39. Sự đổi chác đằng sau việc trả giá
Một ngày cuối năm 2019, cháu gái tôi bất ngờ nói bị đau chân. Tôi đưa cháu đến bệnh viện chụp chiếu chẩn đoán hình ảnh, nhưng không phát hiện ra bệnh gì, nên tôi cũng không nghĩ nó nghiêm trọng. Hôm sau, cháu nói chân vẫn đau nhói. Thấy con bé khóc trong đau đớn làm tôi cũng khóc theo. Đêm đó, chân con bé đau nhức suốt, và nó gần như không ngủ được cả đêm. Khi xoa bóp chân cho cháu, tôi không ngừng cầu nguyện với Đức Chúa Trời và phó thác bệnh tật của con bé cho Đức Chúa Trời. Buổi sáng ngày thứ ba, con trai và con dâu tôi đưa cháu đến bệnh viện quận.
Sau khi nhập viện, cháu liên tục sốt cao, cứ 40 độ không hạ. Con bé được khám ngoại khoa và nội khoa nhưng không phát hiện ra bệnh gì, và các bác sĩ bó tay. Bất lực, con trai tôi đưa cháu đi bệnh viện ở trung tâm tỉnh. Hội chẩn chuyên môn lúc thì chẩn đoán cháu bị lupus ban đỏ, lúc thì chẩn đoán nhiễm trùng máu. Khi ông bà ngoại cháu trở về từ bệnh viện và kể chuyện tình hình với tôi, tôi lo lắm. Lupus ban đỏ và nhiễm trùng máu đều là những bệnh gây tử vong. Ngay cả khi chưa nói đến chẩn đoán, cháu gái tôi vẫn sốt cao 40 độ, có thể gây tổn hại rất lớn cho sức khỏe nếu kéo dài quá lâu. Tình hình của con bé rất đáng ngại. Càng nghĩ, tôi càng thấy nẫu ruột. Tôi đã nuôi nấng cháu và không thể chịu nổi khi thấy bất kỳ chuyện gì xảy ra với nó. Tôi nhiều lần cố gắng tự an ủi mình, thầm nghĩ: “Con bé sẽ ổn thôi. Đức Chúa Trời toàn năng. Ngài sẽ bảo vệ cháu gái mình. Ngài sẽ không để cháu mình chết đâu”. Khi nghĩ đến bệnh tình của cháu gái, tôi thường khóc trong đau khổ. Con bé vẫn còn nhỏ thế mà đã phải chịu đựng như vậy. Ước gì tôi là người mắc căn bệnh này để có thể chịu đau thay con bé. Tôi cũng nghĩ: “Mình tin vào Đức Chúa Trời, vậy tại sao chuyện này lại xảy ra với gia đình mình?”. Nhưng nghĩ lại, tôi biết mình đã gặp phải hoàn cảnh này dưới sự cho phép của Đức Chúa Trời. Có lẽ Đức Chúa Trời đang thử thách đức tin của tôi. Tôi không thể oán trách Đức Chúa Trời. Chỉ cần tôi kiên trì thực hiện bổn phận của mình, bệnh của cháu tôi ắt được chữa khỏi. Sau đó, tôi ăn uống lời Đức Chúa Trời Chúa bình thường và tiếp tục thực hiện bổn phận. Khi tiếp đãi các anh chị em, tôi làm mọi thứ có thể. Các anh chị em muốn giúp tôi, nhưng tôi không để họ giúp, nghĩ rằng chỉ cần tôi thực hiện bổn phận của mình hết sức có thể, Đức Chúa Trời sẽ ban ơn cho tôi và bệnh tình của cháu tôi sẽ thuyên giảm.
Khoảng nửa tháng sau, con trai tôi gọi báo cháu bị nhiễm trùng máu, sốt cao liên tục, và các khối u đã hình thành ở màng ngoài tim, gây nguy hiểm đến tính mạng. Nghe tin này, tôi có thể cảm thấy tim mình như thắt lại. Tôi không thể chấp nhận điều đó, nên tôi đã cầu xin Đức Chúa Trời: “Cháu gái con bị bệnh, nhưng con vẫn tiếp tục thực hiện bổn phận của mình. Lẽ ra cháu gái con phải đỡ bệnh nhưng giờ bệnh của con bé không những không cải thiện, mà còn trở nên xấu đi. Chẳng lẽ thực sự không thể chữa khỏi bệnh cho con bé được sao?”. Một ngày nọ, chồng tôi đến vừa khóc vừa nói: “Cháu gái chúng ta sắp chết rồi. Bệnh viện nói nó bị bệnh nan y và bác sĩ nói không thể làm gì được. Họ bảo chúng ta đưa nó về nhà”. Lời chồng tôi như sét đánh ngang tai. Tôi không thể tin đó là sự thật và tôi không thể chấp nhận điều đó. Tâm trí tôi tràn ngập những hình ảnh cuộc sống của mình bên cháu gái. Khi nghĩ đến vẻ đáng yêu vô cùng của con bé, tôi không thể kìm được nước mắt. Tôi liên tục kêu cầu Đức Chúa Trời trông chừng lòng tôi và dẫn dắt tôi vâng phục. Nhưng khi tôi thấy ảnh con bé trên điện thoại, toàn bộ khuôn mặt con bé sưng lên, và tôi mất hết ý chí để tiếp tục. Tôi không muốn đọc lời Đức Chúa Trời và tôi thấy không có động lực thực hiện bổn phận. Điều duy nhất tôi quan tâm là bệnh tình của cháu gái. Sau đó, con rể tôi mang bệnh án của cháu đến một bệnh viện lớn ở Thượng Hải để xin tư vấn, nhưng các chuyên gia cũng nói họ không thể làm gì và khuyên chúng tôi đừng tốn tiền vô ích. Điều này khiến tôi buồn bực vô cùng: “Mình đã tin vào Đức Chúa Trời biết bao nhiêu năm, mình chưa bao giờ ngừng thực hiện bổn phận và luôn cố gắng hết sức làm bất kỳ công việc nào hội thánh sắp xếp cho mình. Ngay cả khi cháu gái bị bệnh, mình cũng không từ bỏ bổn phận, vẫn tiếp tục tiếp đãi các anh chị em. Sau khi trả giá như vậy, tại sao cháu gái mình vẫn mắc căn bệnh quái ác này cơ chứ?”. Càng nghĩ tôi càng cảm thấy đau khổ, không thể kìm được nước mắt. Trong nỗi đau, tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, cháu gái con sắp chết. Con đau khổ và yếu đuối quá. Con không biết phải làm gì và vẫn còn than oán về Ngài. Xin Ngài dẫn dắt con hiểu được ý muốn của Ngài”.
Trong đau khổ, tôi nhớ đến một đoạn lời Đức Chúa Trời: “4. Nếu sau khi ngươi đã chi tiêu cho Ta, Ta không thỏa mãn những nhu cầu nhỏ nhặt của ngươi, thì ngươi sẽ chán nản và thất vọng về Ta, hay thậm chí còn trở nên giận dữ và buông lời xúc phạm không? 5. Nếu ngươi đã luôn rất trung thành và vô cùng yêu mến Ta, nhưng ngươi chịu đựng sự đau đớn của bệnh tật, nghèo đói, và sự ruồng bỏ của bạn bè và người thân hoặc là chịu đựng bất kỳ những điều bất hạnh nào khác trong cuộc sống, thì lòng trung thành và tình yêu của ngươi dành cho Ta vẫn tiếp tục không?” (Một vấn đề rất nghiêm trọng: Sự phản bội (2), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Đối mặt với những câu hỏi của Đức Chúa Trời, tôi cảm thấy xấu hổ vô cùng. Căn bệnh của cháu gái tôi là một bài thử thực tế dành cho tôi để xem liệu tôi có trung tín và vâng phục Đức Chúa Trời không. Trước đây, tôi luôn nghĩ rằng tôi đã nỗ lực và thực hiện bổn phận vì Đức Chúa Trời, và như vậy có nghĩa là tôi trung tín với Đức Chúa Trời. Nhưng khi cháu gái bị nhiễm trùng máu và bệnh tình của con bé xấu đi, tôi trở nên tiêu cực và phàn nàn, không còn muốn đọc lời Đức Chúa Trời và bắt đầu mất động lực thực hiện bổn phận. Tôi thấy mình không có thực tế vâng phục và trung tín với Đức Chúa Trời chút nào. Tôi đã đến trước Đức Chúa Trời và cầu nguyện với Ngài, xin Ngài dẫn dắt cho tôi học được bài học và thực sự vâng phục trong vấn đề bệnh tật của cháu gái mình. Tôi nhớ đến lời Đức Chúa Trời: “Điều ngươi tìm kiếm là có thể có được bình an sau khi tin vào Đức Chúa Trời, để con cái ngươi không bị ốm đau, để chồng ngươi có công việc tốt, để con trai ngươi có người vợ hiền, để con gái ngươi có tấm chồng tử tế, để trâu ngựa có thể cày bừa tốt, để mùa màng có một năm mưa thuận gió hòa. Đây là những gì ngươi kiếm tìm. Sự tìm kiếm của ngươi chỉ là để có cuộc sống thoải mái, để tai ương không đổ xuống gia đình ngươi, để phong ba bỏ qua ngươi, để cát bụi không chạm mặt ngươi, để mùa màng không bị ngập úng, để thảm họa không ảnh hưởng tới ngươi, để sống trong sự bao bọc của Đức Chúa Trời, để sống trong tổ ấm đủ đầy. Một kẻ hèn nhát như ngươi, luôn kiếm tìm xác thịt – ngươi có tấm lòng không, ngươi có linh hồn không? Ngươi không phải là súc vật ư? Ta cho ngươi con đường thật mà chẳng đòi hỏi nhận lại điều gì, vậy mà ngươi không theo đuổi. Ngươi có phải là một trong những người tin vào Đức Chúa Trời không? … ngươi không theo đuổi bất kỳ mục tiêu nào; chẳng phải cuộc sống của ngươi hèn mọn nhất trong muôn loài? Các ngươi có mặt mũi nào mà nhìn Đức Chúa Trời? Nếu các ngươi tiếp tục sống như vậy, chẳng phải các ngươi sẽ không thu nhận được điều gì sao? Ngươi đã được trao con đường thật nhưng cuối cùng ngươi có thể đạt được điều đó hay không còn tùy vào sự theo đuổi của riêng ngươi” (Các kinh nghiệm của Phi-e-rơ: Hiểu biết của ông về hình phạt và sự phán xét, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời đã phơi bày tình trạng của tôi. Ngay từ khi bắt đầu tin Đức Chúa Trời, tôi đã nghĩ rằng chỉ cần tôi nỗ lực vì Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận của mình, thì Đức Chúa Trời sẽ phù hộ cho gia đình tôi được an khang thịnh vượng và mọi người sẽ tránh được bệnh tật, tai ương. Vì vậy, từ khi tin Đức Chúa Trời, tôi luôn hăng hái thực hiện bổn phận. Đức Chúa Trời rất nhân từ với tôi. Tự lúc nào không hay, một số chứng bệnh của tôi đã được chữa lành, và sự theo đuổi của tôi lại càng trở nên mạnh mẽ hơn. Ngay cả khi bị Đảng Cộng sản bắt, tôi vẫn tiếp tục thực hiện bổn phận sau khi được thả. Nhưng khi cháu gái mắc phải căn bệnh đáng sợ này, trong lòng tôi than oán Đức Chúa Trời không bảo vệ cháu tôi. Mặc dù làm bổn phận của mình, nhưng tôi chỉ muốn Đức Chúa Trời bảo vệ con bé bằng cách chữa lành bệnh cho nó. Tôi muốn đổi chác sự nỗ lực và hy sinh bên ngoài của mình để lấy phước lành của Đức Chúa Trời. Khi bệnh tình của cháu không cải thiện, nguy hiểm đến tính mạng và bệnh viện trả về, tôi đã hoàn toàn suy sụp. Tôi hiểu lầm và than oán về Đức Chúa Trời, cho rằng Đức Chúa Trời không công chính, và trở nên tiêu cực, chống đối Đức Chúa Trời. Tôi thấy rằng mình chỉ tin vào Đức Chúa Trời để có được ân điển và phước lành, rằng mình đã theo đuổi sự thoải mái trong cuộc sống và sự an toàn thể xác thay vì lẽ thật, và rằng sự hy sinh và nỗ lực của tôi không phải là sự vâng phục chân thành đối với Đức Chúa Trời, mà thay vào đó đầy những ham muốn và đòi hỏi ngông cuồng đối với Đức Chúa Trời. Đây là lừa dối Đức Chúa Trời và cố thực hiện đổi chác với Đức Chúa Trời. Sau đó, tôi đọc một đoạn lời Đức Chúa Trời: “Đức Chúa Trời sẽ làm những gì Ngài phải làm, và tâm tính của Ngài là công chính. Công chính không có nghĩa là công bằng hoặc hợp lý; đó không phải là chủ nghĩa quân bình, hay vấn đề phân bổ cho ngươi những gì ngươi xứng đáng tương ứng với lượng công việc ngươi đã hoàn thành, hoặc trả cho ngươi vì bất cứ công việc nào ngươi đã làm, hoặc ghi nhận về những nỗ lực ngươi bỏ ra. Đây không phải là sự công chính, nó chỉ đơn thuần là công bằng và hợp lý. Rất ít người có khả năng biết được tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Giả sử Đức Chúa Trời đã hủy diệt Gióp sau khi Gióp làm chứng cho Ngài: Việc đó có công chính không? Thực ra là có. Tại sao gọi đây là sự công chính? Con người nhìn nhận sự công chính như thế nào? Nếu điều gì đó phù hợp với quan niệm của mọi người, thì rất dễ dàng để họ nói rằng Đức Chúa Trời là công chính; tuy nhiên, nếu họ không thấy điều đó phù hợp với quan niệm của họ – nếu đó là điều mà họ không thể hiểu được – thì sẽ khó để họ nói rằng Đức Chúa Trời là công chính. Nếu Đức Chúa Trời hủy diệt Gióp vào lúc ấy, con người sẽ không nói Ngài công chính. Tuy nhiên, thật ra thì dù con người có bị bại hoại hay không, và dù họ có bị bại hoại sâu sắc hay không thì Đức Chúa Trời có phải biện minh cho Ngài khi Ngài hủy diệt họ không? Ngài có phải giải thích cho con người là Ngài làm như vậy dựa trên cơ sở nào không? Đức Chúa Trời có phải nói cho con người biết những quy luật Ngài ấn định không? Không cần. Trong mắt Đức Chúa Trời, ai đó bại hoại và ai đó có thể chống đối Đức Chúa Trời thì đều không có giá trị; dù Đức Chúa Trời có xử lý họ như thế nào thì cũng sẽ là thích hợp, và tất cả đều là những sự an bài của Đức Chúa Trời. Nếu ngươi chướng mắt đối với Đức Chúa Trời, và nếu Ngài nói rằng Ngài không cần tới ngươi sau chứng ngôn của ngươi và do đó hủy diệt ngươi thì điều này cũng là sự công chính của Ngài chứ? Đúng vậy. Có lẽ ngươi không thể nhận ra điều này ngay bây giờ từ thực tế, nhưng ngươi phải hiểu đạo lý. Các ngươi nói xem – việc Đức Chúa Trời hủy diệt Sa-tan có phải là biểu hiện của sự công chính của Ngài không? (Phải.) Sẽ thế nào nếu Ngài cho phép Sa-tan tồn tại? Ngươi không dám nói phải không? Thực chất của Đức Chúa Trời là sự công chính. Mặc dù không dễ dàng hiểu được những gì Ngài làm, nhưng tất thảy những gì Ngài làm là công chính; chỉ đơn giản là mọi người không hiểu. Khi Đức Chúa Trời giao Phi-e-rơ cho Sa-tan, Phi-e-rơ đã đáp lại thế nào? ‘Nhân loại không thể hiểu được những gì Ngài làm, nhưng tất thảy những gì Ngài làm đều chứa đựng ý tốt của Ngài; tất thảy đều có sự công chính trong đó. Làm sao tôi có thể không thốt lên lời khen ngợi sự khôn ngoan và những việc làm của Ngài?’. … Mọi việc Đức Chúa Trời làm đều công chính. Mặc dù có thể con người không thể nhận ra được sự công chính của Đức Chúa Trời, nhưng họ không nên tùy ý phán xét. Nếu điều gì đó mà Ngài làm đối với con người có vẻ là không hợp lý, hoặc nếu họ có bất kỳ quan niệm nào về điều đó, và nó khiến họ cho rằng Ngài không công chính, thì họ đang là kẻ vô lý nhất. Ngươi thấy rằng Phi-e-rơ có một số chuyện không thể hiểu thấu được, nhưng ông chắc chắn rằng trong những chuyện này có sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời và ý tốt của Ngài. Con người không thể hiểu thấu mọi thứ; có quá nhiều thứ mà họ không thể dò thấu được. Vì vậy, để biết tâm tính của Đức Chúa Trời không phải là một điều dễ dàng” (Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Sau khi suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, tôi nhận ra sự công chính của Đức Chúa Trời không như tôi tưởng tượng. Tôi tưởng nó giống như làm một khối lượng công việc nhất định và nhận tiền công tương xứng, hoặc nỗ lực và ngược lại được nhận phần thưởng. Đây là quan niệm và tưởng tượng của riêng tôi. Đức Chúa Trời là lẽ thật, và thực chất của Đức Chúa Trời là công chính. Bất kể Đức Chúa Trời làm gì và có phù hợp với những quan niệm của con người hay không, thì những gì Đức Chúa Trời làm đều công chính. Tôi đã đánh giá sự công chính của Đức Chúa Trời từ góc độ đổi chác và giao dịch. Tôi tin rằng tôi sẽ nhận được phước lành của Đức Chúa Trời nếu nỗ lực và từ bỏ nhiều. Tôi nghĩ nếu tôi làm việc chăm chỉ để thực hiện những bổn phận của mình, Đức Chúa Trời sẽ bảo vệ gia đình tôi và giữ cho cháu tôi tránh khỏi bệnh tật, tai ương. Khi con bé trở bệnh nặng, tôi đã lý luận với Đức Chúa Trời, than oán về Đức Chúa Trời và cho rằng Đức Chúa Trời không công chính. Quan điểm của tôi thật vô lý. Tôi đã mù quáng và không hề biết gì về Đức Chúa Trời. Tôi là một loài thọ tạo, vì vậy việc thực hiện bổn phận và đền đáp tình yêu của Đức Chúa Trời là lẽ tự nhiên và đúng đắn, đó là bổn phận và trách nhiệm của tôi. Lẽ ra tôi không nên cố đổi chác với Đức Chúa Trời. Cũng giống như con cái phải hiếu thảo với cha mẹ, bất kể Đức Chúa Trời đã ban ân điển và phước lành cho tôi hay khiến tôi phải chịu tai ương, thì Đức Chúa Trời vẫn công chính, vì vậy tôi phải quy phục vô điều kiện những sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời. Nếu không, tôi sẽ không xứng đáng được gọi là con người. Những người không tin vào Đức Chúa Trời phải chịu sinh, lão, bệnh, tử, tai ương và bất hạnh; những người tin vào Đức Chúa Trời cũng trải qua những điều tương tự. Đức Chúa Trời chưa bao giờ khẳng định những người tin vào Đức Chúa Trời sẽ luôn được an toàn và bảo đảm. Thay vào đó, bất kể chúng ta gặp phải hoàn cảnh nào, thì Đức Chúa Trời cũng yêu cầu chúng ta phải có đức tin chân chính và sự vâng phục, đồng thời thực hiện bổn phận của một loài thọ tạo. Nhưng tôi lại chỉ tin vào Đức Chúa Trời để tìm kiếm phước lành. Tôi cầu xin Đức Chúa Trời giữ cho gia đình tôi được an toàn và tránh khỏi bệnh tật, tai ương, nhưng tôi lại không tìm kiếm lẽ thật và vâng phục Đức Chúa Trời. Đức tin của tôi chỉ đơn thuần là đức tin tôn giáo tìm kiếm sự no đủ hàng ngày. Đức Chúa Trời hoàn toàn không công nhận đức tin như vậy. Nếu không có những thực tế này phơi bày, tôi sẽ không bao giờ nhận ra quan điểm sai lầm của mình về đức tin nơi Đức Chúa Trời để tìm kiếm phước lành. Tôi sẽ không bao giờ đạt được lẽ thật khi tin theo cách này, mà sẽ chỉ bị Đức Chúa Trời loại bỏ. Đức Chúa Trời đã cho phép tôi gặp phải tình cảnh không phù hợp với các quan niệm của tôi như một phương tiện để làm tinh sạch đức tin của tôi nơi Đức Chúa Trời vì phước lành, để làm thanh sạch sự uế tạp và bại hoại của tôi, để thay đổi và cứu rỗi tôi. Đây là tình yêu của Đức Chúa Trời! Nghĩ đến đây, tôi cảm thấy nhẹ lòng một chút.
Tiếp theo, tôi tiếp tục suy ngẫm xem bản tính nào đã định hình đức tin của tôi nơi Đức Chúa Trời để đổi chác với Đức Chúa Trời. Tôi đọc được những lời này của Đức Chúa Trời: “Hết thảy những kẻ bại hoại đều sống cho chính mình. Người không vì mình, trời tru đất diệt – đây là khái quát về bản tính của con người. Mọi người tin vào Đức Chúa Trời vì những lợi ích của riêng họ; khi họ vứt bỏ mọi sự và dâng mình cho Đức Chúa Trời, đó là để được ban phước lành; và khi họ trung thành với Ngài, đó là để được ban thưởng. Tóm lại, tất cả đều được thực hiện với mục đích được ban phước lành, được ban thưởng và được vào thiên quốc. Trong xã hội, con người làm việc vì lợi ích riêng của mình, còn trong nhà Đức Chúa Trời, họ thực hiện bổn phận để được ban phước lành. Con người từ bỏ mọi thứ và có thể chịu đựng nhiều đau khổ là để được ban phước lành, đây là bằng chứng tốt nhất về việc con người có bản tính Sa-tan” (Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Đức Chúa Trời yêu cầu con người đối xử với Ngài như Đức Chúa Trời, bởi vì nhân loại đã bị làm cho bại hoại nặng nề và người ta không đối xử với Ngài như Đức Chúa Trời mà như một con người. Con người luôn đòi hỏi Đức Chúa Trời, chuyện này có vấn đề gì? Con người luôn có quan niệm về Đức Chúa Trời, chuyện này có vấn đề gì? Trong bản tính của con người có những gì? Ta đã phát hiện ra rằng, bất kể gặp chuyện gì, bất kể xử lý chuyện gì, người ta cũng luôn bảo vệ lợi ích cá nhân và lo lắng cho xác thịt của chính mình, họ luôn tìm những lý do và cái cớ tiện cho mình. Họ không tìm kiếm, cũng không tiếp nhận lẽ thật chút nào, mọi việc họ làm là để bảo vệ cho xác thịt của họ và mưu tính cho tiền đồ của họ. Hết thảy mọi người đều nài xin ân điển từ Đức Chúa Trời, muốn đạt được bất kỳ lợi ích nào có thể có được. Tại sao mọi người có quá nhiều đòi hỏi với Đức Chúa Trời vậy? Điều này chứng tỏ rằng người ta tham lam tự bản tính, và trước Đức Chúa Trời, họ không hề có chút lý trí nào. Trong mọi việc họ làm, dù là cầu nguyện, thông công hay giảng đạo, thì sự mưu cầu, suy nghĩ và nguyện vọng của họ đều là đòi hỏi Đức Chúa Trời và cố nài xin nhiều điều từ Ngài, người ta làm mọi việc này chỉ vì hy vọng đạt được điều gì đó từ Đức Chúa Trời. Có người nói rằng ‘đây là bản tính của con người’, đúng là vậy! Hơn thế nữa, việc người ta đòi hỏi Đức Chúa Trời quá nhiều và có quá nhiều ham muốn ngông cuồng chứng tỏ rằng người ta thật sự thiếu lương tâm và lý trí. Ai cũng đòi hỏi và nài xin nhiều điều cho bản thân mình, hoặc cố cãi lý và viện cớ cho bản thân mình, họ làm tất cả mọi việc này vì bản thân mình. Trong nhiều chuyện, có thể thấy rằng việc người ta làm hoàn toàn không có chút lý trí nào, và đây là bằng chứng hoàn hảo cho thấy lô-gic của Sa-tan ‘Người không vì mình, trời tru đất diệt’ đã trở thành bản tính của con người’” (Mọi người đòi hỏi Đức Chúa Trời quá nhiều, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Tôi suy ngẫm lời Đức Chúa Trời và nhận ra rằng tôi tin vào Đức Chúa Trời để tìm kiếm phước lành và lợi ích bởi vì tôi bị chi phối bởi những độc tố sa-tan như “Người không vì mình, trời tru đất diệt” và “Không có lợi, dậy sớm làm gì”. Sống theo những độc tố sa-tan này khiến tôi đặc biệt ích kỷ và giả dối. Tôi chỉ tìm kiếm lợi ích và cố gắng đổi chác với Đức Chúa Trời trong việc thực hiện bổn phận của mình. Mặc dù tôi đã nỗ lực rất nhiều và trả giá trong những năm tin Đức Chúa Trời, nhưng tôi đã làm tất cả chuyện này vì phước lành và lợi ích của chính mình. Tôi muốn đổi một cái giá nhỏ mình đã trả lấy những phước lành to lớn của Đức Chúa Trời. Tôi không vâng phục Đức Chúa Trời và không trung tín với Ngài. Kết quả là khi cháu gái tôi trở bệnh nặng và tham vọng được phước của tôi tiêu tan, tôi cảm thấy đau khổ và than oán về Đức Chúa Trời, cảm thấy không có động lực thực hiện bổn phận. Tôi đã sử dụng một chút nỗ lực của mìnhvà cái giá tôi đã trả làm vốn liếng để tranh cãi và chống đối Đức Chúa Trời. Tôi thấy rằng trong việc thực hiện bổn phận của mình, tôi đang lừa dối Đức Chúa Trời, xin xỏ Đức Chúa Trời và cố gắng đổi chác với Đức Chúa Trời. Tôi đã bị Sa-tan làm cho bại hoại quá sâu, và tôi quá ích kỷ và giả dối. Tôi nghĩ đến Phao-lô, người đã rao giảng, làm việc, từ bỏ, nỗ lực, chịu khổ rất nhiều và thậm chí đã chết như một người tử vì đạo. Nhưng ông không mưu cầu lẽ thật hoặc thực hành những lời của Đức Chúa Jêsus. Tất cả những sự từ bỏ và nỗ lực của ông đều được thực hiện để giành được phần thưởng và mão triều thiên. Ông nói rằng ông đã đánh trận và xong sự chạy, và có một mão triều thiên công chính dành riêng cho ông. Ý ông là Đức Chúa Trời chỉ công chính khi Đức Chúa Trời ban phần thưởng và mão triều thiên cho ông, và nếu Đức Chúa Trời không ban thưởng hay trao mão triều thiên cho ông, thì Đức Chúa Trời không công chính. Từ đó, chúng ta có thể thấy rằng tất cả những sự chịu khổ và nỗ lực của Phao-lô trong đức tin của ông nơi Đức Chúa Trời đều được thực hiện để đổi chác với Đức Chúa Trời. Cuối cùng, ông đã xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời và bị Đức Chúa Trời trừng phạt. Tôi cũng vậy. Tôi chỉ tin vào Đức Chúa Trời để theo đuổi ân điển, phước lành, và tôi xem việc từ bỏ, nỗ lực của tôi như một phương thức và vốn liếng để có được phước lành. Nếu tôi không thay đổi quan điểm sai lầm của mình về việc theo đuổi, thì bất kể tôi có nỗ lực bao nhiêu, tôi cũng sẽ không bao giờ được Đức Chúa Trời tán thưởng, và cũng giống như Phao-lô, tôi sẽ bị Đức Chúa Trời phơi bày và loại bỏ. Sau đó, tôi đọc một đoạn khác trong lời Đức Chúa Trời: “Là một loài thọ tạo của Đức Chúa Trời, con người phải cố gắng làm tốt bổn phận của một loài thọ tạo của Đức Chúa Trời, và tìm kiếm tình yêu dành cho Đức Chúa Trời mà không có lựa chọn khác, vì Đức Chúa Trời xứng đáng với tình yêu của con người. Những ai tìm kiếm tình yêu dành cho Đức Chúa Trời không nên tìm kiếm bất kỳ lợi ích cá nhân nào hoặc những điều cá nhân họ ao ước; đây là cách theo đuổi đúng đắn nhất. Nếu những gì ngươi tìm kiếm là lẽ thật, nếu những gì ngươi đưa vào thực hành là lẽ thật, và nếu những gì ngươi đạt được là một sự thay đổi trong tâm tính của mình, thì con đường ngươi bước đi là con đường đúng” (Thành công hay thất bại phụ thuộc vào con đường mà con người đi, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Sau khi đọc lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu ra rằng là một loài thọ tạo được hưởng thực phẩm dồi dào và nguồn cung cấp sự sống Đức Chúa Trời Chúa ban cho, tôi phải theo đuổi lẽ thật, làm tròn bổn phận của mình, và theo đuổi sự vâng phục cùng tình yêu dành cho Đức Chúa Trời. Đây là lương tâm và lý trí mà một loài thọ tạo phải có. Tôi nghĩ về việc Đức Chúa Trời đã nhập thể hai lần để cứu rỗi nhân loại, Ngài phải chịu sự chế giễu, báng bổ và chối bỏ từ thế gian ra sao, cũng như sự bức hại và lên án từ Đảng Cộng sản cùng thế giới tôn giáo, nhưng bất chấp điều này, Ngài vẫn âm thầm bày tỏ lẽ thật để chăm tưới và cung cấp cho chúng ta. Ngài cũng đã thiết lập nhiều hoàn cảnh để phơi bày sự bại hoại của chúng ta, để làm tinh sạch và thay đổi chúng ta. Mặc dù vẫn còn nhiều sự bất tuân và bại hoại trong tôi, và tôi có thể hiểu lầm cũng như than oán về Đức Chúa Trời khi mọi thứ không theo ý mình, nhưng Đức Chúa Trời không bao giờ từ bỏ việc cứu rỗi tôi, và dùng lời Ngài để phán xét, vạch trần, nhắc nhở, khuyên nhủ, an ủi và động viên tôi khi Ngài chờ đợi tôi chấn chỉnh đường lối của mình. Tình yêu của Đức Chúa Trời vị tha biết bao và Ngài đáng mến biết bao! Nhưng tôi chỉ tin vào Đức Chúa Trời để có được phước lành và lợi ích, và tôi không theo đuổi tình yêu cũng như sự vâng phục đối với Đức Chúa Trời. Tôi thực sự không có lương tâm hay lý trí. Khi nhận ra điều này, tôi cảm thấy tự trách mình và và hối hận sâu sắc, đồng thời cảm thấy rất mắc nợ Đức Chúa Trời.
Vài ngày sau, bệnh viện lại thông báo rằng bệnh tình cháu tôi nguy kịch và họ cho cháu xuất viện để dọn giường cho các bệnh nhân khác. Khi nghe tin này, tôi cảm thấy rất buồn nên tôi đã cầu nguyện Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, Ngài đã ban hơi thở cho cháu gái con. Bất cứ việc gì Ngài làm và sắp đặt đều phù hợp và công chính. Ngay cả khi con bé có chết, con cũng sẽ không than oán. Con vẫn sẽ tin vào Ngài và đi theo Ngài”. Sau đó, con trai tôi đưa cháu đến một bệnh viện khác ở trung tâm tỉnh để điều trị. Bác sĩ đọc bệnh án và cho biết bệnh của cháu không thể chữa khỏi được, nên trả về mà không cho cháu tôi nhập viện. Lúc này tôi nghĩ: “Nếu Đức Chúa Trời đã định đoạt cháu mình sẽ chết, thì không ai cứu được nó. Nếu Đức Chúa Trời không muốn con bé chết, thì chỉ cần nó còn một hơi thở, không gì có thể kết liễu được đời nó. Mọi sự đều nằm trong tay Đức Chúa Trời. Mình sẽ quy phục quyền tối thượng và sự an bài của Đức Chúa Trời”. Khi nghĩ về điều đó theo cách này, tôi không còn cảm thấy không tồi tệ như trước nữa. Vài ngày sau, khi đến bệnh viện, tôi thấy cháu gái đau đớn quằn quại. Mặt nó hốc hác đến nỗi không nhận ra được. Điều đó làm lòng tôi tan nát, và tôi không thể kìm được nước mắt. Ý nghĩ cháu tôi sẽ chết vẫn khiến tôi rất buồn, và tôi không muốn đối mặt với điều này. Tôi thầm cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, con không thể tự mình vượt qua được tình cảnh này. Xin Ngài dõi theo lòng con và dẫn dắt con vâng phục Ngài”. Lúc này, tôi nghĩ đến trải nghiệm dâng Y-sác của Áp-ra-ham. Đức Chúa Trời đã yêu cầu Áp-ra-ham dâng con trai mình làm của lễ thiêu, và lúc đó Áp-ra-ham cũng rất đau khổ, nhưng ông vẫn đặt Y-sác lên bàn thờ theo yêu cầu của Đức Chúa Trời. Khi ông giơ dao lên để giết con mình, Đức Chúa Trời đã nhìn thấy sự chân thành và vâng phục của Áp-ra-ham nên đã ngăn ông lại. Áp-ra-ham có đức tin và sự vâng phục thực sự đối với Đức Chúa Trời, và ông đã đứng vững trong lời chứng cho Đức Chúa Trời khi đối mặt với sự thử luyện, nhờ đó ông đã nhận được sự tán thưởng và ban phước của Đức Chúa Trời. Trải nghiệm của Áp-ra-ham đã khích lệ tôi. Tự ngẫm lại mình, khi tôi thấy cháu gái mình trước ngưỡng cửa tử thần, tôi đã nói sẽ vâng phục quyền tối thượng và sự an bài của Đức Chúa Trời, nhưng tôi vẫn không thể buông bỏ. Khi thấy cháu đau đớn, tôi vẫn không muốn đối mặt với điều đó. Tôi vẫn hy vọng điều kỳ diệu sẽ xảy ra, Đức Chúa Trời sẽ chữa lành cho cháu và để cháu được sống vui vẻ. Trong thâm tâm, tôi đã nhiều lần đưa ra những đòi hỏi với Đức Chúa Trời, và tôi không hề có lý trí hay vâng phục gì cả. Tôi nhớ đến lời Đức Chúa Trời: “Ai trong toàn thể nhân loại không được quan tâm trong mắt của Đấng Toàn Năng chứ? Ai không sống giữa sự tiền định của Đấng Toàn Năng chứ? Có phải sự sống và chết của con người xảy đến bởi sự chọn lựa của bản thân họ không? Con người có kiểm soát được vận mệnh của chính mình không? Nhiều người kêu xin đòi chết, nhưng cái chết ở xa họ; nhiều người muốn được là những người mạnh mẽ trong cuộc sống và sợ chết, nhưng họ không biết rằng ngày chết của họ đã gần kề, nhấn chìm họ xuống vực sâu của sự chết…” (Những lời của Đức Chúa Trời với toàn vũ trụ – Chương 11, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Đúng vậy, mọi sự sống chết của con người và thời điểm chết đều nằm trong tay Đức Chúa Trời. Khi nào con người sinh ra và chết đi đều do Đức Chúa Trời tiền định. Con người không có quyền lựa chọn trong vấn đề này. Việc bệnh tình của cháu gái tôi có thể chữa khỏi được không và cháu sống được bao lâu hoàn toàn nằm trong tay Đức Chúa Trời. Không con người nào tác động được gì đến điều này. Nghĩ đến đây, tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Cho dù bệnh của cháu gái tôi có thể chữa khỏi được hay không, tôi cũng sẵn sàng quy phục quyền tối thượng và sự an bài của Đức Chúa Trời.
Một hôm, một người chị em nói với tôi về một phương pháp dân gian. Tôi đã thực hiện cho cháu gái theo phương pháp chị mô tả. Tôi không biết liệu nó có chữa khỏi cho con bé không, nhưng tôi nghĩ rất đáng để thử. Không ngờ bệnh tình của cháu tôi ngày một thuyên giảm, cơn sốt giảm dần và chẳng bao lâu cháu đã qua cơn nguy kịch. Không lâu sau, chúng tôi lại tìm được một phương pháp khác, và sau khi áp dụng một thời gian, chân cháu tôi không còn đau nữa! Tôi rất biết ơn Đức Chúa Trời. Vài tháng sau, cháu gái tôi có thể đi lại vài bước khi vịn vào thứ gì đó, và bệnh tình của cháu dần dần cải thiện. Một năm sau, con bé đã có thể sinh hoạt và đi lại bình thường, tổn thương ở tim đã được chữa lành. Sau đó, khi các chuyên gia từ bệnh viện ở trung tâm tỉnh biết cháu tôi không chết mà đã thực sự hồi phục, họ không thể tin đó là sự thật. Chúng tôi đã tốn rất nhiều tiền cho bệnh viện ở trung tâm tỉnh để trị bệnh cho cháu, nhưng họ không thể chữa khỏi. Vài bệnh viện lớn đã “kết án tử hình” cháu tôi, nhưng khi tôi buông bỏ ham muốn phước lành của mình, sẵn sàng vâng phục quyền tối thượng và sự an bài của Đức Chúa Trời, trao cháu gái tôi cho Đức Chúa Trời, thì bệnh của cháu bỗng được chữa khỏi bằng một vài phương pháp điều trị dân gian không tốn kém chút nào. Tôi thực sự đã nhìn thấy sự toàn năng và quyền tối thượng của Đức Chúa Trời. Giờ đây, cháu gái tôi không có vấn đề gì ngoài việc đi hơi khập khiễng và nhịp tim hơi nhanh. Những người quen với bệnh tình của cháu nói thật là một phép màu khi cháu hồi phục rất tốt!
Lời Đức Chúa Trời có phán: “Trong niềm tin của họ vào Đức Chúa Trời, điều con người tìm kiếm là đạt được những phúc lành cho tương lai; đây là mục tiêu trong đức tin của họ. Hết thảy mọi người đều có ý định và hy vọng này, nhưng sự bại hoại trong bản tính của họ phải được giải quyết thông qua những thử luyện và tinh luyện. Trong bất kỳ phương diện nào mà các ngươi chưa được làm cho tinh sạch và bộc lộ sự bại hoại, thì đây là những phương diện mà các ngươi phải được tinh luyện – đây là sự sắp xếp của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời tạo ra một hoàn cảnh cho ngươi, buộc ngươi được tinh luyện ở đó hầu cho ngươi có thể biết sự bại hoại của chính mình. Sau hết, ngươi đạt tới mức mà ngươi thà chết để từ bỏ những ý đồ và khao khát của mình, thuận phục sự tể trị và sự sắp xếp của Đức Chúa Trời. Vì lẽ ấy, nếu con người không có vài năm tinh luyện, nếu họ không chịu đựng một mức độ đau khổ nhất định, họ sẽ không thể giải thoát bản thân khỏi sự kìm kẹp từ sự bại hoại của xác thịt trong tư tưởng và tâm linh của họ. Trong bất kỳ phương diện nào mà người ta vẫn bị bản tính Sa-tan của mình kìm kẹp, và trong bất kỳ phương diện nào mà họ vẫn còn những dục vọng và đòi hỏi của riêng họ, thì đây là những phương diện mà họ phải chịu khổ. Chỉ thông qua sự đau khổ thì mới có thể học được bài học, nghĩa là có thể có được lẽ thật, và hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời. Trên thực tế, nhiều lẽ thật được hiểu bằng cách trải nghiệm những thử luyện đau đớn. Không ai có thể hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời, nhận ra sự toàn năng và khôn ngoan của Đức Chúa Trời, hay nhận thức rõ tâm tính công chính của Đức Chúa Trời khi ở trong một môi trường thoải mái hoặc khi hoàn cảnh thuận lợi. Điều đó là không thể!” (Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Thông qua trải nghiệm này, tôi hiểu được một chút về ham muốn phước lành và những sự uế tạp, bại hoại trong đức tin của mình nơi Đức Chúa Trời. Quan điểm của tôi về đức tin nơi Đức Chúa Trời đã thay đổi, và tôi đã có được sự hiểu biết thực tế về quyền tối thượng toàn năng và tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Tôi thực sự cảm thấy trải qua những gian khổ này là điều tốt, và đây chính là sự làm tinh sạch và cứu rỗi của Đức Chúa Trời dành cho tôi.