hay được tỏ tình, hơn thế nữa, họ ảo tưởng về chuyện người mình yêu và theo đuổi sẽ như thế nào. Phụ nữ ảo tưởng người mình theo đuổi sẽ là một chàng bạch mã hoàng tử, cao ít nhất 1,8 mét, ăn nói dí dỏm, có trình độ, có học thức, có bối cảnh gia đình tốt, tốt hơn nữa là có nhà có xe, có địa vị trong xã hội, có của ăn của để, v.v…. Còn đàn ông thì ảo tưởng rằng nửa kia của họ sẽ là một công chúa bạch tuyết, một người phụ nữ kiên cường có thể tỏa sáng ở cả những buổi tụ họp xã hội lẫn ở trong bếp, thậm chí họ ảo tưởng rằng nửa kia của họ sẽ là một người phụ nữ vừa giàu vừa đẹp, có một bối cảnh gia đình vững chắc thì càng tốt. Như thế người ta sẽ nói rằng hai người họ kết hợp giống như kim đồng ngọc nữ, duyên trời định, trọn kiếp bên nhau, v.v… là cặp đôi khiến ai ai cũng phải ngưỡng mộ, không bao giờ cãi nhau hay giận nhau, cũng không bao giờ cãi cọ vặt vãnh vì bất kỳ lý do gì, yêu thương nhau sâu đậm – như những cặp đôi trong phim thề non hẹn biển, yêu nhau đến khi biển cạn đá mòn, hạnh phúc đến già, không bao giờ ghét bỏ hay trốn tránh nhau, không bao giờ buông bỏ nhau, không bao giờ xa cách nhau. Phụ nữ ảo tưởng rằng một ngày họ sẽ bước vào lễ đường hôn nhân cùng người mình yêu, với sự chúc phúc của mục sư, họ sẽ trao nhẫn cho nhau, cùng tuyên thệ, thề non hẹn biển, cam kết sẽ sống cả đời này cùng nhau và không rời xa hay buông bỏ nhau bất kể ốm đau hay nghèo khó. Đàn ông cũng ảo tưởng rằng một ngày kia họ sẽ bước vào lễ đường hôn nhân với người phụ nữ họ yêu thương, trao nhẫn và tuyên thệ dưới sự chúc phúc của mục sư, thề rằng cho dù cô dâu mới của mình có già hay xấu đi chừng nào, họ đều sẽ không xa rời hay buông bỏ, thề rằng họ sẽ cho cô ta một cuộc hôn nhân tuyệt vời và hạnh phúc nhất, và biến cô ta thành người phụ nữ hạnh phúc nhất thế gian. Đàn ông và phụ nữ đều ảo tưởng như vậy, mưu cầu như vậy, và trong đời thực, họ cũng liên tục học đủ loại mưu cầu, lý tưởng và mong muốn về hôn nhân. Đồng thời, họ còn không ngừng lặp đi lặp lại những ảo tưởng này trong thâm tâm, mong một ngày những ảo tưởng của họ sẽ có thể trình diễn trong đời thực, để chúng không còn là một loại lý tưởng hay mong muốn nữa, mà biến thành hiện thực. Dưới ảnh hưởng của cuộc sống hiện đại và sự hun đúc của đủ kiểu thông điệp và thông tin trong xã hội, mỗi người phụ nữ đều mong được mặc váy cưới trắng và trở thành cô dâu đẹp nhất thế giới, người phụ nữ hạnh phúc nhất thế giới; còn mong được đeo nhẫn kim cương của riêng mình, chắc chắn phải hơn 1 cara, và phải làm từ kim cương tinh khiết nhất, không được có bất kỳ khuyết điểm nào và còn phải do chính người đàn ông cô ta yêu thương nhất đeo cho. Đây là ảo tưởng hôn nhân của phụ nữ. Một mặt, cô ta có một số ảo tưởng về hình thức bước vào hôn nhân; mặt khác cô ta cũng có đủ mọi ảo tưởng về cuộc sống hôn nhân, hy vọng người đàn ông mình yêu sẽ không phụ kỳ vọng của mình, có thể yêu cô ta sâu đậm trong hôn nhân cũng như khi đang yêu, sẽ không yêu người phụ nữ khác, có thể cho cô ta một cuộc sống hạnh phúc, giữ lời cam kết của mình, và họ sẽ ở bên nhau cho đến khi biển cạn đá mòn, đời đời kiếp kiếp. Nhưng mặt khác, cô ta vẫn có những ảo tưởng và yêu cầu đối với người mình yêu. Ít ra anh ta phải là một bạch mã hoàng tử, nếu không cưỡi ngựa trắng thì tối thiểu cũng phải là ngựa ô. Như thế nghĩa là trong lòng người nữ, ý trung nhân lý tưởng của cô nhất định phải ở đẳng cấp hoàng tử – thật quá lãng mạn, thật quá danh giá, cuộc sống của cô ta sẽ trở nên hạnh phúc biết bao. Căn cứ để con người nảy sinh những ảo tưởng này đều đến từ xã hội, những nhóm xã hội, hoặc những kiểu thông điệp, những loại sách báo, tác phẩm văn học và phim ảnh; thêm vào đó là những yếu tố có chút tiểu tư sản sâu trong lòng họ, phù hợp với sở thích của họ, vậy nên họ ảo tưởng về đủ mọi dạng đối tượng mà họ yêu, đủ mọi dạng ý trung nhân, mọi hình thức hôn nhân và cuộc sống hôn nhân. Tóm lại, các ảo tưởng khác nhau của con người đều căn cứ theo cách hiểu về hôn nhân, sự diễn giải về hôn nhân và những câu nói khác nhau về hôn nhân của xã hội. Phụ nữ là như thế, mà đàn ông thì cũng vậy. Những mưu cầu khác nhau về hôn nhân của đàn ông cũng không ít hơn phụ nữ. Đàn ông cũng mong tìm được một cô gái anh ta thích, hiền hạnh, dịu dàng, thiện lành và biết quan tâm, đối xử với anh ta bằng sự quan tâm và tình cảm, nương tựa vào anh ta như một chú chim non, tuyệt đối hết lòng với anh ta, không chê bai bất kỳ thiếu sót và khuyết điểm nào của anh ta, thậm chí còn có thể chấp nhận mọi khuyết điểm và thiếu sót của anh ta, khi anh ta cảm thấy hoang mang, nản lòng hay gặp phải thất bại thì đều sẽ đưa tay ra giúp đỡ và hỗ trợ anh ta, nói với anh ta: “Anh yêu à, không sao cả, có em đây. Không có gì là chúng ta không thể cùng nhau vượt qua. Đừng sợ. Bất kỳ lúc nào cũng có em bầu bạn bên anh”. Phụ nữ có đủ mọi kiểu yêu cầu về đàn ông, và cũng như vậy, đàn ông có đủ mọi kiểu yêu cầu về phụ nữ, vậy nên dù là đàn ông hay phụ nữ, họ đều tìm kiếm cho mình một nửa kia giữa muôn người, và căn cứ để tìm nửa kia của họ chính là những ảo tưởng khác nhau của hai bên nam nữ đối với hôn nhân. Đương nhiên, một người đàn ông sẽ thường ảo tưởng hơn về việc sau khi anh ta có một chỗ đứng vững chắc trong xã hội, có sự nghiệp, có nền tảng kinh tế và gom góp được một số vốn liếng nhất định, thì có thể tìm được một nửa kia tốt hơn, một người tương xứng với anh ta về địa vị, thân phận, tầm nhìn và thị hiếu. Chỉ cần anh ta thích và cô ta phù hợp với những yêu cầu của anh ta, thì anh ta sẽ bằng lòng làm bất kỳ việc gì cho cô ta, thậm chí lên núi đao xuống biển lửa cũng cam lòng. Đương nhiên, nói một cách thực tế hơn, anh ta sẽ mua những đồ đắt tiền cho cô ta, thỏa mãn những nhu cầu vật chất của cô ta, mua xe, mua nhà, mua nhẫn kim cương, mua túi xách và áo quần hàng hiệu cho cô ta. Nếu có điều kiện hơn nữa thì anh ta sẽ mua cả một chiếc du thuyền lẫn một chiếc phi cơ riêng và đưa người phụ nữ anh ta yêu ra biển, nơi chỉ có hai người, hoặc đưa cô ta đi chu du thế giới, đi du lịch đến những dãy núi, những vùng đất và những thắng cảnh nổi tiếng nhất thế giới. Một cuộc sống như vậy thật tuyệt vời. Phụ nữ trả mọi giá cho những ảo tưởng hôn nhân khác nhau của họ, và cũng theo cách tương tự, đàn ông phấn đấu và nỗ lực vì những ảo tưởng hôn nhân khác nhau của mình. Bất kể ảo tưởng của con người đối với hôn nhân như thế nào, chỉ cần nó đến từ thế giới, từ những cách hiểu và câu nói của nhân loại bại hoại về hôn nhân, hoặc từ những thông tin về hôn nhân mà thế giới và nhân loại bại hoại tiêm nhiễm vào ngươi, thì những tư tưởng và quan điểm này, dù ít hay nhiều, sâu sắc hay hời hợt, đều sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống và đức tin của ngươi, sẽ ảnh hưởng đến nhân sinh quan và con đường ngươi đi trong đời. Bởi vì hôn nhân là việc mà người trưởng thành không thể tránh khỏi, và nó cũng là chủ đề không thể trốn tránh. Kể cả khi ngươi chọn độc thân cả đời, không bao giờ kết hôn, thì những ảo tưởng về hôn nhân của ngươi vẫn sẽ tồn tại. Có thể ngươi chọn độc thân, nhưng bắt đầu từ lúc ngươi có những khái niệm và suy nghĩ sơ khai nhất về hôn nhân thì ngươi đã có đủ mọi dạng ảo tưởng về nó. Những ảo tưởng này không những chiếm hữu suy nghĩ của ngươi, mà chúng còn lấp đầy cuộc sống thường nhật của ngươi, ảnh hưởng đến tư tưởng, quan điểm và những lựa chọn của ngươi khi đối mặt với mọi chuyện. Nói một cách đơn giản, nếu một người phụ nữ có một tiêu chuẩn cho người mà cô ta yêu, thì bất kể tiêu chuẩn đó có chín chắn và có cơ sở hay không, cô ta cũng sẽ dùng nó để cân nhắc xem nhân tính và nhân phẩm của người khác giới là tốt hay xấu, cũng như việc người khác giới đó có phải là loại đối tượng mà cô ta vui thích kết giao hay không. Tiêu chuẩn này không thể tách rời khỏi tiêu chuẩn mà cô ta dùng để chọn đối tượng kết hôn. Ví dụ, giả sử cô ta thích kiểu đàn ông mắt to mày rậm, mặt to vuông vức, nước da sáng sủa; nói năng tao nhã, có chút văn vở, và còn cư xử lễ độ nữa. Trong cách nhìn về tình yêu của mình, cô ta thấy có cảm tình với kiểu người này, và cô ta nghiêng về loại đàn ông này nhiều hơn. Nên trong cuộc sống, dù một người như thế có phải là người cô ta yêu hay không, thì chắc chắn cô ta có cảm tình với người đó. Nghĩa là khi cô ta tiếp xúc với một người như thế, thì dù nhân tính của anh ta tốt hay xấu, nhân phẩm như thế nào, có phải là người nham hiểm, là kẻ ác hay không, thì những điều này đều là thứ yếu; chúng không phải là tiêu chuẩn mà cô ta dùng để nhìn nhận những người khác giới. Tiêu chuẩn của cô ta là gì? Đó là tiêu chuẩn mà cô ta dựa vào nó để chọn chồng. Nếu đối phương phù hợp với tiêu chuẩn mà cô ta dùng để chọn chồng, thì dù anh ta không phải là người cô ta chọn làm chồng, thì anh ta vẫn là người cô ta vui thích kết giao. Vấn đề này nói lên điều gì? Cách nhìn của một người về tình yêu – nói một cách cụ thể hơn, tiêu chuẩn của một người đối với đối tượng yêu đương hoặc đối tượng kết hôn – ảnh hưởng cực lớn đến cách nhìn của cô ta về mọi người khác giới. Khi gặp một người đàn ông phù hợp tiêu chuẩn mà cô ta dùng để chọn chồng, cô ta thấy mọi thứ ở anh ra rất vừa mắt, giọng nói rất lọt tai, lời nói và hành động của anh ta rất dễ chịu. Kể cả anh ta không phải là người cô ta có ý định yêu và theo đuổi, cô ta vẫn thấy điểm nào của anh ta cũng vừa mắt. Cái vừa mắt này là phiền phức đấy. Dù anh ta nói gì, ngươi cũng không phân biệt được đúng sai; ngươi thấy anh ta cái gì cũng tốt, cái gì cũng đúng, và làm gì cũng giỏi. Từ những cảm tình của ngươi về anh ta, ngươi dần bắt đầu khâm phục và tôn thờ anh ta. Sự khâm phục và tôn thờ này đến từ đâu? Căn nguyên chính là tiêu chuẩn mà ngươi dùng để chọn đối tượng yêu đương và đối tượng kết hôn. Ở một mức độ nhất định, tiêu chuẩn này làm sai lệch cách nhìn người của ngươi; nói chính xác hơn, nó làm mờ đi các tiêu chí và căn cứ mà ngươi dùng để nhìn nhận những người khác giới. Vì vẻ ngoài của anh ta phù hợp với những tiêu chuẩn thẩm mỹ của ngươi, nên bất kể nhân phẩm của anh ta như thế nào, bất kể hành động của anh ta có phù hợp với nguyên tắc hay không, anh ta có nguyên tắc lẽ thật không, có phải là người mưu cầu lẽ thật không, có đức tin và sự quy phục chân thật đối với Đức Chúa Trời không – những điều này trở nên rất nhạt nhòa với ngươi, và ngươi sẽ rất dễ bị tình cảm chi phối trong cách nhìn nhận người này. Bởi vì ngươi có cảm tình với người này, và vì anh ta thỏa mãn tiêu chuẩn của ngươi về mặt tình cảm, nên ngươi thấy mọi việc anh ta làm đều tốt, đều ổn; ngươi bảo vệ và tôn thờ anh ta, thậm chí khi anh ta làm việc ác, ngươi không phân định được, cũng không vạch trần hay từ bỏ anh ta. Nguyên nhân của chuyện này là gì? Là do phần tình cảm đó của ngươi đang tác động, xâm chiếm lòng ngươi. Một khi tình cảm của ngươi tác động, thì có dễ cho ngươi làm mọi việc theo nguyên tắc không? Tình cảm của ngươi đã chiếm thế thượng phong, nên ngươi không có nguyên tắc nữa. Vậy nên, hậu quả mà chuyện này mang lại rất nghiêm trọng. Dù anh ta không phải là người ngươi yêu, hay không phải là đối tượng kết hôn của ngươi, anh ta vẫn phù hợp với thẩm mỹ và nhu cầu tình cảm của ngươi; dưới tiền đề này, ngươi không tránh khỏi bị tình cảm ảnh hưởng và kiểm soát, và rất khó để ngươi dựa vào lời Đức Chúa Trời mà nhìn nhận người này, xử lý một số vấn đề phát sinh từ người này và xử lý những vấn đề của riêng ngươi. Một khi tình cảm chi phối ngươi và nắm vai trò chủ đạo trong ngươi, thì ngươi rất khó thoát khỏi xiềng xích tình cảm trói buộc ngươi, rất khó bước vào thực tế của việc thực hành lẽ thật. Khi nói những điều này, ý của Ta là gì? Chính là tất cả mọi người đều có ảo tưởng về hôn nhân. Đây là vì ngươi không sống trong chân không hay một hành tinh khác, và đương nhiên ngươi không còn vị thành niên nữa, càng không bị thiểu năng trí tuệ hay là một kẻ đần độn; ngươi là một người trưởng thành, và ngươi có suy nghĩ của một người trưởng thành. Đồng thời, ngươi cũng khó lòng tránh được việc tiếp nhận những câu nói khác nhau của xã hội về hôn nhân, tiếp nhận những thông tin về hôn nhân đến từ xã hội và từ nhân loại tà ác. Sau khi tiếp nhận những điều này, ngươi khó lòng tránh được việc ảo tưởng về việc đối tượng yêu đương của mình sẽ là ai. Sự ảo tưởng này nghĩa là gì? Nghĩa là ấp ủ những suy nghĩ không thực tế, sáo rỗng. Dựa vào những gì đang thông công và vạch trần, chủ yếu chúng ta nhắm vào những câu nói khác nhau về hôn nhân đến từ xã hội và nhân loại tà ác. Vì ngươi không có một cách nhìn đúng đắn, phù hợp với lẽ thật về hôn nhân, nên ngươi không tránh khỏi bị những câu nói khác nhau về hôn nhân đến từ xã hội và nhân loại tà ác ảnh hưởng, làm mục ruỗng và bại hoại, nhưng ngươi lại không hề hay biết và nhận thức được. Ngươi không cảm thấy được đây là sự mục ruỗng và bại hoại. Một cách vô thức, ngươi nhận sự ảnh hưởng này, và vô tình ngươi bắt đầu nghĩ rằng mọi chuyện đều khá hợp tình hợp lý và đều là chuyện đương nhiên, nghĩ rằng đây đều là tư tưởng phải có ở người trưởng thành. Tự nhiên ngươi biến chúng thành những yêu cầu và nhu cầu chính đáng của ngươi – tư tưởng đúng đắn mà một người trưởng thành phải có. Vậy nên, từ lúc ngươi bắt đầu tiếp thu những thông điệp này, những ảo tưởng của ngươi về hôn nhân sẽ ngày càng leo thang và xâm nhập sâu hơn. Đồng thời, ngươi ngày càng mất đi cảm giác liêm sỉ về hôn nhân, hoặc có thể nói, ngươi sẽ cảm thấy ngày càng không chủ động cự tuyệt những ảo tưởng về hôn nhân này. Hay nói cách khác, ngươi sẽ càng ngày càng ảo tưởng về đối tượng yêu đương hay những cảnh tượng khác nhau và những sự việc liên quan đến hôn nhân một cách vô thức và táo bạo hơn. Có phải thế không? (Thưa, phải.) Con người càng tiếp nhận nhiều câu nói và thông tin về hôn nhân từ xã hội và nhân loại tà ác thì họ càng trở nên táo bạo và buông thả trong tưởng tượng về cuộc hôn nhân của mình, trong việc tìm kiếm và theo đuổi đối tượng yêu đương. Đồng thời, họ mong rằng người yêu của mình có thể giống như nhân vật được mô tả trong tiểu thuyết ngôn tình, phim truyền hình, hay phim lãng mạn – rằng người ta sẽ yêu họ vô điều kiện, cho đến khi biển cạn đá mòn, đến chết không rời. Còn bản thân họ, thì họ cũng sẽ yêu người yêu của mình sâu đậm như miêu tả trong phim ảnh và tiểu thuyết ngôn tình, cho đến khi biển cạn đá mòn, đến chết không rời. Nói tóm lại, những ảo tưởng này xa rời nhu cầu của nhân tính và sinh hoạt trong cuộc sống đời thực. Đương nhiên, chúng cũng xa rời bản chất của nhân tính; hoàn toàn không tương hợp với đời thực. Giống như bất kỳ điều gì mà con người nghĩ là tốt đẹp, chúng chỉ là những suy nghĩ đẹp đẽ được tạo ra từ tưởng tượng của con người. Vì những suy nghĩ này không phù hợp với định nghĩa về hôn nhân của Đức Chúa Trời và sự an bài của Ngài dành cho nó, con người nên buông bỏ những tư tưởng và quan điểm hoàn toàn không phù hợp với sự thật mà họ căn bản không nên mưu cầu này.

Con người nên buông bỏ những ảo tưởng phi thực tế về hôn nhân này như thế nào? Họ nên chỉnh đốn những tư tưởng và quan điểm về tình yêu và hôn nhân. Trước tiên, con người nên buông bỏ cái họ gọi là cách nhìn về tình yêu, buông bỏ những thứ hão huyền và những câu nói hão huyền như yêu ai đó đến khi biển cạn đá mòn, đến chết không rời, đời đời kiếp kiếp. Con người còn không biết liệu họ có sở hữu tình yêu đó trọn đời được không, nói gì đến đời đời kiếp kiếp, biển cạn đá mòn. Mất bao nhiêu năm thì biển mới cạn và đá mới mòn? Nếu sống lâu vậy thì con người chẳng phải thành yêu quái hết sao? Hãy sống tốt cuộc đời này cho tốt, cho có hiểu biết và rõ ràng là được. Hãy làm tròn vai trò của mình trong hôn nhân, làm cho tốt những gì một người đàn ông hay phụ nữ nên làm, thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm mà một người đàn ông hoặc phụ nữ nên thực hiện, có thể chung tay cùng nhau thực hiện trách nhiệm, hỗ trợ nhau, giúp đỡ nhau, và sống cùng nhau trọn đời, như thế là được rồi. Như thế là một cuộc hôn nhân hoàn hảo và chính đáng, còn tất cả những thứ khác, thứ gọi là tình yêu, thứ gọi là lời thề non hẹn biển, đời đời kiếp kiếp, hết thảy đều vô ích, đều chẳng liên quan gì đến hôn nhân mà Đức Chúa Trời đã tiền định, và chẳng liên quan gì đến sự căn dặn và giao đãi của Đức Chúa Trời đối với đàn ông và phụ nữ. Chính là vì bất cứ cuộc hôn nhân nào, cho dù tiền đề của hôn nhân là gì, điều kiện cá nhân của chồng hoặc vợ như thế nào, dù nghèo hay giàu, có tài cán, địa vị xã hội, và bối cảnh xã hội như thế nào, hoặc họ có phải là trai tài gái sắc, kim đồng ngọc nữ hay không; bất kể hôn nhân đến là do yêu từ cái nhìn đầu tiên hay do cha mẹ sắp đặt, dù nó xảy ra tình cờ hay được hình thành thông qua trường kỳ yêu đương – dù là kiểu hôn nhân nào, chỉ cần hai người muốn kết hôn và bước vào hôn nhân, thì cuộc hôn nhân này nhất thiết phải quay về với đời thực, trở lại cuộc sống hiện thực với củi gạo dầu muối, không ai thoát được, và mọi cuộc hôn nhân, dù nó có tình yêu hay không, thì cuối cùng cũng phải trở lại cuộc sống thường nhật. Ví dụ, lúc cần phải trả hóa đơn điện nước thì người vợ thì cứ than thở, “Trời ạ, hóa đơn lại tăng nữa rồi. Cái gì cũng tăng mà lương thì vẫn vậy. Vật giá cứ tăng mãi thế này, làm sao mà người ta sống nổi?” Nhưng dù than thở thì cô ta vẫn phải dùng nước và điện, đâu còn lựa chọn nào khác. Nên cô ta vẫn phải trả hóa đơn, trả xong rồi thì phải cắt bớt tiền ăn và chi tiêu, cố gắng dành dụm chút tiền vì hóa đơn tăng cao nên phải trả nhiều hơn. Thấy có rau giảm giá ngoài chợ, người chồng nói, “Hôm nay đậu giảm giá đấy. Mua thêm đi, mua đủ ăn hai tuần luôn”. Người vợ nói, “Mua bao nhiêu đây? Nếu mua nhiều quá mà không ăn hết thì nó sẽ hỏng. Với lại nếu mua nhiều thế thì sẽ không bỏ vừa tủ lạnh!” Người chồng đáp, “Bỏ không vừa thì ăn thêm một chút không được à? Chúng ta có thể ăn đậu hai lần một ngày. Đừng lúc nào cũng lo mua mấy thứ đắt tiền để ăn!” Người chồng nhận lương về và bảo vợ: “Tháng này anh lại có thưởng. Nếu anh có thưởng lớn cuối năm, chúng ta có thể đi du lịch. Ai cũng đi du lịch ở Maldives hay Bali. Anh cũng sẽ đưa em đến đó du lịch, để em tận hưởng.” Cây ăn quả quanh nhà họ sai trĩu quả, và hai vợ chồng bàn bạc: “Năm ngoái không được mùa. Năm nay quả to như vậy, chúng ta có thể bán để kiếm ít tiền. Kiếm được ít tiền thì chắc có thể sửa nhà được rồi nhỉ? Chúng ta có thể lắp cửa sổ hợp kim nhôm lớn hơn và làm cửa sắt mới rộng hơn.” Khi mùa đông rét mướt đến, người vợ nói, “Em mặc cái áo khoác bông này chắc phải bảy hay tám năm gì rồi, nó càng lúc càng mỏng. Khi nào nhận lương, anh chịu khó chi tiêu ít lại một chút rồi để dành tiền cho em mua một cái áo khoác mùa đông nhé. Một cái áo phao cũng tốn ít nhất ba đến bốn trăm, hoặc có thể năm đến sáu trăm tệ” Người chồng đáp. “Được, anh sẽ để dành ít tiền và mua cho em một cái áo lông vịt thật xịn, thật ấm”. Người vợ nói, “Anh muốn mua cho em nhưng mà anh cũng đã có đâu. Mua cho cả anh nữa nhé”. Người chồng đáp, “Nếu có đủ tiền anh sẽ mua. Nếu không thì áo khoác của anh vẫn còn mặc thêm được sang năm sau.” Một người chồng khác nói với vợ mình, “Anh nghe nói có một nhà hàng lớn mở gần đây bán nhiều loại hải sản lắm. Chúng ta đi ăn nhé?” Người vợ nói, “Đi nào. Giờ tiền bạc dư dả, mình có đủ tiền trả mà.” Họ đi ăn hải sản và về nhà trong vui sướng và cảm thấy rất hạnh phúc. Người vợ nghĩ, “Cuộc sống hiện tại của mình tốt quá. Mình đã cưới đúng chồng rồi. Mình được ăn hải sản tươi ngon. Hàng xóm của mình làm gì được ăn hải sản tươi ngon thế này. Cuộc sống của mình thật tuyệt!” Đây chẳng phải là cuộc sống hôn nhân sao? (Thưa, phải.) Cuộc sống của họ dành để tính toán và tranh cãi. Ngày nào họ cũng làm việc từ sớm đến tối mịt, tám giờ là phải đi làm nên phải dậy sớm từ lúc năm giờ sáng. Khi đồng hồ báo thức kêu, họ nghĩ, “Ôi, mình không muốn dậy chút nào, nhưng đâu còn lựa chọn nào khác, vì miếng cơm manh áo, vì cuộc sống mà, dậy thôi”, thế là họ ra khỏi giường một cách vất vả. “May là hôm nay mình không đi trễ, không thì bị cắt thưởng rồi”. Tan làm về nhà, họ nghĩ, “Một ngày thật vất vả cuối cùng cũng coi như vượt qua rồi, đúng là khó khăn mà! Đến khi nào mới hết phải làm việc đây?” Họ phải bận rộn như thế để kiếm tiền và vì miếng cơm manh áo; họ phải sống như thế này để có cuộc sống tốt, để duy trì cuộc sống của hai người trong khuôn khổ hôn nhân, hoặc để cho mình có một cuộc sống ổn định. Họ sống cả đời theo cách này cho đến khi già đi và khi đã cao tuổi, người vợ già nói, “Trời ơi, ông xem này, tóc tôi bạc hết rồi! Khóe mắt có vết chân chim còn khóe miệng thì cũng xuất hiện nếp nhăn rồi. Tôi già rồi à? Ông có chê tôi già mà đi tìm người phụ nữ khác không”? Người chồng nói, “Không đời nào, bà già cả lú lẫn rồi. Tôi sống với bà cả đời mà bà vẫn không hiểu tôi à. Bà nghĩ tôi là loại người như thế à?” Người vợ không ngừng lo lắng rằng chồng sẽ chê mình già và sợ chồng sẽ không cần mình nữa. Bà ta ngày càng giỏi càu nhàu, người chồng thì ngày càng ít nói, họ dần ít nói chuyện với nhau mà chỉ ngồi xem chương trình TV của riêng mình, không ai để ý đến ai. Một hôm, bà vợ nói, “Ông à, trong cuộc sống, chúng ta cãi nhau quá nhiều. Bao năm nay sống với ông chẳng dễ dàng gì. Kiếp sau tôi sẽ không sống với người như ông nữa. Ăn xong ông chẳng bao giờ chủ động giúp tôi dọn dẹp, chỉ ngồi đó chẳng làm gì cả. Suốt đời ông chẳng bao giờ sửa được cái tật này. Thay áo quần thì không bao giờ tự giặt, lúc nào tôi cũng phải giặt hộ rồi cất vào cho ông. Tôi mà chết thì ai giúp ông đây hả?” Người chồng già nói, “Ôi dào, tôi mà không sống nổi nếu thiếu bà à? Còn một đống phụ nữ trẻ tán tỉnh tôi đuổi đi không hết kia kìa.” Người vợ già đáp, “Ông cứ chém gió đi! Nhìn mà xem dáng vẻ nhếch nhác của ông kìa. Trừ tôi ra ai thèm theo ông chứ?” Người chồng già đáp, “Bà muốn giận thì cứ giận, nhưng nhiều người ngoài kia mê tôi lắm đấy. Chỉ có bà là khinh thường tôi, không biết coi trọng tôi gì cả.” Cuộc sống hôn nhân của họ như thế nào đây? Người vợ già nói, “Ôi, dù cả đời này sống với ông, chẳng có chuyện gì vui vẻ, cũng chẳng có kỷ niệm tốt đẹp nào, nhưng giờ già rồi tôi mới nghĩ: Nếu không có ông, tôi sẽ cảm thấy thiếu vắng thứ gì đó. Nếu ông ra đi trước tôi, thì lòng tôi sẽ thấy hụt hẫng lắm đấy, vì không còn ai để mà càu nhàu nữa. Tôi không muốn sống cô đơn một mình. Tôi phải đi trước ông để ông phải sống một mình, không có ai giặt áo quần hay nấu ăn cho, không ai chăm sóc cuộc sống thường nhật của ông, để ông nhớ đến cái tốt của tôi. Chẳng phải ông nói có nhiều cô gái trẻ theo đuổi ông sao? Khi tôi chết ông có thể kiếm một cô ngay ấy mà.” Người chồng già nói, “Yên tâm, tôi đảm bảo bà sẽ ra đi trước tôi. Khi bà ra đi, tôi chắc chắn sẽ tìm một người tốt hơn bà làm vợ.” Nhưng trong lòng ông ta thực sự nghĩ gì? “Bà đi trước đi, và khi bà đi rồi, tôi sẽ chịu cảnh cô đơn. Tôi thà chịu khổ sở và đau khổ thế này hơn là để bà phải chịu.” Tuy người vợ già luôn cằn nhằn về người chồng, rằng ông ta làm sai cái này sai cái kia, có tật xấu này tật xấu nọ, và dù chồng bà ta không sửa đổi những tật xấu của mình, nhưng họ cứ mãi sống theo cách như vậy, và bà ta dần quen với nó. Cuối cùng, người phụ nữ đành cam chịu, người đàn ông cũng chịu đựng, và cứ thế họ sống cùng nhau suốt đời. Đây chính là cuộc sống hôn nhân.

Dù trong hôn nhân, có rất nhiều thứ không được như ý, có nhiều tranh cãi, hoặc là từng gặp phải bệnh tật, nghèo khó, khó khăn về tài chính trong cuộc sống, và thậm chí gặp những sự kiện vui buồn tột độ, cũng như nhiều sự kiện khác, nhưng họ đã vượt qua tất cả những trở ngại cùng nhau, người kia là bạn đời mà họ không thể rời xa, là người họ không bao giờ có thể buông bỏ trước khi nhắm mắt lìa đời. Bạn đời ở đây là gì? Là người phối ngẫu của mình. Người đàn ông thực hiện một đời trách nhiệm với người phụ nữ, và tương tự người phụ nữ thực hiện một đời trách nhiệm với người đàn ông; người phụ nữ bầu bạn cùng với người đàn ông suốt đời, người đàn ông bầu bạn cùng người phụ nữ suốt đời. Chẳng ai có thể nói rõ ràng ai bầu bạn với ai nhiều hơn; cũng không ai có thể nói rõ rằng ai đóng góp nhiều hơn, ai mắc lỗi nhiều hơn, ai có nhiều khuyết điểm hơn; không ai có thể nói rõ rằng ai mới là trụ cột hay người kiếm tiền chính trong cuộc đời bên nhau; không ai có thể nói rõ rằng ai là chủ, ai là phó trong gia đình; không ai có thể nói rõ rằng rốt cuộc là người nào không thể rời xa người còn lại, là người đàn ông không thể rời xa người phụ nữ, hay là người phụ nữ không thể rời xa người đàn ông; khi có chuyện tranh cãi, không ai có thể nói rõ ai đúng ai sai: Đây chính là cuộc sống, và cũng là cuộc sống bình thường của một người đàn ông và một người phụ nữ trong khuôn khổ hôn nhân, là hiện trạng sinh hoạt bình thường và phổ biến nhất cho con người. Cuộc sống là như vậy, không thể tách rời khỏi các dạng khuyết điểm và thành kiến của nhân tính, càng không thể tách rời đủ mọi kiểu nhu cầu của nhân tính, đương nhiên cũng như những chọn lựa đúng đắn hoặc không đúng đắn, có lý tính hay không có lý tính được đưa ra dưới sự chi phối của lương tâm và lý trí của nhân tính. Đây chính là cuộc sống, đây là cuộc sống bình thường nhất. Không có chuyện đúng sai ở đây, chỉ có hiện trạng cuộc sống và tình huống cuộc sống đúng đắn tương đối và theo thông lệ. Vậy bây giờ, hiện trạng cuộc sống và tình huống cuộc sống trong khuôn khổ hôn nhân nói cho con người biết sự thật gì? Đó là con người nên buông bỏ tất cả những ảo tưởng phi thực tế khác nhau về hôn nhân, buông bỏ mọi suy nghĩ không liên quan tới định nghĩa chính xác của hôn nhân và sự tiền định, an bài của Đức Chúa Trời. Đây là những thứ mà con người nên buông bỏ, vì chúng chẳng liên quan gì đến cuộc sống của nhân tính bình thường, cũng không liên quan đến nghĩa vụ và trách nhiệm mà một người bình thường thực hiện trong cuộc sống. Vì vậy, con người nên buông bỏ những định nghĩa và những câu nói khác nhau về hôn nhân đến từ xã hội và từ nhân loại tà ác, đặc biệt là cái được gọi là tình yêu, nó tuyệt đối không liên quan gì tới cuộc sống hôn nhân thực tế. Hôn nhân không phải là sự cam kết suốt đời, cũng không phải là lời thề non hẹn biển cả đời, càng không phải là việc thực hiện lời thề đó suốt đời. Hôn nhân là cuộc sống thực tế của một người đàn ông và một người phụ nữ trong hôn nhân, là những gì họ cần và biểu hiện của họ trong đời thực. Có người nói, “Nếu Ngài thông công về chủ đề hôn nhân mà Ngài không nói về tình yêu, Ngài không nói về lời thề non hẹn biển, biển cạn đá mòn, hay lời thề mà các cặp vợ chồng có với nhau, thì Ngài nói về cái gì?” Ta nói về nhân tính, về trách nhiệm, về việc làm cho tốt những gì mà một người đàn ông và một người phụ nữ nên làm theo sự giao đãi và căn dặn của Đức Chúa Trời, về việc thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm mà một người đàn ông và một người phụ nữ nên thực hiện, về việc gánh vác nghĩa vụ và trách nhiệm mà một người đàn ông và một người phụ nữ nên gánh vác – theo cách này, nghĩa vụ của ngươi, trách nhiệm của ngươi, hay sứ mạng của ngươi sẽ được thực hiện. Tóm lại, với chủ đề buông bỏ những ảo tưởng khác nhau về hôn nhân mà chúng ta cần thông công, cách thực hành chính xác là gì? Đó là đừng suy nghĩ hay hành động của dựa trên những tư tưởng đến từ nhân loại tà ác và những trào lưu tà ác, mà phải căn cứ vào lời Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời phán thế nào về vấn đề hôn nhân, thì ngươi phải suy nghĩ và hành động dựa trên lời Ngài thế ấy. Nguyên tắc này rất chính xác, đúng không? (Thưa, đúng.) Vậy thì hiện tại chúng ta đã thông công kha khá về chủ đề buông bỏ những ảo tưởng khác nhau về hôn nhân rồi nhỉ? Giờ nó đã cơ bản rõ ràng với ngươi rồi chứ? (Thưa, rõ ràng rồi.)

Chúng ta vừa thông công về việc buông bỏ những ảo tưởng khác nhau về hôn nhân, và có người nói, “Nếu con không muốn độc thân mà dự định yêu ai đó và tìm đối tượng để kết hôn, thì con nên thực hành lời Đức Chúa Trời như thế nào để có thể buông bỏ những ảo tưởng khác nhau về hôn nhân? Con nên thực hành nguyên tắc này như thế nào?” Chẳng phải điều này liên quan đến những nguyên tắc chọn bạn đời, những nguyên tắc về việc chọn đối tượng để kết hôn sao? Những nguyên tắc chọn bạn đời mà thế giới tiêm nhiễm cho ngươi là gì? Một bạch mã hoàng tử, một công chúa bạch tuyết, một anh chàng đẹp trai giàu có, một cô nàng xinh đẹp nhiều tiền, nếu họ là phú nhị đại thì càng tốt. Lấy một người như thế, ngươi sẽ rút ngắn 20 năm phấn đấu của đời mình. Người đàn ông phải là người đủ khả năng mua được nhẫn kim cương, váy cưới và lo được một lễ cưới hoành tráng cho ngươi. Anh ta phải là người có tham vọng sự nghiệp, có thể phát tài, hoặc phải là một đối tượng đã có nền tảng kinh tế nhất định. Đây chẳng phải là những tư tưởng và quan điểm mà thế giới tiêm nhiễm vào đầu ngươi sao? (Thưa, phải.) Lại có người nói, “Đối tượng của con nhất định phải là người con yêu”. Người khác lại nói, “Không đúng. Người mình yêu chưa chắc sẽ yêu mình. Tình yêu phải từ hai phía; người mình yêu cũng phải yêu mình. Nếu anh ta yêu ngươi thì anh ta sẽ không bao giờ chủ động bỏ rơi hay buông bỏ ngươi. Nếu người ngươi yêu không yêu ngươi thì đến một ngày anh ta sẽ cứ thế bỏ rơi ngươi”. Những quan điểm này có chính xác không? (Thưa, không.) Vậy thì nói xem, các ngươi nên làm theo nguyên tắc nào khi chọn bạn đời thì mới là căn cứ trên lời Đức Chúa Trời và lấy lẽ thật là tiêu chí? Hãy nói về chủ đề này dựa theo những tư tưởng và quan điểm đúng đắn mà các ngươi đang có. (Thưa, nếu con muốn tìm một đối tượng, ít nhất anh ta phải là người tin Đức Chúa Trời, một người có thể mưu cầu lẽ thật, có chung những mưu cầu trong cuộc đời với con và cùng chung chí hướng với con.) Một người cùng chung chí hướng và tin Đức Chúa Trời – ngươi đã nói được một số tiêu chí cụ thể để chọn một người bạn đời. Còn ai muốn phát biểu không? (Thưa, chúng con còn muốn xem họ có phải là người có nhân tính hay không, có thể thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong một gia đình hôn nhân hay không. Còn một điều nữa: Không phải ai muốn tìm đối tượng để kết hôn đều sẽ tìm được. Mà phải tùy vào sự an bài của Đức Chúa Trời, và người ta phải quy phục và chờ đợi.) Có một cách thực hành cụ thể và cả căn cứ suy nghĩ lý luận cụ thể. Ngươi phải quy phục và chờ đợi, giao phó chuyện này cho Đức Chúa Trời và để Ngài an bài nó cho ngươi, đồng thời ngươi cũng phải tiếp cận chuyện này theo nguyên tắc. Còn ai muốn phát biểu không? (Thưa Đức Chúa Trời, quan điểm của con cũng giống như họ, đó là phải tìm được người cùng chung chí hướng, có nhân tính và có thể gánh vác trách nhiệm. Người ta nên buông bỏ những quan điểm sai lầm về hôn nhân mà Sa-tan tiêm nhiễm vào họ, để tâm vào bổn phận, quy phục sự chủ tể của Đức Chúa Trời và chờ đợi sự an bài của Đức Chúa Trời.) Nếu anh ta không thể mua nổi nhẫn kim cương cho ngươi, ngươi vẫn lấy anh ta chứ? (Nếu anh ta là một người có nhân tính, thì con sẽ chấp nhận anh ta kể cả khi anh ta không mua nổi nhẫn kim cương cho con.) Giả dụ anh ta có một ít tiền và có thể mua cho ngươi cái nhẫn kim cương 1 cara, nhưng thay vào đó anh ta chỉ mua nhẫn 0,3 Cara – thì ngươi có bằng lòng lấy anh ta không? (Con sẽ không đòi hỏi anh ta chuyện đó.) Không đòi hỏi chuyện đó thì tốt. Tiết kiệm tiền để dành chi tiêu sau này, đây chính là biết nghĩ xa. Trước khi tìm được đối tượng, ngươi đã có tư duy sống tốt – khá thực tế đấy! Còn ai nữa không? (Thưa Đức Chúa Trời, con nghĩ trước hết con phải buông bỏ những tiêu chí chọn bạn đời theo cung cách của thế giới đó. Tức là con không được lúc nào cũng ảo tưởng việc tìm một bạch mã hoàng tử, một người đẹp trai giàu có, hoặc một người lãng mạn. Khi buông bỏ được những điều này, con sẽ tiếp cận hôn nhân bằng quan điểm đúng đắn, rồi quy phục và chờ đợi thời điểm của Đức Chúa Trời. Dù một người như vậy có thể xuất hiện, nhưng họ phải là người cùng chung chí hướng với con. Con không được dựa vào những quan điểm thế gian để đòi hỏi người đó phải chu đáo với con. Điều quan trọng nhất là anh ta có thể mưu cầu lẽ thật và quan tâm ý muốn của Đức Chúa Trời.) Nếu anh ta mưu cầu lẽ thật, quan tâm ý muốn của Đức Chúa Trời, ra ngoài thực hiện bổn phận mà không bao giờ ở nhà, để ngươi phải gánh vác gánh nặng gia đình một mình, bình ga thì hết ga nên ngươi phải tự mình vác lên lầu – thì ngươi sẽ làm gì? (Thưa, con sẽ tự mình vác lên.) Còn nếu ngươi không vác nổi, ngươi có thể thuê người giúp. (Hoặc con có thể tìm một anh chị em nào đó giúp đỡ.) Phải, đây là những cách để xử lý tình huống này. Nếu anh ta vắng nhà khoảng một hay hai năm, thậm chí ba hoặc bốn năm, ngươi có tức giận không? “Chẳng phải như vậy là sống như góa phụ sao? Vậy thì lấy anh ta để làm gì? Chẳng phải giống hệt trước khi cưới, chỉ sống một mình sao? Mình phải tự xử lý mọi chuyện. Thật xui xẻo khi lấy phải anh ta!” Có thể nghĩ như vậy không? (Thưa không thể nghĩ vậy. Vì anh ta đang thực hiện bổn phận và làm việc chính nghĩa. Con không nên khó chịu về việc đó.) Suy nghĩ như thế thì quá tốt, nhưng liệu ngươi có thể vượt qua tất cả những điều này trong đời thực không? Nếu người đàn ông mà ngươi tìm được đặc biệt ngay thẳng, bình thường không hay cười nói, không lãng mạn, không bao giờ mua cho ngươi quần áo đẹp, không tặng hoa cho ngươi, và đặc biệt không bao giờ nói “Anh yêu em” hay bất cứ câu nào tương tự, nên trong lòng ngươi không biết anh ta có yêu ngươi hay không, nhưng anh ta lại là người rất tốt, rất chu đáo đối với ngươi và chăm sóc ngươi trong cuộc sống, người không nói những điều như thế, không có những hành động lãng mạn, thậm chí không dỗ dành hay xoa dịu ngươi khi ngươi khó chịu – liệu trong lòng ngươi có ôm oán trách đối với anh ta không? (Thưa, có lẽ khi chưa tin Đức Chúa Trời và không hiểu lẽ thật thì con sẽ có oán trách, nhưng sau khi nghe thông công của Đức Chúa Trời, con biết rằng anh ta nói những lời đó hay làm những việc lãng mạn đó hay không cũng chẳng quan trọng. Đây chỉ là những quan điểm của con người trần tục, người có nhân tính bình thường không nên mưu cầu những điều này. Con người nên buông bỏ những điều này, như thế sẽ không còn oán trách nữa.) Không nên có lời oán trách, đúng không? (Thưa, đúng.) Hiện tại ngươi không ở trong tình huống đó, và ngươi chưa biết tâm trạng của mình ở trong hoàn cảnh đó, chưa biết cảm xúc của ngươi sẽ dao động hay thay đổi thế nào. Tuy nhiên hiện tại, theo lý thuyết thì con người đều biết rằng vì tin Đức Chúa Trời, họ không nên đòi hỏi đối phương vô lý, cũng không nên oán trách đối phương khi những chuyện đó xảy ra vì đây không phải là những chuyện họ muốn. Bây giờ ngươi có những suy nghĩ này, nhưng ngươi có đạt được chúng không? Chúng có dễ đạt được không? (Thưa, phải từ bỏ những sở thích và quan điểm thế gian của mình; như vậy sẽ tương đối dễ để buông bỏ những điều này.) Ta sẽ nói cho ngươi cách để xử lý chuyện này. Đàn ông và phụ nữ trong cuộc sống hôn nhân đều gặp những vấn đề này, đều có những suy nghĩ và cảm xúc này, đều có những nhu cầu này. Tuy nhiên điểm cơ bản nhất mà ngươi phải biết là nếu đối tượng ngươi chọn là ý trung nhân của ngươi – tạm gác chuyện Đức Chúa Trời an bài việc này sang một bên – thì chính là ngươi đã tự mình chọn họ và hài lòng với mọi thứ về họ, đặc biệt, họ còn cùng chung chí hướng với ngươi, có thể thực hiện bổn phận trong nhà Đức Chúa Trời, và mọi việc họ làm đều chính nghĩa, thì ngươi nên đối xử một cách có lý tính và cho phép họ làm như thế, cho phép họ lờ đi cảm giác của ngươi, thậm chí cho phép họ lờ đi sự tồn tại của ngươi – theo lý thuyết, đây là điều ngươi nên làm được. Hơn nữa, nếu một nhu cầu hay cảm xúc như thế nảy sinh trong ngươi do một hoàn đặc biệt hoặc một sự kiện đặc biệt khơi gợi lên, thì ngươi phải đến trước Đức Chúa Trời để cầu nguyện. Liệu ngươi có thể hoàn toàn buông bỏ những điều này sau khi cầu nguyện không? Không đời nào. Suy cho cùng thì con người sống trong nhân tính bình thường của họ, họ có suy nghĩ, suy nghĩ của họ sẽ gây ra đủ kiểu cảm xúc nảy sinh trong họ. Tạm thời chúng ta không bàn xem những cảm xúc này đúng hay sai. Bây giờ, vấn đề thực tế nhất là ngươi thấy những cảm xúc này rất khó buông bỏ. Kể cả nếu lần này ngươi buông bỏ chúng được, nhưng chúng sẽ lại xuất hiện trong một hoàn cảnh khách quan nào đó. Vậy ngươi nên làm gì? Ngươi không nên bận tâm đến chúng, vì về lý thuyết, về mặt hình thức và lý tính, ngươi đã từ bỏ mưu cầu và nhu cầu này. Bất quá chỉ là vì nhân tính mà con người ở các độ tuổi khác nhau sẽ có những nhu cầu và cảm xúc này theo những mức độ lớn nhỏ, nhiều ít khác nhau. Ngươi hiểu rõ về những tình huống thực tế này và đã cầu nguyện Đức Chúa Trời, lần này ngươi đã buông bỏ được hoặc cảm xúc mà ngươi đang trải qua không quá tồi tệ, và ngươi không để ý đến nó quá nhiều. Thế nhưng lần sau ngươi chắc chắn sẽ lại có cảm xúc này. Vậy cách thực hành cụ thể của ngươi là gì? Chính là ngươi không cần phải chú ý hay coi trọng nó quá mà nói rằng, “Ôi, phương diện tâm tính này của mình vẫn chưa thay đổi”. Đây không phải là một dạng tâm tính; nó chỉ là một cảm xúc nhất thời không liên quan đến tâm tính của ngươi. Ngươi cũng không cần chuyện bé xé ra to mà nói rằng, “Ôi, sao mình vẫn thế này? Không phải mình mưu cầu lẽ thật à? Sao mình vẫn có biểu hiện như vậy? Thật tồi tệ!” Không cần phải chuyện bé xé ra to; đây chỉ là sự biểu đạt của cảm xúc hỉ nộ ai lạc trong nhân tính bình thường. Không cần để ý đến nó. Đây là thái độ để xử lý cảm xúc. Hơn nữa, chỉ cần nó không ảnh hưởng đến trật tự và quy luật sinh hoạt bình thường, đời sống thuộc linh, hay việc thực hiện bổn phận của ngươi thì không sao cả. Ví dụ, vì chồng (hoặc vợ) ngươi bận thực hiện bổn phận, lâu rồi các ngươi không gặp nhau, và ngươi không có thời gian nói chuyện với nhau. Một hôm ngươi bỗng thấy vợ chồng một người chị em chuyện trò cùng nhau, thì một cảm xúc nảy sinh trong lòng ngươi, và ngươi nghĩ, “Thấy chưa, vợ chồng chị ấy có thể cùng nhau thực hiện bổn phận. Họ thật hạnh phúc và vui sướng. Tại sao chồng mình lại vô tâm như vậy? Sao anh ấy không hỏi mình, ‘Dạo này em thế nào rồi? Em có khỏe không?’ Sao anh ấy không quan tâm đến mình? Sao anh ấy không trân trọng và yêu thương mình?” Ngươi có cảm xúc này và sau một thời gian ngươi nghĩ, “Ôi dào, hờn dỗi cũng chẳng hay ho gì”. Ngươi biết cảm thấy như thế là không tốt nhưng ngươi vẫn cảm thấy hơi tức giận và còn so đo với bản thân rằng, “Mình sẽ mặc kệ anh ấy, mình sẽ chờ anh ấy chủ động quan tâm mình trước. Nếu anh ấy không chủ động quan tâm, mình sẽ giận anh ấy. Lấy nhau bao năm qua, bao nhiêu ngày không gặp được nhau như thế mà anh ấy vẫn không nói nhớ mình. Rốt cuộc anh ấy có nhớ mình không vậy? Anh ấy không quan tâm đến mình, mình cũng làm ngơ anh ấy luôn!” Ngươi so đo với bản thân và sống trong cảm xúc đó. Trong chốc lát, một cơn tức giận và một cảm xúc nảy sinh. Chỉ cần ngươi có thể ăn ngủ bình thường, đọc lời Đức Chúa Trời, tham dự nhóm họp, thực hiện bổn phận bình thường, và hòa thuận với các anh chị em, thì ngươi không cần phải lo về những cảm xúc như thế, ngươi muốn nghĩ gì thì cứ việc nghĩ. Bất kể ngươi nghĩ gì, chỉ cần lý trí của ngươi bình thường và ngươi thực hiện bổn phận của ngươi một cách bình thường là được. Ngươi không cần phải vất vả áp chế nó, càng không cần phải cầu nguyện Đức Chúa Trời quá nhiều và cầu xin Ngài sửa dạy hay sửa phạt ngươi hoặc cảm thấy mình như người có tội. Không cần phải chuyện bé xé ra to, vì cảm xúc này sẽ sớm biến mất thôi. Nếu ngươi nhớ chồng đến thế, thì ngươi có thể gọi điện và hỏi xem anh ta thế nào, hai người các ngươi có thể mở lòng với nhau và trò chuyện, chẳng phải những cảm xúc nhất thời đó và những rào cản sẽ biến mất sao? Thực ra ngươi không cần anh ta phải làm gì cả. Đôi lúc ngươi sẽ có tâm trạng nhất thời và muốn nghe giọng anh ta, hoặc ngươi có thể cảm thấy cô đơn nhất thời, hụt hẫng một lúc, trong lòng không vui, và ngươi gọi cho anh ta để nghe anh ta nói chuyện. Sau đó ngươi thấy anh ta ổn, vẫn yêu ngươi thiết tha như trước kia và lúc nào cũng nghĩ đến ngươi. Chỉ là anh ta đang bận công tác, hoặc bởi vì đàn ông phần nào không chú ý đến những tiểu tiết và bận rộn với bổn phận, không nghĩ rằng lại lâu như thế, cho nên mới không liên lạc với ngươi. Anh ta đang bận rộn, đang thực hiện bổn phận một cách bình thường chẳng phải là điều tốt sao? Đây chẳng phải những gì ngươi mong còn chẳng được sao? Nếu anh ta làm việc ác, gây nhiễu loạn và gián đoạn rồi bị thanh trừ, thì chẳng phải ngươi còn cần lo cho anh ta ư? Hiện tại mọi thứ đang bình thường với anh ta, và tất cả đều như trước kia, thế mà lòng ngươi chưa yên à? Ngươi còn muốn gì nữa? Chẳng phải như thế là được rồi sao? (Thưa, phải.) Gọi điện như vậy và nói một vài lời với nhau để giải tỏa cảm giác cô đơn trong lòng và cảm giác mong mỏi, như những người ngoại đạo nói, thì chẳng phải đã giải quyết được vấn đề rồi sao? Còn khó khăn gì nữa? Gọi cho chồng và thể hiện sự quan tâm lẫn nhau – nói xem, Đức Chúa Trời có lên án một việc như thế không? (Thưa, không.) Các ngươi là vợ chồng hợp pháp, thì gọi điện, tâm sự, và giãi bày những mong mỏi với nhau là chuyện chính đáng và thường tình, và đó là việc mà ngươi nên làm trong phạm vi nhân tính. Còn nữa, việc này cũng nằm trong hôn nhân mà Đức Chúa Trời tiền định cho nhân loại – chính là bầu bạn với nhau, an ủi nhau, và hỗ trợ nhau. Nếu anh ta không thực hiện những trách nhiệm này, thì ngươi giúp anh ta thực hiện chúng chẳng phải là được à? Đây là chuyện rất đơn giản, rất dễ giải quyết. Thực hành theo cách này thì chẳng phải vấn đề đã được giải quyết sao? Có cần thiết phải để mọi cảm xúc đó xuất hiện trong lòng ngươi không? Không cần. Đơn giản như thế là thực hành được rồi.

Quay trở lại câu hỏi mà ta vừa mới đặt ra: “Con người nên buông bỏ những ảo tưởng khác nhau về hôn nhân như thế nào?” Các ngươi đã nêu một số ý kiến của mình để trả lời cho câu hỏi này. Nếu con người muốn buông bỏ những ảo tưởng khác nhau về hôn nhân, thì trước hết họ phải có đức tin, phải quy phục sự an bài và tiền định của Đức Chúa Trời. Con người không nên có bất kỳ ảo tưởng chủ quan hay phi thực tế về hôn nhân, về việc nửa kia của ngươi là ai hay là loại người thế nào; mà con người nên có thái độ vâng phục Đức Chúa Trời, nên quy phục sự an bài và tiền định của Đức Chúa Trời, và tin tưởng rằng Đức Chúa Trời sẽ chuẩn bị một người phù hợp nhất cho ngươi. Có cần thiết phải có thái độ vâng phục không? (Thưa có.) Thứ hai, ngươi phải buông bỏ những tiêu chuẩn chọn đối tượng mà ngươi bị những trào lưu tà ác của xã hội tiêm nhiễm vào đầu rồi sau đó thiết lập tiêu chuẩn đúng đắn cho việc chọn đối tượng, đó là, ít nhất đối tượng của ngươi phải là người tin Đức Chúa Trời như ngươi và đi cùng con đường với ngươi – phương hướng tổng thể là vậy. Hơn thế nữa, đối tượng của ngươi phải có thể thực hiện trách nhiệm của một người đàn ông hoặc phụ nữ trong hôn nhân; họ phải thực hiện được trách nhiệm của một người phối ngẫu. Làm sao ngươi đánh giá được phương diện này? Ngươi phải nhìn vào phẩm chất nhân tính của họ, xem họ có ý thức trách nhiệm không, có lương tâm không. Và làm sao để nhìn ra một người có lương tâm hay nhân tính hay không? Nếu ngươi không giao thiệp với họ thì không có cách nào biết được nhân tính của họ thế nào, mà kể cả khi ngươi giao thiệp với họ, nếu chỉ trong thời gian ngắn thì có thể ngươi vẫn chưa phát hiện ra họ là người thế nào. Vậy thì làm cách nào ngươi nhìn ra một người có nhân tính hay không? Hãy xem họ có trách nhiệm với bổn phận, với sự giao phó của Đức Chúa Trời và công tác của nhà Đức Chúa Trời hay không, xem họ có thể bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời không, có trung thành với bổn phận không – đây là cách tốt nhất để nhìn ra phẩm chất nhân tính của một người. Giả dụ nhân phẩm của người này rất chính trực và đối với công tác mà nhà Đức Chúa Trời giao phó, họ đặc biệt tận tâm, có tinh thần trách nhiệm, đặc biệt nghiêm túc và nghiêm chỉnh, kỹ lưỡng, không hề cẩu thả, không hề qua loa, không hề chểnh mảng, họ mưu cầu lẽ thật, và lắng nghe những gì Đức Chúa Trời phán một cách cẩn thận và kỹ càng. Khi đã hiểu, đã rõ, họ sẽ thực hành ngay lập tức; dù người như thế có thể có tố chất không cao, ít ra họ cũng không phải là người cẩu thả với bổn phận, không qua loa chiếu lệ với công tác của hội thánh, mà là người nghiêm túc và có trách nhiệm. Nếu họ là người nghiêm túc và có trách nhiệm với bổn phận, thì chắc chắn họ sẽ một lòng một dạ sống cả đời với ngươi và sẽ có trách nhiệm với ngươi cho đến cùng – nhân phẩm của một người như vậy có thể chịu được thử thách. Kể cả ngươi có ốm đau, già nua, xấu xí hay có những tật xấu và khuyết điểm, người này sẽ luôn đối đãi đúng đắn với ngươi và bao dung với ngươi, họ sẽ luôn làm hết sức có thể để che chở ngươi và gia đình, bảo vệ ngươi và cho ngươi một cuộc sống ổn định, để ngươi an tâm mà sống. Đây chính là điều hạnh phúc nhất đối với một người đàn ông và phụ nữ trong cuộc sống hôn nhân. Họ không hẳn có thể cho ngươi cuộc sống giàu sang, xa xỉ hay lãng mạn, họ chưa hẳn có thể cho ngươi bất kỳ thứ gì khác về mặt tình cảm hay về bất kỳ mặt nào, nhưng ít nhất họ sẽ cho ngươi cảm giác an tâm và ở bên họ, cuộc sống của ngươi sẽ yên ổn, và sẽ không có nguy hiểm hay cảm giác bất an. Khi nhìn vào người đó, ngươi sẽ có thể thấy cuộc sống của họ thế nào trong 20 hay 30 năm sau và thậm chí đến khi già. Kiểu người này nên là tiêu chuẩn chọn đối tượng của ngươi. Đương nhiên tiêu chuẩn chọn đối tượng này có hơi cao một chút và người như thế này không dễ tìm giữa nhân loại hiện đại, đúng không? Để đánh giá nhân phẩm của một người như thế nào và xem họ có thể thực hiện trách nhiệm trong hôn nhân hay không, ngươi phải nhìn vào thái độ của họ đối với bổn phận – đây là một phương diện. Phương diện khác là ngươi phải nhìn xem họ có lòng kính sợ Đức Chúa Trời không. Nếu có lòng kính sợ Đức Chúa Trời thì ít ra họ sẽ không làm những chuyện vô nhân tính, trái đạo đức hay trái luân thường đạo lý, và chắc chắn họ sẽ đối xử tốt với ngươi. Nếu họ không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời mà lại chuyện gì cũng dám làm, cứng đầu cứng cổ, hoặc nhân tính của họ hung ác, giả dối và kiêu ngạo; nếu trong lòng họ không có Đức Chúa Trời và không xem ai ra gì; nếu đối với công tác, bổn phận, thậm chí là sự giao phó của Đức Chúa Trời và bất kỳ chuyện lớn nào của nhà Đức Chúa Trời mà họ đều xử lý theo ý riêng mình, không có chút kiêng nể nào, muốn gì làm nấy, không bao giờ cẩn thận, không tìm kiếm nguyên tắc, và đặc biệt họ chiếm dụng và lạm dụng của lễ một cách trắng trợn, không hề biết sợ, người như thế, ngươi tuyệt đối đừng tìm. Không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, việc gì họ cũng có thể làm. Hiện tại người như thế có thể nói lời đường mật, thề non hẹn biển với ngươi, nhưng đến một ngày mà anh ta không vui, khi ngươi không thỏa mãn được nhu cầu của anh ta và không còn là người anh ta yêu thương, thì anh ta sẽ nói anh ta không còn yêu ngươi, không còn cảm giác với ngươi nữa, và anh ta cứ thế rời xa ngươi bất kỳ khi nào anh ta muốn. Kể cả khi ngươi chưa ly hôn, anh ta vẫn đi tìm người khác – tất cả những điều này đều có khả năng xảy ra. Anh ta có thể bỏ rơi ngươi mọi nơi mọi lúc, việc gì anh ta cũng có thể làm. Người như thế rất nguy hiểm và không xứng đáng để ngươi giao phó cả đời. Nếu ngươi tìm một người như thế làm người yêu, làm đối tượng chọn phối ngẫu, thì ngươi sẽ gặp phiền phức đấy. Dù anh ta cao to, giàu có và đẹp trai, tài năng xuất chúng, lại còn chăm sóc ngươi rất tốt và chu đáo với ngươi, nhìn bên ngoài mà nói thì anh ta đặc biệt phù hợp để làm bạn trai hoặc chồng ngươi, nhưng anh ta lại không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, như vậy người này không thể là đối tượng để ngươi chọn kết hôn. Nếu ngươi yêu anh ta say đắm và bắt đầu hẹn hò rồi kết hôn, thì anh ta sẽ là ác mộng và thảm họa suốt cuộc đời của ngươi. Ngươi lại nói, “Con không sợ, con mưu cầu lẽ thật”. Ngươi đã rơi vào tay của một ác ma, và hắn căm ghét Đức Chúa Trời, chống đối Đức Chúa Trời, và dùng đủ mọi cách thức để quấy nhiễu đức tin của ngươi vào Đức Chúa Trời – ngươi có thể thắng được không? Chút vóc giạc và đức tin của ngươi không thể chịu được sự hành hạ của anh ta, và mấy ngày sau ngươi đã bị giày vò đến nỗi phải xin tha và không thể tiếp tục tin Đức Chúa Trời. Ngươi đánh mất sự tín thác vào Đức Chúa Trời và đầu óc ngươi chỉ còn toàn những chuyện ân oán yêu ghét. Giống như bị ném vào một cái máy xay thịt và bị xé thành từng mảnh, không còn hình tượng giống con người, hoàn toàn bị lún sâu vào đó, cho đến khi ngươi cùng chung số phận bị diệt vong với ác ma mà ngươi kết hôn, và cuộc sống của ngươi coi như chấm dứt.

Chúng ta vừa thông công về hai tiêu chuẩn liên quan đến cách để đánh giá xem một người có thể thực hiện trách nhiệm của họ trong hôn nhân không. Ngươi có nhớ chúng là gì không? (Thưa có.) Hai tiêu chuẩn này đều liên quan đến phẩm chất nhân tính của con người. Một tiêu chuẩn là nhìn xem họ có thực hiện bổn phận một cách nghiêm túc và có trách nhiệm không, có thể bảo vệ công tác hội thánh và lợi ích của nhà Đức Chúa Trời không. Có một số người, nếu chỉ nhìn vào biểu hiện bên ngoài, ngươi có thể không nhìn thấu được họ; họ có thể thực hiện bổn phận và bảo vệ công tác của hội thánh để mưu cầu địa vị hay khi họ đã có địa vị, nhưng họ sẽ như thế nào khi không còn địa vị, đây là chuyện ngươi chưa thấy rõ được và không thể nào phán định về họ một cách chính xác được. Tuy nhiên, khi ngươi thấy họ khi mất đi địa vị thì làm ầm ĩ, chửi rủa Đức Chúa Trời và báng bổ Đức Chúa Trời, nói Đức Chúa Trời không công chính, đó là lúc ngươi sẽ có sự phân định về họ, và nghĩ rằng, “Người này không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời chút nào. May là anh ta lộ rõ bản chất thật đúng lúc. Nếu không thì mình sẽ chọn anh ta làm đối tượng kết hôn mất”. Ngươi thấy đấy, tiêu chuẩn còn lại để chọn đối tượng phối ngẫu – xem họ có lòng kính sợ Đức Chúa Trời không – cũng rất quan trọng. Nếu ngươi nhìn nhận và đánh giá con người bằng tiêu chuẩn này thì nó sẽ cứu ngươi khỏi cơn ác mộng hôn nhân. Hai tiêu chuẩn chọn đối tượng này có quan trọng không? (Thưa, quan trọng.) Ngươi đã hiểu chúng chưa? (Thưa, đã hiểu rồi.) Ngươi xem, một số phụ nữ rất mê tiền. Khi bắt đầu hẹn hò yêu đương, họ thể hiện rất dịu dàng, rất hiểu chuyện, và người đàn ông nghĩ, “Người phụ nữ này thật đáng yêu! Cô ấy như một chú chim non, nép vào mình suốt ngày và dính lấy mình như keo. Cô ấy đúng là kiểu phụ nữ mà một người đàn ông mơ ước và theo đuổi. Đàn ông cần một người phụ nữ như thế này, ăn nói dịu dàng, nương tựa vào người đàn ông của mình, thực sự khiến cho người đàn ông cảm thấy bản thân có giá trị. Có người phụ nữ thế này gắn bó và ở cạnh mình thì cuộc sống sẽ hạnh phúc lắm”. Thế nên họ kết hôn, nhưng rồi anh ta thấy cô ta tin Đức Chúa Trời mà không nỗ lực mưu cầu lẽ thật. Cứ hễ anh ta nhắc đến việc thực hiện bổn phận là cô ta luôn nói không có thời gian, luôn viện lý do, luôn bảo mình mệt, và không bằng lòng chịu khổ. Ở nhà thì cô ta không nấu nướng hay dọn dẹp mà suốt ngày chỉ ngồi xem TV; khi thấy người ta mua túi hàng hiệu, hay gia đình người ta sống trong biệt thự và mua xe sang, thì cô ta bình phẩm người đàn ông của nhà đó hẳn là giỏi giang lắm; cô ta thường chi tiêu một cách phung phí, cứ hễ tới tiệm vàng, tiệm trang sức hay cửa hàng xa xỉ là lúc nào cô ta cũng muốn tiêu tiền và mua đồ đẹp. Ngươi không hiểu nổi nên cứ nghĩ, “Cô ấy từng rất đáng yêu. Sao giờ lại trở thành loại phụ nữ này?” Ngươi thấy chưa? Cô ta đã thay đổi, đúng không? Trước đây khi các ngươi hẹn hò, cô ta cũng có thể thực hiện bổn phận và chịu khổ một chút xíu, nhưng đó chỉ là ngoài mặt. Giờ các ngươi kết hôn rồi, cô ta không còn như thế nữa. Cô ta thấy ngươi không thể thỏa mãn nhu cầu vật chất của mình và bắt đầu trách móc ngươi, nói rằng, “Tại sao anh không ra ngoài kiếm tiền đi hả? Tin Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận thì được gì? Tin Đức Chúa Trời thì có thể mài ra ăn chắc không? Tin Đức Chúa Trời có giúp anh phát tài được không?” Thậm chí cô ta nói ra cả những lời người ngoại đạo hay nói – người phụ nữ này có thực sự tin Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Cô ta không bao giờ muốn thực hiện bổn phận, trong lòng chẳng nghĩ gì đến việc tin Đức Chúa Trời, mưu cầu lẽ thật hay tìm kiếm để đạt được sự cứu rỗi, đến cuối cùng cô ta còn nói những lời đại nghịch bất đạo và không hề có lòng kính sợ Đức Chúa Trời chút nào. Vậy thì người phụ nữ này luôn nghĩ về điều gì? (Thưa, là ăn ngon, mặc đẹp và hưởng thụ.) Cô ta chỉ nghĩ đến tiền và những hưởng thụ của xác thịt, thế thôi. Cô ta là một kẻ mê tiền, một kẻ thuộc về thế giới. Nếu ngươi lấy cô ta và cô ta cản trở đức tin của ngươi vào Đức Chúa Trời, đồng thời khuyến khích ngươi từ bỏ bổn phận và mưu cầu những thứ trần tục, thì ngươi sẽ làm gì? Ngươi vẫn muốn mưu cầu lẽ thật và đạt được sự cứu rỗi, nhưng nếu ngươi làm theo cô ta thì sẽ không thể đạt được sự cứu rỗi. Nếu ngươi không làm theo cô ta, cô ta sẽ cãi cọ với ngươi và ly hôn. Khi ly hôn rồi, ngươi sẽ sống một mình mà không có bạn đời – ngươi vượt qua nổi chuyện này được không? Nếu ngươi chưa từng có bạn đời thì sẽ ổn thôi, nhưng giờ ngươi đã ở với bạn đời của mình nhiều năm trời và đã quen sống với cô ta. Bỗng nhiên ngươi ly hôn và không có bạn đời nữa – ngươi có vượt qua được chuyện này không? Không dễ để vượt qua, đúng không? Bất kể là về mặt nhu cầu cuộc sống, nhu cầu tình cảm hay thế giới tinh thần bên trong ngươi, ngươi cũng không thể vượt qua được. Cách sống của ngươi đã thay đổi khác với trước đây, quy luật, tiết tấu và cách sống trước đây của ngươi đã hoàn toàn bị rơi vào hỗn loạn. Cuộc hôn nhân này như thế nào? Hôn nhân này mang lại cho ngươi cái gì? Hạnh phúc hay thảm họa? (Thưa, thảm họa.) Nó mang đến thảm họa. Vì vậy, nếu ngươi không biết cách để nhìn người, nếu ngươi đánh giá con người mà không có nguyên tắc chính xác, không lấy lời Đức Chúa Trời làm căn cứ, thì ngươi phải cố hết sức để không bị dính vào việc yêu đương tùy tiện, cũng đừng ấp ủ những ý tưởng hoặc có dự định yêu đương, kết hôn hay bước vào hôn nhân. Đó là bởi vì hiện tại, sự dụ dỗ của những trào lưu tà ác của thế giới này đối với con người là quá lớn, mỗi người phải đối mặt với nhiều cám dỗ và đối mặt với đủ kiểu cám dỗ trong cuộc sống; không ai có thể vượt qua được chúng, và kể cả có mưu cầu lẽ thật, ngươi sẽ vẫn thấy rất khó để vượt qua. Nếu ngươi mưu cầu lẽ thật và đạt đến hiểu lẽ thật và đạt được lẽ thật, thì ngươi sẽ có thể vượt qua chúng. Tuy nhiên, trước khi ngươi hiểu và đạt được lẽ thật, sự cám dỗ đối với ngươi sẽ luôn là sự cám dỗ, sẽ luôn là nguy hiểm. Hơn nữa, có một vấn đề chí mạng đối với các ngươi, đó là các ngươi không biết cách để nhìn người và không thể nhìn thấu được thực chất của con người – đây là vấn đề chí mạng nhất. Các ngươi chỉ biết cách nhìn ra điều gì? Đàn ông chỉ biết đánh giá người phụ nữ đẹp hay không, có học đại học không, gia đình có giàu không, ăn mặc có đẹp không, có biết thế nào là lãng mạn không, và có tình tứ không. Chi tiết hơn, đàn ông có thể biết được người phụ nữ đó sẽ là vợ hiền mẹ tốt hay không, sau này có thể dạy dỗ con cái tốt hay không, có thể quản lý việc gia đình hay không. Đàn ông tối đa là biết nhìn nhận những điều này. Còn phụ nữ có thể nhìn ra điều gì về đàn ông? Họ có thể nhìn ra người đàn ông có biết cách lãng mạn không, có năng lực không, có thể kiếm nhiều tiền về cho gia đình không, số mệnh giàu hay nghèo, có thủ đoạn mưu sinh trong thế giới này không. Ở một mức độ cao hơn, phụ nữ có thể nhìn ra người đàn ông có chịu khổ được không, có thể làm chủ được gia đình không, nếu ở với anh ta thì cô ta có được ăn ngon mặc đẹp không, bối cảnh gia đình anh ta thế nào, có sung túc không, có nhà, có xe và công ty không, họ đang kinh doanh hay chỉ là nông dân hoặc công nhân, hoàn cảnh kinh tế hiện tại của gia đình anh ta thế nào, và bố mẹ anh ta có để dành tiền cho anh ta lấy vợ không. Phụ nữ tối đa là biết nhìn nhận những điều này. Còn về chuyện thực chất nhân tính của người ta ra sao, họ sẽ lựa chọn thế nào về con đường tin Đức Chúa Trời, các ngươi có thể nhìn thấu những điều này không? (Thưa không.) Nói cụ thể hơn, người này có khả năng đi theo con đường của kẻ địch lại Đấng Christ không? Họ có phải kẻ ác không? Đánh giá dựa trên tổng hợp về những bộc lộ và biểu hiện phẩm chất nhân tính của họ, thì họ là người mưu cầu lẽ thật hay là người chán ghét lẽ thật? Họ có thể đi con đường mưu cầu lẽ thật không? Có thể đạt được sự cứu rỗi không? Nếu ngươi lấy họ, hai vợ chồng ngươi liệu có thể cùng sánh bước vào vương quốc không? Ngươi nhìn không thấu được những chuyện này, phải không nào? Có những người nói, “Tại sao chúng con cần phải nhìn thấu những điều này? Có vô vàn người kết hôn trên thế giới này. Họ cũng không nhìn thấu những điều này, nhưng họ vẫn tiếp tục sống với nhau, không phải sao?” Nhiều người không nhìn thấu được hôn nhân. Nếu ngươi gặp một người tốt sống tử tế và là người mà ngươi có thể ở bên suốt đời, không phải chịu những buồn đau hay thăng trầm lớn, không phải chịu nhiều đau khổ, thì đây có thể được coi là một cuộc sống tốt đẹp và một cuộc hôn nhân tốt đẹp. Tuy nhiên có những người không nhìn thấu người khác mà chỉ chú trọng vào tướng mạo và địa vị của người kia. Họ bị dỗ ngon dỗ ngọt, và sau khi kết hôn rồi họ mới phát hiện đối phương là kẻ ác, là ma quỷ, và mỗi ngày sống với loại người đó dài như cả năm trời. Phụ nữ thì thường xuyên lấy nước mắt rửa mặt, còn đàn ông cũng cảm thấy bị lừa dối và bị hại không ít, kết cục là ly hôn sau vài năm. Một số cặp vợ chồng ly hôn khi con cái mới ba hoặc bốn tuổi, hoặc đang tuổi vị thành niên, một số thậm chí có cháu rồi nhưng thấy không thể sống cùng nhau được nữa nên họ ly hôn. Cuối cùng những người này nói gì? “Hôn nhân là nấm mồ”, và “Hôn nhân là lò hỏa thiêu”. Vậy kết quả này là lỗi của người đàn ông hay phụ nữ? Cả hai đều có lỗi, và chẳng ai tốt đẹp cả. Họ không biết bản chất của hôn nhân hay cuộc sống hôn nhân là gì. Bản chất của hôn nhân là có trách nhiệm với nhau, bước vào đời thực và hỗ trợ cho nhau, dựa vào nhân tính của cả vợ và chồng để cuối cùng họ có thể sống hạnh phúc và bình yên bên nhau trong tuổi già và đến hết đời. Còn bản chất của cuộc sống hôn nhân là gì? Cũng dựa vào nhân tính của cả hai vợ chồng để có thể sống an yên, ổn định và hạnh phúc. Cả hai vợ chồng đều phải có trách nhiệm với nhau, thì cuối cùng mới có thể tay trong tay đi qua tuổi già cho đến hết đời. Tuy nhiên đó không phải là bước vào vương quốc, không dễ để cho một cặp vợ chồng cùng nhau bước vào vương quốc. Kể cả khi họ không thể bước vào vương quốc, đối với một cặp vợ chồng, để cuối cùng tay trong tay sống đến già thì ít nhất họ cần phải có lương tâm và lý trí, có nhân tính đạt tiêu chuẩn. Có phải vậy không? (Thưa, phải.) Thông công theo cách này có khiến các ngươi có thêm hay bớt đi niềm tin vào hôn nhân không? Nó có giúp các ngươi có thái độ và quan điểm đúng đắn không? (Thưa, nó giúp chúng con có thái độ và quan điểm đúng đắn.) Thông công theo cách này không liên quan đến chuyện thêm hay bớt đi niềm tin đúng không? Ta nói về việc buông bỏ những ảo tưởng khác nhau về hôn nhân không phải để khiến ngươi buông bỏ hay cự tuyệt hôn nhân, mà ngược lại để ngươi có cách tiếp cận đúng đắn và có lý tính đối với chuyện này. Nói chính xác hơn là để ngươi có thể dựa vào lời Đức Chúa Trời mà xem xét, đối đãi và giải quyết chuyện này. Không phải để ngươi hoàn toàn ngừng suy nghĩ về hôn nhân – không suy nghĩ khác với buông bỏ. Buông bỏ đúng nghĩa là có những tư tưởng và quan điểm đúng đắn và chính xác. Bây giờ, nhờ thông công theo cách này, các ngươi đã buông bỏ phần nào những ảo tưởng khác nhau về hôn nhân chưa? (Thưa, rồi.) Bây giờ các ngươi sợ hôn nhân hơn hay là khao khát nó hơn? Thực ra thì chẳng có cái nào đúng cả. Không cần phải sợ nó, cũng không cần phải khao khát nó nhiều đến thế. Nếu hiện tại ngươi đang độc thân và nói rằng, “Con muốn mưu cầu lẽ thật và dâng mình cho Đức Chúa Trời. Hiện tại con không nghĩ đến hôn nhân và không có dự định kết hôn, nên con sẽ để hôn nhân như một khoảng trống trong lòng con, con sẽ để nó là một trang giấy trắng”, quan điểm này có đúng không? (Thưa không, Đức Chúa Trời thông công lẽ thật này với chúng con vì chúng con cần trang bị nó cho bản thân, hiểu nó và đưa nó vào thực hành. Chúng con cũng nên hành động theo lời Đức Chúa Trời phán, lấy lẽ thật là tiêu chí mà nhìn nhận con người và sự việc, hành xử và hành động, toàn bộ đều căn cứ theo lời Đức Chúa Trời. Dù chúng con có đang cân nhắc về hôn nhân hay không, thì vẫn phải hiểu lẽ thật này, và chỉ khi đó mới có thể tránh mắc sai lầm.) Hiểu biết này có đúng không? (Thưa, đúng.)

Hiện tại còn có ai nói, “Chúng con độc thân và thế giới của người ngoại đạo nói rằng độc thân là cao quý, vậy có thể nói rằng trong nhà Đức Chúa Trời, người độc thân là thánh khiết, còn người đã kết hôn là ô uế không?” Còn ai nói những lời như vậy không? Có một số người đã kết hôn vẫn luôn có nhận thức sai lầm trong hiểu biết của họ về hôn nhân. Họ cho rằng tư tưởng của họ sau khi kết hôn không còn đơn thuần, đơn giản hay thanh khiết như trước kia, rằng tư tưởng của họ trở nên phức tạp hơn sau khi kết hôn, nhất là những người đã kết hôn thì đã có quan hệ với người khác giới và không còn thánh khiết nữa. Vậy nên sau khi tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời, họ cương quyết nói với bạn đời của mình, “Anh đã tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời, và từ hôm nay trở đi, anh phải mưu cầu sự thánh khiết. Anh không thể ngủ với em nữa đâu. Em phải ngủ một mình, còn anh sang ngủ ở phòng khác”. Từ đó trở đi, họ ngủ riêng và bạn đời của họ ngủ một mình, nhưng họ vẫn sống cùng nhau. Những người như vậy đang mưu cầu điều gì? Họ đang mưu cầu một dạng thánh khiết xác thịt. Đây có phải là một sự hiểu lầm về hôn nhân không? (Thưa, phải.) Hiểu lầm này có dễ giải quyết không? Có một số người đã kết hôn cho rằng khi đã có quan hệ với người khác giới thì họ không còn thánh khiết. Ẩn ý ở đây là nếu họ không có quan hệ với người khác giới, nếu họ từ bỏ hôn nhân và xóa bỏ hôn nhân thì họ sẽ trở nên thánh khiết. Nếu đó là cách để trở nên thánh khiết, thì chẳng phải có nghĩa là người chưa kết hôn càng thánh khiết hơn sao? Với những hiểu biết lệch lạc và sai lầm như thế, những sự lựa chọn hoặc hành động của con người khiến bạn đời của họ cảm thấy khó hiểu và phẫn nộ. Có những người chồng hoặc vợ ngoại đạo hiểu lầm và nảy sinh ác cảm đối với đức tin, thậm chí còn có người nói những lời báng bổ Đức Chúa Trời. Nói Ta xem, những người mưu cầu “sự thánh khiết” này làm như vậy có đúng không? (Thưa, không.) Tại sao không? Trước tiên, suy nghĩ của họ có vấn đề. Vấn đề đó là gì? (Thưa, họ hiểu sai lời Đức Chúa Trời.) Trước tiên, cách nhìn nhận của họ về hôn nhân rất lệch lạc và sai lầm; thứ hai, những định nghĩa, lĩnh hội của họ về sự thánh khiết và sự ô uế cũng rất lệch lạc và sai lầm. Họ cho rằng không có quan hệ với người khác giới mới là thánh khiết, vậy thì ô uế là gì? Thánh khiết là gì? Thánh khiết có phải nghĩa là không có những tâm tính bại hoại không? Khi người ta đạt được lẽ thật và tâm tính của họ thay đổi thì họ không còn tâm tính bại hoại nữa. Có phải không có quan hệ với người khác giới thì không có tâm tính bại hoại không? Có phải sau khi họ có quan hệ với người khác giới thì tâm tính bại hoại của con người mới nảy sinh không? (Thưa, không.) Rõ ràng hiểu biết này sai hoàn toàn. Một khi ngươi kết hôn và có quan hệ với người khác giới, những tâm tính bại hoại của ngươi không nghiêm trọng hơn, mà vẫn giống như cũ. Nếu ngươi không kết hôn và không có quan hệ với người khác giới, thì ngươi có tâm tính bại hoại không? Tâm tính bại hoại cũng chẳng ít đi chút nào. Vì vậy, dù là đàn ông hay phụ nữ, việc có tâm tính bại hoại hay không thì không căn cứ vào tình trạng hôn nhân của họ, việc họ đã kết hôn hay chưa hoặc họ có quan hệ với người khác giới hay không. Tại sao những người suy nghĩ và hành động theo cách này lại có kiểu nhận thức sai lầm như vậy về hôn nhân? Tại sao họ lại hành động như vậy? Đây có phải là một vấn đề nên được giải quyết không? (Thưa, phải.) Các ngươi có giải quyết được không? Người ta chỉ cần tiếp xúc với người khác giới và có quan hệ với họ là đã trở thành người ô uế và hoàn toàn bại hoại – có phải thế không? (Thưa, không.) Nếu là như vậy, thì việc Đức Chúa Trời tiền định sự kết hợp của người nam và người nữ là một sai lầm. Vậy thì làm cách nào để giải quyết vấn đề này? Căn nguyên nảy sinh vấn đề này là gì? Chúng ta hãy giải quyết vấn đề này bằng cách mổ xẻ và biết được căn nguyên của nó. Các ngươi phải chăng cũng có cách nhìn nhận này? Tất cả mọi người, dù đã kết hôn hay chưa kết hôn, đều có cách nhìn nhận này về hôn nhân đúng không? (Thưa, đúng.) Ta biết các ngươi không thể trốn tránh vấn đề này. Vậy thì căn nguyên của cách nhìn nhận này là gì? (Thưa, con người không rõ thánh khiết là gì và ô uế là gì.) Và đâu là căn nguyên của việc con người không rõ thánh khiết là gì và ô uế là gì? (Thưa, vì con người không thể lĩnh hội lời Đức Chúa Trời một cách thuần khiết và không hiểu lẽ thật.) Phương diện nào của lời Đức Chúa Trời mà họ không lĩnh hội được một cách thuần khiết? (Thưa, hôn nhân là thứ mà thông thường con người nên trải nghiệm trong cuộc đời và nó cũng được Đức Chúa Trời tiền định, nhưng con người lại liên hệ chuyện kết hôn và có quan hệ với người khác giới với việc họ có thánh khiết hay không, trong khi thực ra thánh khiết có nghĩa là không có tâm tính bại hoại, và nó chẳng liên quan gì đến chuyện họ có kết hôn hay không. Lấy các nữ tu trong Công giáo làm ví dụ. Nếu họ không tiếp nhận công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời và không hiểu lẽ thật, thì cho dù không kết hôn cả đời đi nữa, họ vẫn không được coi là thánh khiết, vì những tâm tính bại hoại của họ vẫn chưa được giải quyết.) Như vậy đã giải thích rõ chuyện này chưa? Sự khác biệt giữa thánh khiết và ô uế có nằm ở chuyện kết hôn hay không kết hôn không? (Thưa, không.) Không, và có nhiều chứng cứ để chứng thực chuyện này. Ví dụ, người thiểu năng trí tuệ, người đần độn, người bị bệnh tâm thần, các nữ tu Công giáo, ni cô, và hòa thượng đều không kết hôn, nhưng họ có thánh khiết không? (Thưa, không.) Những người bị thiểu năng trí tuệ, đần độn, và bị bệnh tâm thần không có lý trí bình thường; họ không thể kết hôn, trong số họ không có người đàn ông nào tìm được vợ, và không có người phụ nữ nào tìm được chồng, và họ không thánh khiết. Các nữ tu Công giáo, ni cô, hòa thượng, cùng với một số tập thể đặc biệt khác đều không kết hôn, và họ cũng không thánh khiết. “Không thánh khiết” nghĩa là gì? Nghĩa là họ ô uế. “Ô uế” nghĩa là gì? (Thưa, họ có những tâm tính bại hoại.) Đúng thế, nghĩa là họ có những tâm tính bại hoại. Tất cả những người không kết hôn này có tâm tính bại hoại và không ai trong số họ thánh khiết. Vậy còn những người đã kết hôn thì sao? Giữa những người đã kết hôn và những người không kết hôn có sự khác biệt nào về bản chất không? (Thưa không.) Không có sự khác biệt nào giữa họ về bản chất cả. Ta nói không có sự khác biệt giữa họ là có ý gì? (Thưa, họ đều bị Sa-tan làm cho bại hoại và đều có những tâm tính bại hoại.) Đúng thế, họ đều bị Sa-tan làm bại hoại và đều có những tâm tính bại hoại. Họ không thể vâng phục Đức Chúa Trời hay quy phục lẽ thật, họ không thể đi theo con đường kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Họ không được Đức Chúa Trời khen ngợi, không được cứu rỗi và đều ô uế. Vậy nên, việc một người thánh khiết hay ô uế không thể được đánh giá bằng việc họ có kết hôn hay không. Vậy thì tại sao người ta lại có kiểu nhận thức sai lầm này về hôn nhân, cho rằng những người đã kết hôn là không thánh khiết, là ô uế? Trọng tâm của nhận thức sai lầm này là gì? (Thưa, do cách nhìn nhận của họ về hôn nhân lệch lạc và sai lầm.) Là cách nhìn nhận của họ về hôn nhân và cuộc sống hôn nhân lệch lạc và sai lầm, hay là cách nhìn nhận của họ về những chuyện khác lệch lạc và sai lầm? Có ai giải thích rõ điều này được không? Như đã nói từ trước, bất cứ cuộc hôn nhân nào cuối cùng rồi cũng phải trở lại đời thực. Vậy thì cuộc sống hôn nhân này có phải là căn nguyên của những gì mà con người ta cho là ô uế không? (Thưa, không) Nó không phải căn nguyên của những gì con người cho là ô uế. Kỳ thực trong đầu óc và thâm tâm người ta đã biết căn nguyên của thứ mà họ cho là ô uế trong suy nghĩ của mình: Đó là ham muốn tình dục của họ, và nhận thức sai lầm nằm ở đây. Xác định và phân biệt thánh khiết hay ô uế dựa vào việc người ta kết hôn hay không kết hôn là một hiểu biết lệch lạc và nhận thức sai lầm, căn nguyên của việc này chính là cách hiểu méo mó và sai lầm của con người về ham muốn tình dục của xác thịt. Vậy cách hiểu này méo mó ở chỗ nào? Con người cho rằng khi họ cảm thấy ham muốn tình dục và kết hôn thì họ sẽ có quan hệ với người khác giới và khi có quan hệ với người khác giới, họ sẽ bắt đầu một cuộc sống gọi là cuộc sống ham muốn tình dục của xác thịt, và như vậy họ đã ô uế. Có phải họ cho rằng như vậy không? (Thưa, phải.)

Vậy hãy thảo luận xem chính xác thì ham muốn tình dục là gì. Chỉ cần ngươi hiểu nó cho đúng, hiểu và nhận thức khách quan, đúng đắn và chính xác về nó, thì ngươi sẽ làm sáng tỏ được vấn đề này, làm sáng tỏ nhận thức sai lầm về sự ô uế và thánh khiết này. Có phải thế không? Khi người ta kết hôn, họ thỏa mãn được ham muốn tình dục và họ giải phóng những ham muốn tình dục và nhục dục của họ, cho nên họ nghĩ, “Những người đã kết hôn như chúng con không thánh khiết, chúng con đã bị ô uế. Những người đàn ông và phụ nữ độc thân kia mới thánh khiết”. Đây rõ ràng là một hiểu biết lệch lạc và sai lầm, đến từ việc không biết chính xác ham muốn tình dục là gì. Bây giờ hãy nhìn xem con người thuở sơ khai: A-đam có ham muốn tình dục không? Nhân loại mà Đức Chúa Trời tạo ra có tư tưởng, có ngôn ngữ, có cảm giác ngũ quan, đồng thời có ý chí tự do và nhu cầu tình cảm. “Nhu cầu tình cảm” nghĩa là gì? Nghĩa là con người cần một người bạn đời để bầu bạn và hỗ trợ họ, có một người bạn đời để trò chuyện, để lo lắng, chăm sóc và nâng niu – đây là những nhu cầu tình cảm. Mặt khác, con người cũng có ham muốn tình dục. Căn cứ vào đâu để nói như vậy? Đó là sau khi Đức Chúa Trời tạo ra A-đam, Đức Chúa Trời phán ông cần một người bạn đời, một người bạn đời chỉ dành cho những nhu cầu sinh hoạt và tình cảm của ông. Nhưng Đức Chúa Trời còn phán về một nhu cầu nữa. Đức Chúa Trời đã phán gì? Sáng Thế Ký, chương 2, câu 24: “Bởi vậy cho nên người nam sẽ lìa cha mẹ mà dính díu cùng vợ mình, và cả hai sẽ trở nên một thịt”. Ý nghĩa của những lời này đã rất rõ ràng rồi; không cần phải nói toạc ra làm gì. Ngươi hiểu những lời này đúng không? Rõ ràng khi Đức Chúa Trời tạo ra A-đam, tổ tiên của nhân loại, A-đam có nhu cầu này. Đương nhiên câu nói này rất khách quan. Quan trọng hơn, khi Đức Chúa Trời tạo ra A-đam, ông đã có cơ quan cảm giác này, và ông có những điều kiện và đặc tính sinh lý này – đây là hoàn cảnh thực tế của A-đam, tổ tiên sơ khai nhất của nhân loại mà Đức Chúa Trời đã tạo ra, con người xác thịt đầu tiên. Ông có ngôn ngữ, có thính giác, thị giác, vị giác và có các cơ quan cảm giác, những nhu cầu tình cảm, ham muốn tình dục, nhu cầu sinh lý, và đương nhiên có ý chí tự do như chúng ta vừa nói. Những điều này cùng nhau cấu thành một con người mà Đức Chúa Trời đã tạo ra. Đây có phải là hoàn cảnh thực tế không? (Thưa phải.) Đây là kết cấu sinh lý của đàn ông. Còn phụ nữ thì sao? Đức Chúa Trời tạo ra kết cấu sinh lý cho phụ nữ khác với ở đàn ông, và đương nhiên tạo ra ham muốn tình dục giống với đàn ông. Căn cứ vào đâu để nói như vậy? Trong Sáng Thế Ký, chương 3, câu 16, Đức Chúa Trời phán: “Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con”. Con cái được nhắc đến trong cụm từ “sanh con” đến từ đâu? Giả dụ có một người phụ nữ không có dạng nhu cầu sinh lý này, hoặc nói chính xác hơn, cô ta không có nhu cầu ham muốn tình dục của phụ nữ – thì cô ta có thể mang thai được không? Không, điều này là quá rõ ràng. Vậy bây giờ, nhìn vào hai câu mà Đức Chúa Trời phán, người nam và người nữ mà Đức Chúa Trời tạo ra có những kết cấu sinh lý khác nhau, nhưng họ đều có đặc tính sinh lý chung là đều có ham muốn tình dục. Những việc làm này của Đức Chúa Trời và thông điệp giữa những dòng căn dặn dành cho con người đã chứng thực chuyện này. Con người mà Đức Chúa Trời tạo ra có những kết cấu sinh lý và cũng có những nhu cầu trong kết cấu sinh lý của họ. Vậy bây giờ chúng ta nên nhìn nhận chuyện này như thế nào? Cái gọi là ham muốn tình dục này là một phần của xác thịt, giống như bất kỳ cơ quan nào của con người. Ví dụ, con người ăn sáng lúc sáu giờ sáng, và đến trưa thì tất cả đồ ăn, ít nhiều cũng đã được tiêu hóa và dạ dày trống rỗng. Dạ dày truyền thông tin này đến não, và não bảo ngươi, “Dạ dày trống rỗng rồi; mau ăn thôi”. Vậy cảm giác của dạ dày là gì? Cảm thấy hơi trống rỗng và khó chịu, và muốn ăn gì đó. Cảm giác muốn ăn cái gì đó xảy ra như thế nào? Nó là kết quả từ sự hoạt động và trao đổi chất của toàn bộ hệ thống thần kinh và các cơ quan của ngươi – đơn giản thế thôi. Ham muốn tình dục có cùng tính chất với bất cứ cơ quan nào trên cơ thể; mỗi cơ quan đều kết nối với hệ thống thần kinh, và nó ra lệnh cho các cơ quan khác nhau. Ví dụ, mũi ngươi ngửi được mùi, và khi ngươi ngửi thấy mùi hôi thối, mùi này sẽ đi vào hệ thống thần kinh, và hệ thống thần kinh báo với não của ngươi, “Mùi này hôi quá, không phải mùi dễ ngửi”. Nó truyền thông tin này đến ngươi, và sau đó ngươi lập tức bịt mũi hoặc huơ tay trước mũi – có một loạt động tác như vậy. Ngươi thấy đấy, một loạt động tác và hành động này, cảm giác và ý thức này đều do các cơ quan nhất định và hệ thống thần kinh trong cơ thể ngươi chỉ huy. Ví dụ, ngươi nghe thấy một âm thanh vô cùng ồn ào, chói tai, và sau khi tai của ngươi nhận thông tin này, ngươi cảm thấy khó chịu hoặc phản cảm và ngươi bịt tai lại. Thực ra, tất cả những gì tai ngươi nhận được là một âm thanh, một đoạn tin, nhưng não sẽ phân biệt âm thanh này có tốt cho ngươi hay không. Nếu nó không có ảnh hưởng gì lớn đến ngươi, ngươi nghe và phân biệt được, thì nó sẽ trôi qua mà ngươi không hề chú ý; nếu nó có ảnh hưởng xấu đến tim hoặc cơ thể, não của ngươi sẽ phân biệt nó và sau đó báo với ngươi để ngươi bịt tai lại hoặc há miệng ra – một loạt các hành động và suy nghĩ như thế này sẽ diễn ra. Ham muốn tình dục của con người cũng như vậy, cũng có các cơ quan tương ứng với những phán đoán và diễn giải khác nhau dưới sự chi phối của các dây thần kinh tương ứng. Ham muốn tình dục của con người chỉ là một thứ đơn giản như vậy. Thứ này có cùng mức độ và đồng đẳng với bất cứ cơ quan nào khác trong cơ thể người, nhưng nó có tính chất đặc biệt của riêng mình, và đó là lý do con người luôn có những cách nhìn nhận, quan điểm hay suy nghĩ khác nhau về nó. Vậy nên, nhờ cách thông công này mà bây giờ phải chăng các ngươi nên có được hiểu biết đúng đắn rồi? (Thưa phải.) Ham muốn tình dục của con người chẳng có gì thần bí cả; Đức Chúa Trời tạo ra nó và nó đã tồn tại từ khi con người xuất hiện. Vì nó đã được Đức Chúa Trời tiền định và tạo ra, nên nó không thể biến thành một thứ tiêu cực hay một thứ ô uế chỉ vì con người có đủ các dạng hiểu lầm và quan niệm về nó. Nó cũng giống như bất cứ cơ quan cảm giác khác của con người; nó tồn tại bên trong cơ thể con người và nếu nó nằm trong một cuộc hôn nhân chính đáng được Đức Chúa Trời an bài và tiền định thì đó là một điều hợp lý. Tuy nhiên, nếu con người buông thả hay là sử dụng sai nó, thì nó sẽ trở thành một thứ tiêu cực. Đương nhiên, bản thân ham muốn tình dục không hề tiêu cực, mà những người lợi dụng nó hoặc có những suy nghĩ đó mới tiêu cực. Ví dụ, tình tay ba, dâm loạn, loạn luân, cũng như hãm hiếp và xâm hại tình dục, v.v… – những thứ liên quan đến ham muốn tình dục này đều đã biến thành những thứ tiêu cực và không còn liên quan gì đến ham muốn tình dục nguyên thủy của xác thịt con người. Ham muốn tình dục của xác thịt cũng giống như một cơ quan trên cơ thể: Nó được Đức Chúa Trời tạo ra. Tuy nhiên, vì sự tà ác và bại hoại của nhân loại mà đủ các dạng sự việc tà ác liên quan đến ham muốn tình dục phát sinh, nhưng nó lại chẳng liên quan gì đến ham muốn tình dục bình thường và chính đáng – đây là những vấn đề của hai tính chất khác nhau. Có phải thế không? (Thưa phải.) Tình tay ba, ngoại tình, cũng như loạn luân và xâm hại tình dục – đây là những sự việc tà ác liên quan đến ham muốn tình dục phát sinh trong nhân loại bại hoại. Những sự việc này chẳng liên quan gì đến ham muốn tình dục chính đáng và hôn nhân; chúng ô uế, bất chính và không phải là những thứ tích cực. Bây giờ các ngươi đã thấy rõ chưa? (Thưa, đã rõ.)

Qua cách thông công này, hiện tại phải chăng các ngươi đã có thể nhận thức rõ những lĩnh hội và hành động sai lầm và lệch lạc đối với những người đã kết hôn, đã phân định được đúng sai rồi? (Thưa rồi.) Khi ngươi gặp một người mới tin nói rằng, “Chúng tôi đã tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời, vậy vợ chồng đã kết hôn như chúng tôi có cần phải sống riêng không?” thì ngươi sẽ nói sao? (Thưa, không cần.) Ngươi có thể hỏi họ, “Tại sao cần phải sống riêng? Hai người cãi nhau à? Có phải một trong hai người ngáy to quá làm người kia mất ngủ phải không? Nếu vậy thì đó là vấn đề của anh và anh có thể sống riêng. Nếu là vì lý do khác thì không cần”. Còn có người nói, “Ôi, vợ chồng chúng tôi sống với nhau gần bốn mươi năm. Chúng tôi già rồi, con cái cũng đã trưởng thành, chúng tôi có nên ngủ giường riêng không? Đừng nên ngủ chung nữa kẻo con cái cười cho. Già rồi thì nên giữ nết già”. Nói như vậy có cơ sở không? (Thưa không.) Không. Họ muốn giữ nết già; nết già này là gì? Lúc còn trẻ thì họ làm gì? Vờ vịt làm gì vậy? Những người như vậy có đáng ghê tởm không? (Thưa, có.) Khi gặp những người như thế, hãy nói với họ, “Tin Đức Chúa Trời thì đừng nói những lời như thế, nhà của Đức Chúa Trời cũng không có những yêu cầu hay quy định như thế. Rồi sẽ đến lúc anh biết thôi. Anh muốn sống như thế nào thì sống; đó là chuyện của anh, và nó chẳng liên quan gì đến việc tin Đức Chúa Trời hay việc mưu cầu lẽ thật, cũng không liên quan đến việc đạt được sự cứu rỗi. Anh không cần phải hỏi về những điều này, cũng không cần phải hy sinh bất cứ điều gì cho chúng”. Vậy thì chẳng phải đã giải quyết được vấn đề rồi sao? (Thưa, phải.) Như vậy vấn đề ham muốn tình dục của con người trong hôn nhân cũng đã được giải quyết – đã vượt qua được khó khăn lớn nhất rồi. Thông công theo cách này các ngươi đều đã hiểu rõ hết rồi phải không? Các ngươi có còn nghĩ rằng ham muốn tình dục là chuyện thần bí không? (Thưa không.) Các ngươi có còn nghĩ ham muốn tình dục là ô uế hay bẩn thỉu không? (Thưa không.) Ham muốn tình dục không ô uế cũng không bẩn thỉu; nó là một thứ chính đáng. Tuy nhiên, nếu con người bỡn cợt với nó, thì nó không còn chính đáng nữa, mà nó trở thành một thứ hoàn toàn khác. Tóm lại, sau khi thông công theo cách này, những ảo tưởng thực tế và phi thực tế khác nhau của con người về hôn nhân phải chăng đều đã được giải quyết rồi? (Thưa, phải.) Sau khi thông công về những định nghĩa và khái niệm về hôn nhân, những mưu cầu, lý tưởng và mong muốn méo mó, lệch lạc và sai lầm của ngươi về hôn nhân đã cơ bản được buông bỏ ở một mức độ nào đó trong đầu ngươi. Những điều còn lại sẽ cần ngươi phải từ từ liên hệ với bản thân ngươi, dần thể nghiệm và trải nghiệm nó. Đương nhiên, điều quan trọng nhất là con người nên có lĩnh hội và quan điểm đúng đắn về bản thân hôn nhân – điều này rất quan trọng. Dù sau này ngươi có dự định kết hôn hay không, thì thái độ và quan điểm của ngươi đối với hôn nhân đều sẽ ảnh hưởng đến việc mưu cầu lẽ thật của ngươi, và đó là lý do ngươi phải đọc cho kỹ những lời của Đức Chúa Trời liên quan đến chủ đề này, và cuối cùng đạt được quan điểm và hiểu biết đúng đắn về hôn nhân, ít nhất là phải phù hợp với lẽ thật. Khi kết thúc thông công về vấn đề này, con người đã được mở mang thêm kiến thức đúng không? (Thưa, đúng.) Ngươi sẽ không còn trẻ con và hẹp hòi nữa, đúng không? Sau này khi ngươi thảo luận vấn đề này với mọi người, họ sẽ thấy rằng trông ngươi còn trẻ nhưng lại có hiểu biết về nó, và họ sẽ hỏi, “Anh kết hôn bao lâu rồi?” Ngươi đáp, “Tôi chưa kết hôn”. Họ sẽ nói, “Vậy sao anh lại có hiểu biết rất trưởng thành về hôn nhân như thế, hiểu biết của anh còn chín chắn hơn của người trưởng thành?” Ngươi đáp, “Tôi hiểu lẽ thật, và có căn cứ cho những lẽ thật mà tôi hiểu. Nếu anh không tin, tôi sẽ lấy Kinh Thánh để cho anh xem tình huống Đức Chúa Trời tạo ra A-đam, và anh sẽ thấy những gì tôi nói có chính xác hay không”. Cuối cùng, ngươi khiến họ tâm phục khẩu phục, đó là bởi vì mọi điều ngươi nói đều là sự hiểu biết và sự lĩnh hội thuần khiết của ngươi, không có chút pha tạp nào từ những tưởng tượng và quan niệm của con người hoặc bất cứ những quan điểm lệch lạc và sai lầm nào của con người – mọi điều ngươi nói đều phù hợp với lẽ thật và lời Đức Chúa Trời.

Hiện tại chúng ta đã thông công xong về vấn đề những lĩnh hội và cách hành động lệch lạc, sai lầm của những người đã kết hôn, hãy tiếp tục thông công về chủ đề “mưu cầu hạnh phúc hôn nhân không phải là sứ mạng của ngươi”. Con người buông bỏ những ảo tưởng khác nhau về hôn nhân chỉ có nghĩa rằng họ bắt đầu có một vài cách hiểu và cách nhìn nhận đúng đắn, tương đối phù hợp với lẽ thật về mặt khái niệm và định nghĩa của hôn nhân; chứ không có nghĩa họ có thể hoàn toàn buông bỏ những mưu cầu, lý tưởng và mong muốn đối với hôn nhân. Với những ai đã bước vào hôn nhân, làm cách nào họ duy trì được hạnh phúc hôn nhân? Có thể nói nhiều người chưa thể có cách tiếp cận đúng đắn với hạnh phúc hôn nhân, hoặc không thể có cách tiếp cận đúng đắn với mối quan hệ giữa hạnh phúc hôn nhân và sứ mạng của con người. Có phải đây cũng là một vấn đề không? (Thưa, phải.) Người đã kết hôn luôn coi hôn nhân là đại sự trong đời và rất coi trọng hôn nhân. Vì vậy họ ký thác hạnh phúc cả đời cho cuộc sống hôn nhân và nửa kia của mình, tin rằng mưu cầu hạnh phúc hôn nhân là mục tiêu duy nhất để mưu cầu trong đời. Do đó, nhiều người dốc nhiều sinh lực, trả giá và hy sinh rất lớn vì hạnh phúc hôn nhân. Ví dụ như, có người đã kết hôn, và để hấp dẫn đối phương, để làm được cái gọi là giữ cho hôn nhân và tình yêu của họ “tươi mới”, họ sẽ làm rất nhiều việc. Có người phụ nữ nói, “Con đường đến trái tim của một người đàn ông là đi qua dạ dày”, thế nên cô ta học cách nấu ăn từ mẹ và các trưởng bối, học cách nấu những món ngon và bánh ngọt, nấu đủ các món mà chồng mình thích ăn và cố gắng chuẩn bị những món ngon và vừa ý cho anh ta. Khi chồng đói, anh ta sẽ nghĩ đến những món ngon của cô ta, nghĩ đến gia đình rồi nghĩ đến cô ta, và vội vã về nhà. Bằng cách đó, cô ta sẽ không phải thường xuyên ở nhà một mình mà thay vào đó thường xuyên có chồng bên cạnh, như vậy cô ta cảm thấy việc học nấu những món ngon để giữ chân chồng thông qua dạ dày của anh ta là rất quan trọng. Vì đây là một cách để duy trì hạnh phúc hôn nhân, và cũng là cái giá mà một người phụ nữ phải trả, là trách nhiệm mà cô ta nên thực hiện vì hạnh phúc hôn nhân của mình, do đó cô ta nỗ lực duy trì hôn nhân của mình bằng cách này. Còn có người cảm thấy bất an về hôn nhân của mình, nên họ thường dùng nhiều cách khác nhau để lấy lòng, hấp dẫn và khơi gợi đối phương. Chẳng hạn như, một người phụ nữ như vậy sẽ thường hỏi chồng xem anh ta có nhớ ngày hẹn hò đầu tiên, ngày đầu tiên gặp nhau, ngày cưới của họ, và những ngày khác. Nếu người chồng nhớ thì cô ta cảm thấy anh ta yêu mình, trong lòng có mình. Nếu anh ta không nhớ thì cô ta sẽ không vui và oán trách đối phương, “Ngày quan trọng như thế mà anh không nhớ. Anh không yêu em nữa có đúng không?” Ngươi thấy đấy, trong nỗ lực không ngừng để hấp dẫn đối phương, thu hút sự chú ý, và duy trì hạnh phúc hôn nhân, cả đàn ông và phụ nữ đều dùng những cách thức thế tục để khơi gợi đối phương, họ đều làm những việc vô vị và trẻ con. Lại có một số phụ nữ sẵn sàng trả bất kỳ giá nào để làm những việc có hại cho sức khỏe của chính họ. Ví dụ, một số phụ nữ ngoài tuổi ba mươi, thấy da mình không còn trắng trẻo mịn màng nữa, khuôn mặt không còn rạng ngời kiều diễm nữa, liền đi căng da mặt hay tiêm axit Hyaluronic. Để trông xinh đẹp hơn, có một số phụ nữ còn phẫu thuật cắt mí mắt và phun xăm lông mày, thường xuyên ăn diện đặc biệt xinh đẹp và gợi cảm để hấp dẫn chồng mình, thậm chí họ thường xuyên học những trò lãng mạn mà người khác hay làm vì hạnh phúc hôn nhân của mình. Ví dụ, vào một ngày đặc biệt, một người phụ nữ như vậy có thể bày biện một bữa tối thịnh soạn với nến và rượu vang đỏ. Rồi cô ta tắt hết đèn, chờ khi chồng về nhà thì bắt chồng nhắm mắt rồi hỏi, “Anh đoán xem, hôm nay là ngày gì?” Người chồng cố đoán một lúc lâu nhưng không nghĩ ra là ngày gì. Cô ta thắp nến lên và khi người chồng mở mắt nhìn, hóa ra đó là sinh nhật anh ta, và anh ta nói, “Ôi tuyệt quá! Anh yêu em nhiều lắm! Anh còn không nhớ sinh nhật của mình nữa mà em lại nhớ sinh nhật được của anh, em đáng yêu quá!” Sau đó người phụ nữ cảm thấy rất hạnh phúc và mỹ mãn. Với chỉ vài lời nói từ người chồng, cô ta cảm thấy thỏa mãn và an tâm. Cả đàn ông và phụ nữ đều vắt óc nghĩ cách để duy trì hạnh phúc hôn nhân. Người vợ đã biến cải nhiều, hy sinh nhiều, dành nhiều thời gian và sinh lực, người chồng cũng vậy, tích cực làm việc chăm chỉ và kiếm tiền ở ngoài thế giới, lấp đầy ví, mang thật nhiều tiền về nhà, cho vợ tận hưởng cuộc sống ngày càng tốt hơn. Để duy trì hạnh phúc hôn nhân, anh ta còn miễn cưỡng học theo người khác mua hoa hồng, quà sinh nhật, quà Giáng Sinh, sôcôla vào ngày Lễ Tình Nhân, v.v…, vắt óc nghĩ cách để làm vợ vui, làm tất cả có thể để làm những việc vô ích này. Rồi một ngày anh ta thất nghiệp mà không dám nói với vợ, sợ cô ta sẽ ly hôn với mình hoặc hôn nhân của họ sẽ không còn hạnh phúc như trước. Nên anh ta cứ tiếp tục giả vờ như đi làm và tan ca đúng giờ mỗi ngày, đồng thời đi khắp nơi tìm việc làm, tìm chỗ làm. Anh ta phải làm gì khi ngày trả lương đến mà anh ta không có tiền? Anh ta vay mượn tất cả mọi người để làm vợ vui, rồi nói, “Xem này, tháng này anh được thưởng 2.000 tệ. Em muốn mua gì thì cứ lấy mà mua”. Vợ anh ta không biết sự thật, cứ thế đi mua những món đồ xa xỉ. Lòng anh ta đầy nỗi khổ tâm mà không có chỗ giải tỏa nên ngày càng lo âu. Dù là đàn ông hay phụ nữ, họ đều có nhiều hành động, dành nhiều thời gian và sinh lực để duy trì hạnh phúc hôn nhân, thậm chí còn làm rất nhiều việc trái với lòng mình. Dù lãng phí nhiều thời gian và sinh lực nhưng những người rơi vào cảnh này vào vẫn không biết làm thế nào để đối diện và xử lý những chuyện này sao cho đúng đắn, thậm chí vắt óc nghĩ cách học hỏi, nghiên cứu và hỏi ý kiến người khác để duy trì hạnh phúc hôn nhân. Thậm chí sau khi tin Đức Chúa Trời, có những người đã tiếp nhận bổn phận và sự giao phó từ nhà Đức Chúa Trời, nhưng để duy trì hạnh phúc và sự mỹ mãn của cuộc hôn nhân, họ chẳng làm được bao nhiêu trong việc thực hiện bổn phận. Đáng lẽ theo dự định ban đầu, họ phải đi tới một nơi xa xôi để rao giảng phúc âm, về nhà một lần mỗi tuần hay lâu lâu một lần, hoặc họ có thể xa nhà và thực hiện bổn phận toàn thời gian tùy theo tố chất và điều kiện khác nhau, nhưng họ sợ vợ chồng mình sẽ bất mãn, hôn nhân của họ sẽ không hạnh phúc, hoặc họ sẽ hoàn toàn đánh mất cuộc hôn nhân này, và để duy trì hạnh phúc hôn nhân, họ từ bỏ rất nhiều thời gian đáng lẽ nên dành cho việc thực hiện bổn phận. Nhất là khi nghe đối phương oán trách, bất mãn hoặc than thở, họ càng cẩn thận hơn với việc duy trì hôn nhân. Họ làm tất cả có thể để thỏa mãn bạn đời của mình và nỗ lực vì một cuộc hôn nhân hạnh phúc và để hôn nhân của mình không tan vỡ. Đương nhiên, trường hợp nghiêm trọng hơn là có người còn từ chối khi nhà Đức Chúa Trời kêu gọi, và từ chối thực hiện bổn phận để duy trì hạnh phúc hôn nhân. Đáng lẽ họ phải xa nhà để thực hiện bổn phận, nhưng vì họ không chịu nổi việc xa cách bạn đời hoặc do bố mẹ của bạn đời phản đối đức tin của họ vào Đức Chúa Trời, đồng thời phản đối chuyện họ nghỉ việc và xa nhà để thực hiện bổn phận, nên họ nhượng bộ và từ bỏ bổn phận, thay vào đó chọn duy trì hạnh phúc hôn nhân và sự hoàn chỉnh của hôn nhân. Vì một cuộc hôn nhân hạnh phúc và hoàn chỉnh, để tránh cuộc hôn nhân tan vỡ và kết thúc, họ chỉ chọn thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong cuộc sống hôn nhân và từ bỏ sứ mạng của một loài thọ tạo. Ngươi không nhận ra rằng, dù vai trò của ngươi trong gia đình hay xã hội là gì – dù là vợ, chồng, con cái, bố mẹ, nhân viên, hay bất kỳ vai trò nào – và dù vai trò của ngươi trong cuộc sống hôn nhân quan trọng hay không, thì ngươi chỉ có một thân phận trước Đức Chúa Trời và đó chính là thân phận của một loài thọ tạo. Ngươi không có thân phận nào khác trước Đức Chúa Trời. Vì vậy khi nhà Đức Chúa Trời kêu gọi ngươi, thì ngươi nên hoàn thành sứ mạng của mình. Nói cách khác, là một loài thọ tạo, không phải ngươi chỉ có thể hoàn thành sứ mạng khi tiền đề là ngươi đã hoàn thành việc duy trì hạnh phúc hôn nhân và sự hoàn chỉnh của cuộc hôn nhân, mà ngược lại, chỉ cần ngươi là một loài thọ tạo, thì sứ mạng Đức Chúa Trời ban cho ngươi và giao phó cho ngươi phải được hoàn thành vô điều kiện; bất kể trong hoàn cảnh nào, điều ngươi không thể chối từ là xem sứ mạng mà Đức Chúa Trời giao phó là ưu tiên hàng đầu, còn sứ mạng và trách nhiệm dành cho cuộc hôn nhân của ngươi chỉ là thứ yếu. Sứ mạng của một loài thọ tạo mà Đức Chúa Trời đã ban cho ngươi để hoàn thành luôn phải là ưu tiên hàng đầu trong bất kỳ điều kiện hay hoàn cảnh nào. Vì vậy, bất kể ngươi muốn duy trì hạnh phúc hôn nhân đến thế nào, tình trạng hôn nhân của ngươi ra sao, hoặc bạn đời của ngươi đã phải trả cái giá lớn thế nào cho hôn nhân, thì đó đều không phải là lý do để từ chối sứ mạng mà Đức Chúa Trời giao phó cho ngươi. Hay nói cách khác, bất kể cuộc hôn nhân của ngươi hạnh phúc đến đâu, hoàn chỉnh thế nào, thì thân phận một loài thọ tạo của ngươi vẫn không thay đổi, như vậy, sứ mạng mà Đức Chúa Trời giao phó cho ngươi là việc mà ngươi không thể chối từ và phải hoàn thành trước hết, một cách vô điều kiện. Vậy nên khi Đức Chúa Trời giao phó sứ mạng cho ngươi, khi ngươi bắt đầu có bổn phận và sứ mạng của một loài thọ tạo, ngươi nên buông bỏ mưu cầu hôn nhân hạnh phúc, từ bỏ mưu cầu duy trì một cuộc hôn nhân hoàn chỉnh, đặt ưu tiên số một cho Đức Chúa Trời và sứ mạng mà nhà Đức Chúa Trời giao phó, đừng hành động một cách ngu xuẩn. Việc duy trì hạnh phúc hôn nhân chỉ là trách nhiệm mà ngươi gánh vác với vai trò là chồng hoặc vợ trong khuôn khổ hôn nhân; nó không phải là trách nhiệm hay sứ mạng của một loài thọ tạo trước Đấng Tạo Hóa, vì vậy ngươi không nên từ bỏ sứ mạng mà Đấng Tạo Hóa giao phó để duy trì hạnh phúc hôn nhân của ngươi, cũng không nên làm nhiều việc ngu xuẩn, ấu trĩ và trẻ con không liên quan đến trách nhiệm của một người vợ hoặc chồng. Ngươi chỉ cần thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của một người vợ hoặc chồng phù hợp với lời Đức Chúa Trời và yêu cầu của Đức Chúa Trời – nghĩa là, phù hợp với sự căn dặn sơ khai nhất của Đức Chúa Trời. Ít nhất ngươi nên thực hiện trách nhiệm của một người vợ hoặc chồng với lương tâm và lý trí của nhân tính bình thường, như thế là đủ. Còn với những thứ gọi là “Con đường đến trái tim của một người đàn ông là đi qua dạ dày”, hay sự lãng mạn, việc liên tục ăn mừng đủ các kiểu kỷ niệm, thế giới của hai người, hoặc sự mưu cầu “tay trong tay cùng già đi”, hay “Anh mãi yêu em như ngày hôm nay”, và những việc vô vị tương tự, chúng không phải là trách nhiệm của một người đàn ông và phụ nữ bình thường. Đương nhiên, nói chính xác hơn thì những việc này không phải trách nhiệm và nghĩa vụ trong khuôn khổ hôn nhân của một người mưu cầu lẽ thật. Những cách sống và mưu cầu cuộc sống này không phải là việc mà người mưu cầu lẽ thật nên làm, vì vậy trước hết ngươi nên buông bỏ những câu nói, quan điểm và cách thực hành vô vị, ngu xuẩn, ấu trĩ, nông cạn, buồn nôn và sến súa trong thâm tâm ngươi. Đừng để hôn nhân của ngươi biến chất, cũng đừng để sự mưu cầu hạnh phúc hôn nhân của ngươi trói buộc tay chân, tư tưởng, và bước chân của ngươi, biến ngươi trở nên ấu trĩ, ngu xuẩn, thô tục và thậm chí tà ác. Những mưu cầu thế tục cho một cuộc hôn nhân hạnh phúc này không phải là nghĩa vụ và trách nhiệm mà người có lý trí bình thường nên thực hiện, mà thay vào đó, chúng chỉ đơn thuần diễn biến ra từ thế giới tà ác và nhân loại bại hoại này, và có tác động xâm thực đến toàn bộ nhân tính và tư tưởng của con người. Chúng sẽ khiến tư tưởng của ngươi hủ bại, làm méo mó nhân tính của ngươi, khiến tâm tư của ngươi trở nên tà ác, phức tạp, hỗn loạn, thậm chí cực đoan. Ví dụ, một số phụ nữ thấy những người đàn ông khác lãng mạn, tặng hoa hồng cho vợ vào kỷ niệm ngày cưới, hay đưa vợ đi mua sắm, ôm vợ hoặc tặng quà đặc biệt khi vợ giận dỗi hay không vui, thậm chí làm vợ bất ngờ để khiến vợ vui vẻ,v.v… Một khi ngươi tiếp nhận những câu nói và cách hành động này vào người, ngươi cũng sẽ muốn nửa kia của mình làm những việc đó, ngươi cũng sẽ muốn kiểu cuộc sống đó và kiểu đối xử đó, vậy nên lý trí của người sẽ trở nên bất thường, bị quấy nhiễu và xâm thực bởi những câu nói, tư tưởng và cách hành động đó. Nếu bạn đời của ngươi không mua hoa hồng cho ngươi, không cố gắng làm ngươi vui vẻ, hoặc không làm bất kỳ điều gì lãng mạn cho ngươi, thì ngươi cảm thấy tức giận, bực bội, và bất mãn – có đủ mọi cảm xúc khác nhau. Khi cuộc sống của ngươi đầy ắp những điều này, thì nghĩa vụ của một người phụ nữ mà ngươi nên thực hiện, và cả bổn phận và trách nhiệm của một loài thọ tạo mà ngươi nên làm trong nhà Đức Chúa Trời đều bị xáo trộn. Ngươi sống trong cảm xúc bất mãn, cuộc sống bình thường và thói quen hàng ngày của ngươi sẽ bị những cảm giác và suy nghĩ bất mãn quấy nhiễu. Vì vậy, những mưu cầu của ngươi sẽ ảnh hưởng đến tư duy lô-gic của nhân tính bình thường, ảnh hưởng đến phán đoán bình thường, và đương nhiên, ảnh hưởng đến những trách nhiệm và nghĩa vụ mà ngươi nên thực hiện như một người bình thường. Nếu ngươi mưu cầu những thứ thế tục và hạnh phúc hôn nhân, thì ngươi sẽ không tránh khỏi bị “thế tục hóa”. Nếu chỉ mưu cầu hạnh phúc hôn nhân, thì ngươi chắc chắn sẽ luôn cần bạn đời của mình nói những lời như “Anh yêu em”, và nếu bạn đời của ngươi chưa từng nói “Anh yêu em”, ngươi sẽ nghĩ, “Ôi, cuộc hôn nhân của mình không hạnh phúc. Chồng mình thì đơ như khúc gỗ, như tên ngốc. Cùng lắm là anh ấy biết mang chút tiền về nhà, có chút cố gắng, và chịu khó làm một chút công việc chân tay, tới bữa ăn thì anh ấy nói, ‘Ăn thôi’, tới giờ đi ngủ thì nói, ‘Đến giờ ngủ rồi, ngủ ngon mơ đẹp nhé’, chỉ có vậy. Sao anh ấy không bao giờ nói được câu ‘Anh yêu em’ nhỉ? Anh ấy nói một câu lãng mạn này thôi không được sao?” Khi lòng ngươi đầy ắp những thứ này, ngươi còn có thể làm người bình thường được không? Chẳng phải ngươi luôn trong tình trạng bất thường và xúc động sao? (Thưa, phải.) Có những người không có sự phân định, không có sự kháng cự, không có sự miễn dịch khi đứng trước những xu thế tà ác này của thế giới. Một người phụ nữ như vậy coi chuyện này, hiện tượng nói những lời lãng mạn này như một dấu hiệu của hạnh phúc hôn nhân, rồi cô ta muốn mưu cầu, bắt chước, đạt được nó, và khi không đạt được thì tức giận, và thường hỏi chồng mình, “Nói đi, anh rốt cuộc có yêu em không?” Bị hỏi quá nhiều lần, người chồng nổi giận, đỏ mặt buột miệng, “Anh yêu em, em yêu”. Và cô ta nói, “Ôi, nói lại lần nữa đi anh”. Người chồng kiềm chế đến nỗi đỏ mặt tía tai, suy nghĩ rồi nói, “Em à, anh yêu em”. Ngươi thấy đấy, người đàn ông tử tế này nói lời sến súa như vậy, nhưng nó không xuất phát từ nội tâm của anh ta, nên anh ta thấy không thoải mái. Khi người vợ nghe anh ta nói vậy, cô ta vui sướng nói, “Thế mới được chứ!” Còn người chồng nói gì? “Xem em kìa. Giờ em vui chưa? Em chỉ lắm chuyện thôi”. Nói xem, một người phụ nữ và một người đàn ông sống kiểu cuộc sống hôn nhân này có phải là hạnh phúc không? (Thưa, không.) Một câu “Anh yêu em” là hạnh phúc sao? Hạnh phúc hôn nhân có thể diễn giải như vậy sao? Chỉ đơn giản vậy thôi à? (Thưa, không.) Một số phụ nữ hay hỏi chồng mình, “Này, anh có thấy em già không?” Chồng cô ta tính vốn thật thà bèn trả lời một cách thật thà, “Ừ, có một chút. Sau bốn mươi tuổi ai mà chẳng thế?” Cô ta đáp, “Ôi, anh không yêu em nữa à? Sao anh không khen em trẻ chứ? Anh chê em già chứ gì? Anh muốn tìm tiểu tam phải không?” Chồng cô ta đáp, “Phiền phức quá đi! Muốn nói thật với em cũng không được. Em bị gì vậy? Anh chỉ nói thật thôi. Ai mà chẳng già đi? Em muốn làm yêu quái à?” Phụ nữ thế này thật không có lý tính. Chúng ta gọi những người mưu cầu thứ gọi là hạnh phúc hôn nhân này là gì? Gọi hơi tục một chút, họ là đồ hèn hạ. Thế thì gọi thế nào cho đỡ tục? Gọi là đồ thần kinh. “Đồ thần kinh” là ý gì? Ý của ta là họ không có tư duy của nhân tính bình thường. Ở tuổi bốn mươi hay năm mươi, đã ngần ấy tuổi rồi mà vẫn không nhìn thấu được nhân sinh, hôn nhân, vẫn cứ thích làm những việc vô ích và buồn nôn. Họ cho rằng đây là hạnh phúc hôn nhân, rằng đây là tự do và quyền lợi của con người, rằng họ nên mưu cầu theo cách này, sống theo cách này, và tiếp cận với hôn nhân theo cách này. Như vậy có phải là không chuyên tâm vào việc chính đáng không? (Thưa, phải.) Có nhiều người hành động như thế này không? (Thưa, nhiều.) Có rất nhiều trong thế giới của những người ngoại đạo, nhưng trong nhà Đức Chúa Trời có không? Có nhiều không? Lãng mạn, quà tặng, ôm ấp, bất ngờ, và những lời “Anh yêu em”, v.v… đều là những dấu hiệu, những mục tiêu của hạnh phúc hôn nhân mà con người mưu cầu. Những người không tin vào Đức Chúa Trời đều như vậy, và cũng không tránh khỏi có rất nhiều người tin vào Đức Chúa Trời hiện tại vẫn đang có kiểu mưu cầu và những quan điểm như thế. Vì thế, có nhiều người đã tin vào Đức Chúa Trời khoảng mười năm hoặc hơn, những người đã nghe một số bài giảng, hiểu một số lẽ thật, nhưng chỉ vì để duy trì hạnh phúc hôn nhân, bầu bạn với bạn đời, giữ lời hứa đã hứa trong cuộc hôn nhân của họ và mục tiêu của hạnh phúc hôn nhân mà họ đã thề sẽ mưu cầu, mà họ không thực hiện trách nhiệm và bổn phận trước Đấng Tạo Hóa. Thay vào đó, họ chưa hề bước chân ra khỏi nhà, không chịu xa nhà bất kể công tác của nhà Đức Chúa Trời bận rộn thế nào đi nữa, họ cũng không chịu rời xa bạn đời để thực hiện bổn phận, mà ngược lại, họ coi sự mưu cầu và duy trì hạnh phúc hôn nhân là mục tiêu cả đời để họ phấn đấu và không ngừng nỗ lực. Họ mưu cầu như thế thì có phải đang mưu cầu lẽ thật không? Rõ ràng là không. Vì trong đầu họ, trong thâm tâm họ, và thậm chí trong hành động của họ, họ không buông bỏ mưu cầu hạnh phúc hôn nhân, cũng không buông bỏ tư tưởng, quan điểm và nhân sinh quan về “mưu cầu hạnh phúc hôn nhân là sứ mạng của đời người”, vì vậy họ tuyệt đối không thể đạt được lẽ thật. Các ngươi hiện tại chưa kết hôn và chưa bước vào hôn nhân. Nếu các ngươi vẫn giữ quan điểm này khi bước vào hôn nhân, thì các ngươi cũng sẽ không thể đạt được lẽ thật. Khi ngươi đạt được hạnh phúc hôn nhân, thì ngươi sẽ không thể đạt được lẽ thật. Vì ngươi coi mưu cầu hạnh phúc hôn nhân là sứ mạng đời ngươi, ngươi chắc chắn sẽ buông bỏ và từ bỏ cơ hội hoàn thành sứ mạng trước Đấng Tạo Hóa. Nếu ngươi từ bỏ cơ hội và quyền lợi để hoàn thành sứ mạng của một loài thọ tạo trước Đấng Tạo Hóa, thì ngươi sẽ từ bỏ việc mưu cầu lẽ thật, và đương nhiên ngươi cũng từ bỏ việc đạt được sự cứu rỗi – đây là lựa chọn của ngươi.

Chúng ta đang thông công về việc buông bỏ mưu cầu hạnh phúc hôn nhân không phải để con người buông bỏ hôn nhân về mặt hình thức, cũng không phải để khuyến khích ngươi ly hôn, mà ngược lại, để ngươi buông bỏ những mưu cầu về hạnh phúc hôn nhân đó. Trước hết, ngươi nên buông bỏ những quan điểm chi phối ngươi trong việc mưu cầu hạnh phúc hôn nhân, sau đó ngươi nên buông bỏ cách hành động mưu cầu hạnh phúc hôn nhân, dành phần lớn thời gian và quãng đời để thực hiện bổn phận của một loài thọ tạo và mưu cầu lẽ thật. Đối với hôn nhân, chỉ cần nó không xung đột hay đối chọi với việc mưu cầu lẽ thật của ngươi, thì những nghĩa vụ mà ngươi nên thực hiện, sứ mạng mà người nên hoàn thành, và vai trò của ngươi trong khuôn khổ hôn nhân sẽ không thay đổi. Vì vậy, yêu cầu ngươi buông bỏ mưu cầu hạnh phúc hôn nhân không có nghĩa là yêu cầu ngươi từ bỏ hôn nhân hay chính thức ly hôn, mà ngược lại, nó có nghĩa là yêu cầu ngươi hoàn thành sứ mạng của một loài thọ tạo và làm tròn bổn phận với tiền đề là ngươi hoàn thành trách nhiệm mà ngươi nên thực hiện trong hôn nhân. Đương nhiên, nếu sự mưu cầu hạnh phúc hôn nhân của ngươi ảnh hưởng, cản trở, hay thậm chí phá hoại việc thực hiện bổn phận của một loài thọ tạo, thì không những ngươi nên từ bỏ mưu cầu hạnh phúc hôn nhân, mà nên từ bỏ cả cuộc hôn nhân của ngươi. Khi thông công về những vấn đề này, mục đích và ý nghĩa tối hậu là gì? Là để hạnh phúc hôn nhân không cản bước con người, trói tay ngươi, che mắt ngươi, làm nhiễu loạn tầm nhìn của ngươi, làm nhiễu loạn và chiếm hữu tâm tư của ngươi; để con đường nhân sinh và cuộc sống của ngươi không ngập đầy mưu cầu hạnh phúc hôn nhân, mà để ngươi đối xử một cách đúng đắn với trách nhiệm và nghĩa vụ ngươi nên thực hiện trong hôn nhân, đưa ra những lựa chọn đúng đắn đối với trách nhiệm và nghĩa vụ mà ngươi nên thực hiện. Một cách thực hành tốt hơn nữa là dành nhiều thời gian và sinh lực hơn nữa cho việc thực hiện bổn phận, thực hiện bổn phận mà ngươi nên thực hiện, hoàn thành sứ mạng mà Đức Chúa Trời giao phó cho ngươi. Bất kể như thế nào, ngươi không được quên rằng mình là một loài thọ tạo, rằng chính Đức Chúa Trời đã dẫn dắt ngươi trong cuộc sống cho đến hiện tại, rằng Đức Chúa Trời đã ban hôn nhân cho ngươi, ban gia đình cho ngươi, và chính Đức Chúa Trời đã ban cho ngươi trách nhiệm mà ngươi nên thực hiện trong khuôn khổ hôn nhân, chứ không phải ngươi là người đã chọn hôn nhân, không phải ngươi bỗng dưng có hôn nhân, không phải ngươi có thể duy trì hạnh phúc hôn nhân nhờ vào năng lực và sức mạnh của ngươi. Ta giải thích như vậy đã rõ chưa? (Thưa, rồi.) Ngươi đã hiểu mình nên làm gì rồi chứ? Bây giờ con đường đã rõ ràng với ngươi rồi chứ? (Thưa, rồi.) Nếu không có mâu thuẫn hay xung đột giữa trách nhiệm, nghĩa vụ mà ngươi nên thực hiện trong hôn nhân với bổn phận, sứ mạng của một loài thọ tạo, thì trong những hoàn cảnh như thế, ngươi nên thực hiện trách nhiệm trong khuôn khổ của hôn nhân như thế nào thì ngươi hãy thực hiện như thế, và ngươi nên thực hiện tốt trách nhiệm của mình, gánh vác trách nhiệm mà ngươi nên gánh vác, đừng cố trốn tránh. Ngươi phải chịu trách nhiệm với bạn đời, chịu trách nhiệm với cuộc sống của bạn đời, tình cảm của họ, và mọi thứ về họ. Tuy nhiên, khi có xung đột giữa trách nhiệm và nghĩa vụ mà ngươi gánh vác trong khuôn khổ hôn nhân với sứ mạng và bổn phận của một loài thọ tạo, thì thứ ngươi phải buông bỏ không phải là bổn phận hay sứ mạng của ngươi mà ngược lại, là trách nhiệm của ngươi trong khuôn khổ hôn nhân. Đây là điều Đức Chúa Trời kỳ vọng ở ngươi, là sự giao phó của Đức Chúa Trời cho ngươi, và đương nhiên, là những gì Đức Chúa Trời yêu cầu ở bất kỳ người đàn ông hay phụ nữ nào. Chỉ khi có thể làm việc này thì ngươi mới đang mưu cầu lẽ thật và đi theo Đức Chúa Trời. Nếu ngươi không có khả năng làm việc này và không thể thực hành theo cách này, thì ngươi chỉ là một tín hữu trên danh nghĩa, ngươi không đi theo Đức Chúa Trời bằng tấm lòng chân thật, và ngươi không phải là người mưu cầu lẽ thật. Hiện tại, khi có cơ hội và điều kiện để rời Trung Quốc thực hiện bổn phận, thì có người nói, “Nếu con rời Trung Quốc để thực hiện bổn phận, thì con sẽ phải để bạn đời ở nhà. Chúng con sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa ư? Chúng con sẽ phải sống hai người hai nơi sao? Thế là sau này chúng con không còn hôn nhân nữa sao?” Lại có những người nghĩ, “Ôi, thiếu con thì làm sao bạn đời của con sống nổi? Con mà đi vắng thì chẳng phải hôn nhân của con sẽ tan vỡ hay sao? Cuộc hôn nhân của chúng con đã chấm dứt ư? Sau này con phải làm sao?” Ngươi có nên nghĩ về tương lai không? Ngươi nên nghĩ đến điều gì nhiều nhất? Nếu ngươi muốn làm một người mưu cầu lẽ thật, thì điều ngươi nên nghĩ đến nhiều nhất đó là cách để buông bỏ những gì Đức Chúa Trời yêu cầu ngươi buông bỏ, và cách để hoàn thành những gì Đức Chúa Trời yêu cầu ngươi phải hoàn thành. Nếu sau này ngươi không có hôn nhân và không có bạn đời bên cạnh, thì trong những ngày sắp tới, ngươi vẫn có thể sống đến già và sống tốt như trước. Tuy nhiên, nếu ngươi từ bỏ cơ hội này, thì nó cũng tương đương với việc ngươi từ bỏ bổn phận và sứ mạng mà Đức Chúa Trời giao phó cho ngươi. Đối với Đức Chúa Trời, ngươi không phải là người mưu cầu lẽ thật, người thực sự muốn Đức Chúa Trời, hay người mưu cầu sự cứu rỗi. Nếu ngươi chủ động muốn từ bỏ cơ hội và quyền lợi đạt được sự cứu rỗi, từ bỏ sứ mạng của ngươi, thay vào đó ngươi chọn hôn nhân, chọn vợ chồng đoàn tụ, chọn ở bên và thỏa mãn bạn đời, chọn giữ sự hoàn chỉnh của hôn nhân, thì cuối cùng ngươi chắc chắn sẽ đạt được điều gì đó và mất đi điều gì đó. Ngươi hiểu mình sẽ mất gì, đúng không? Hôn nhân không phải là tất cả của ngươi, hạnh phúc hôn nhân cũng không phải là tất cả – nó không thể quyết định vận mệnh của ngươi, không thể quyết định tương lai của ngươi, và thậm chí không thể quyết định đích đến của ngươi. Vì vậy, việc con người nên lựa chọn những gì, có nên buông bỏ mưu cầu hạnh phúc hôn nhân để thực hiện bổn phận của một loài thọ tạo hay không là tùy vào quyết định của họ. Thông công về chủ đề “mưu cầu hạnh phúc hôn nhân không phải là sứ mạng của ngươi” như vậy đã rõ rồi đúng không? (Thưa, rõ rồi.) Còn vấn đề nào các ngươi thấy khó, và sau khi nghe Ta thông công xong mà vẫn chưa biết cách thực hành không? (Thưa, không.) Nghe xong thông công này, giờ ngươi có cảm thấy rõ hơn rằng ngươi có một con đường thực hành chính xác, có một mục tiêu chính xác để thực hành không? Bây giờ ngươi đã biết từ giờ trở đi ngươi nên làm như thế nào chưa? (Thưa, rồi.) Vậy thì hãy kết thúc thông công này ở đây. Tạm biệt!

Ngày 14 tháng 1 năm 2023

Trước: Cách mưu cầu lẽ thật (9)

Tiếp theo: Cách mưu cầu lẽ thật (11)

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger