85. Nên đối đãi như thế nào với những lời thật mất lòng

Tháng 11 năm 2017, tôi được bầu làm lãnh đạo hội thánh. Khi mới bắt đầu hội họp hoặc thảo luận với các anh chị em, tôi có thể chia sẻ góc nhìn của mình, mối thông công cũng có chút sự sáng. Các anh chị em đánh giá cao về tôi và rất khách khí khi nói chuyện với tôi, nên tôi cảm thấy mình được xem trọng, trong lòng lâng lâng vui sướng. Sau một khoảng thời gian, tôi nhận thấy cộng sự của mình là chị Wendy nói chuyện với tôi khá thẳng thắn. Đôi lúc, khi nhìn thấy tôi có vấn đề thì chị ấy sẽ trực tiếp chỉ ra. Ví dụ, khi tôi không quan tâm về các sự vụ chung của hội thánh, chị ấy sẽ nhắc nhở tôi chú ý hơn đến phương diện này. Nhưng hành động của chị ấy khiến tôi thấy hơi mất mặt, và để tránh gây ấn tượng xấu cho người khác, tôi hứa rằng sau này mình sẽ chú trọng phương diện này hơn. Nhưng tôi còn khá yếu kém ở lĩnh vực này, có một số vấn đề tôi nghĩ không ra, hoặc nếu nghĩ ra thì cũng không biết phải tiến hành thế nào. Sau đó, chị Wendy lại nhắc nhở tôi thêm vài lần, tôi hứa sẽ tập trung vào phương diện đó hơn, nhưng lại nghĩ bụng: “Mọi người ai cũng khen mình biết mang gánh nặng khi thực hiện bổn phận, vậy mà Wendy lại cứ nhắc nhở mình thế này, các anh chị em sẽ nghĩ sao về mình đây?”. Tôi có cảm giác Wendy cứ theo dõi sát sao vấn đề của tôi, cảm thấy chị ấy xem thường tôi, nên chỉ muốn tránh mặt chị ấy. Có những lúc chúng tôi thảo luận công việc cùng nhau, khi tôi nêu ra một ý tưởng, nếu cảm thấy không phù hợp thì Wendy sẽ trực tiếp chỉ ra. Đôi khi chị ấy nói với giọng khó chịu, khiến tôi rơi vào thế khó, cảm thấy chị ấy quá hung hăng, ăn nói không giữ mặt mũi cho người khác. Tôi nghĩ chị ấy có nhân tính không tốt và khó hòa đồng. Có những lần Wendy đang nghe điện thoại, tôi cố nói chuyện hoặc gọi chị ấy đi ăn, nhưng chị ấy lại không trả lời ngay, nên tôi càng chắc chắn chị ấy có nhân tính xấu và quá lạnh lùng, càng không muốn tương tác với chị ấy nữa. Tôi cộng tác dễ dàng hơn nhiều với hai người chị em còn lại. Khi trao đổi về tình trạng của nhau hay về vấn đề công việc, tôi có thể cảm nhận được họ đánh giá tôi khá cao, nói chuyện với tôi một cách tôn trọng. Khi gặp vấn đề thì họ thường đến xin tôi lời khuyên, lại hiếm khi chỉ ra vấn đề của tôi. Tôi cảm thấy thật thoải mái khi trò chuyện hay bàn bạc công tác với họ. Càng tiếp xúc với họ, tôi càng cảm thấy khó hòa hợp với Wendy, nên tôi cố tránh chị ấy càng xa càng tốt. Thực ra tôi có cảm giác Wendy cũng sẵn sàng hợp tác với tôi và thường tìm tôi để bàn bạc mọi việc, nhưng tôi chỉ trả lời qua loa cho có, không thực sự muốn gần gũi chị ấy vì nghĩ chị ấy có nhân tính xấu. Đôi khi tâm trí tôi còn nảy sinh những suy nghĩ ác độc: “Nếu nhóm mình không có Wendy thì tốt quá, vậy thì sẽ không còn ai soi mói khuyết điểm của mình nữa”. Tôi nhớ có một lần, trong cuộc bầu chọn lãnh đạo hàng năm của hội thánh, tôi theo dõi sát sao xem liệu Wendy có được chọn hay không. Tôi nghĩ bụng: “Chị ấy có nhân tính xấu, không nên được bầu chọn”. Không ngờ mọi người đều nhận xét chị ấy biết mang gánh nặng trong bổn phận và rất có trách nhiệm. Không ai nói gì về chuyện nhân tính của chị ấy rõ ràng có vấn đề. Ngay cả lãnh đạo cấp trên cũng nói Wendy là người phù hợp. Tôi cảm thấy rất bối rối: “Vậy là không ai trong số họ phân định được Wendy sao? Chị ấy rất kiêu ngạo, thích vạch trần khuyết điểm của người khác, rõ ràng là có nhân tính xấu”. Tôi rất sợ phải cộng tác với chị ấy lần nữa. Nhưng kết quả là hai chúng tôi đều được bầu làm lãnh đạo hội thánh. Khi nghĩ đến việc phải cộng tác với Wendy trong thời gian tới, trong lòng tôi cảm thấy nặng trĩu. Sau đó, về vấn đề công việc, tôi rất hiếm khi thảo luận với Wendy. Đa phần là Wendy tìm tôi trước và tôi sẽ trì hoãn việc gặp mặt càng lâu càng tốt. Chỉ khi nào không thể trì hoãn được nữa thì tôi mới họp với chị ấy, những tôi vẫn không sẵn lòng nói ra những gì mình nghĩ.

Một lần nọ, có hai người anh em phản ánh về vấn đề của Wendy. Họ nói Wendy hiếm khi thông công về lối vào sự sống và chỉ tập trung vào công tác. Tôi mới nhận ra từ khi bắt đầu cộng tác với Wendy, chị ấy hiếm khi nói về lối vào sự sống, cũng không tích cực thông công trong các buổi hội họp. Chưa chịu tìm hiểu tình hình thực tế của Wendy và cũng chưa thông công với chị ấy, tôi đã vội nêu vấn đề này với hai chấp sự. Bề ngoài thì tôi chỉ đang thảo luận về vấn đề của Wendy, nhưng thực sự ý tôi muốn nói là: “Wendy là một lãnh đạo hội thánh, nếu chỉ tập trung vào công tác mà không chú trọng thông công lẽ thật để giải quyết vấn đề thì chị ấy không phù hợp với vị trí này”. Lúc đó, tôi nói vậy chỉ vì ý đồ riêng của mình. Nghe tôi nói xong, hai chấp sự cũng cảm thấy Wendy không chú trọng lối vào sự sống, không phù hợp với vai trò lãnh đạo hội thánh. Tôi còn nói với họ: “Wendy khá là hống hách, nói chuyện không thèm quan tâm đến cảm xúc của người khác, hạn chế người khác”. Vừa nghe tôi nói vậy, một người chị em cũng phụ họa thêm rằng gần đây chị ấy cũng bị Wendy nêu ra thiếu sót, khiến chị cảm thấy có chút khó chịu. Tôi nghe xong càng chắc chắn nhân tính của Wendy có vấn đề. Tôi bèn nói: “Wendy có nhân tính xấu, lại rất lạnh lùng”. Tôi còn đưa ra vài ví dụ để chứng minh. Mặc dù cảm thấy hơi tội lỗi khi nói ra những điều đó, nhưng khi nghĩ đến việc Wendy đã hạn chế tôi, tôi lại càng khẳng định Wendy có vấn đề. Sau khi nghe tôi nói, hai chấp sự đó cũng tán thành rằng Wendy có nhân tính xấu. Họ cũng giống như tôi, thường hay chỉ trích sau lưng Wendy. Thỉnh thoảng khi tham gia các buổi hội họp qua mạng, trong lúc Wendy thông công, chúng tôi gửi tin nhắn riêng cho nhau, nói rằng lối vào sự sống của Wendy nghèo nàn và thông công cũng không được tốt. Một lần nọ, một chấp sự và một người chị em khác đến gặp để nói về tình trạng của tôi. Khi họ hỏi về việc cộng tác giữa tôi và Wendy, tôi liền nói: “Chị ấy hơi hống hách, giọng điệu cũng khá khó chịu, có lúc còn phớt lờ tôi khi tôi đang nói chuyện với chị ấy. Chị ấy có vẻ rất lạnh lùng, khiến tôi cảm thấy bị kìm kẹp”. Lúc đó, hai người chị em này chưa phân định được tôi, chỉ nói rằng họ sẽ tìm hiểu với các lãnh đạo cấp trên. Dù gì Wendy cũng là lãnh đạo hội thánh, nếu chị ấy thực sự có vấn đề thì sẽ ảnh hưởng đến công tác của hội thánh. Nghe họ nói xong, tôi nghĩ: “Nếu lãnh đạo cấp trên cách chức Wendy, thì mình sẽ không còn phải làm việc với chị ấy nữa”. Ngày hôm sau, chúng tôi có cuộc gặp với lãnh đạo cấp trên. Tôi đã nêu ra rất nhiều vấn đề của Wendy. Ví dụ, chị ấy có lối vào sự sống nghèo nàn và nhân tính xấu ra sao, tôi cảm thấy bị chị ấy hạn chế như thế nào. Hai chị em còn lại cũng nêu thêm ý kiến của bản thân. Lãnh đạo cấp trên có chút ngạc nhiên sau khi nghe những điều này, nói rằng chị ấy cũng biết chút ít về Wendy, nhưng không nhận ra Wendy lại là người như vậy. Chị ấy hứa sẽ tìm hiểu kỹ càng hơn về tình trạng mà chúng tôi phản ánh.

Chỉ vài ngày sau, lãnh đạo cấp trên thông báo với tôi, dựa trên cách tôi đối xử với Wendy, kéo bè kết phái để âm thầm hạ bệ và phán xét người khác, không đóng vai trò tích cực, rõ ràng tôi có nhân tính xấu, không đáng được bồi dưỡng, dựa trên nguyên tắc thì tôi phải bị cách chức. Tôi bị sốc nặng, không ngờ mọi chuyện lại thành ra như thế này. “Kéo bè kết phái”, “âm thầm hạ bệ”, “phán xét người khác”, “nhân tính xấu”, “không đáng được bồi dưỡng”, những lời kết tội đó như lưỡi dao đâm thẳng vào trái tim tôi. Tôi không tin nổi và càng không sẵn sàng tiếp nhận những lời phê bình đó. Tôi không thể hiểu được, từ khi tôi còn nhỏ, mọi người xung quanh đều nghĩ tốt về tôi, sao giờ đây tôi lại bị phê bình là có nhân tính xấu chứ? Tôi có nghe nhầm không? Quá trình bị vạch trần và mổ xẻ đó không khác gì một cơn ác mộng, tôi cảm thấy vô cùng đau đớn.

Sau khi bị cách chức, tôi không muốn đối mặt với những gì đã xảy ra. Tôi không thể chấp nhận việc nhân tính của mình bị của người khác chỉ trích, cảm thấy bản thân không phải loại người đó. Tôi đã không hề phản tỉnh về bản thân. Khi đề cập đến việc bị cách chức, tôi vẫn phớt lờ tính chất nghiêm trọng của chuyện này, nói rằng từ khi còn nhỏ, tôi luôn được khen là có nhân tính tốt, lương thiện và biết lý lẽ. Ý tôi là toàn bộ chuyện này chỉ là tai nạn chứ không phải bản chất thực sự của tôi. Sau đó, nhiều lần lãnh đạo cân nhắc giao cho tôi bổn phận quan trọng, nhưng cuối cùng lại quyết định hủy bỏ vì tôi có nhân tính xấu. Nhìn thấy kết quả này, tôi cảm thấy vô cùng đau đớn. Tôi đã khóc và cầu xin Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, con thực sự hết cách cứu rồi sao? Nhân tính của con có thực sự tệ đến thế không? Xin Ngài dẫn dắt để con biết mình, con xin sẵn sàng phản tỉnh”. Sau khi cầu nguyện, tôi đọc một đoạn lời của Đức Chúa Trời: “Trong cuộc sống thường nhật, trong những chuyện nào, các ngươi có lòng kính sợ Đức Chúa Trời? Và trong những chuyện nào, ngươi không như vậy? Ngươi có thể ghét ai đó khi họ xúc phạm ngươi hoặc động chạm đến lợi ích của ngươi không? Và khi ngươi ghét ai đó, ngươi có thể trừng phạt họ và trả thù không? (Thưa, có.) Vậy thì ngươi khá đáng sợ! Nếu ngươi không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, có thể làm việc ác, vậy thì tâm tính hung ác của ngươi quá nghiêm trọng rồi! Yêu và ghét là những điều mà nhân tính bình thường nên có, nhưng ngươi phải phân biệt rõ ràng giữa những gì ngươi yêu và những gì ngươi ghét. Trong lòng ngươi, ngươi nên yêu Đức Chúa Trời, yêu lẽ thật, yêu những điều tích cực và yêu các anh chị em mình, nhưng trái lại, ngươi nên ghét quỷ Sa-tan, ghét những điều tiêu cực, ghét những kẻ địch lại Đấng Christ và ghét những kẻ ác. Nếu ngươi có thể đàn áp và báo thù anh chị em của mình vì sự căm ghét thì rất đáng sợ, và đây là tâm tính của một kẻ ác. Một số người chỉ có những suy nghĩ và ý tưởng căm ghét – những ác niệm, nhưng họ sẽ không bao giờ làm bất cứ việc ác nào. Họ không phải là kẻ ác, vì khi gặp chuyện, họ có thể tìm kiếm lẽ thật và để tâm đến các nguyên tắc về cách hành xử và xử lý mọi chuyện. Khi tương tác với người khác, họ không ép người khác; nếu họ hòa hợp với ai thì sẽ tiếp tục tương tác với họ; nếu họ không hòa hợp với ai thì sẽ thôi tương tác. Nó không hề ảnh hưởng đến việc thực hiện bổn phận hay lối vào sự sống của họ. Đức Chúa Trời ở trong lòng họ và họ kính sợ Ngài. Họ không sẵn lòng xúc phạm đến Đức Chúa Trời và họ sợ làm như thế. Mặc dù những người này có thể ấp ủ những tư tưởng và ý niệm không đúng nhưng họ có thể phản bội hoặc buông bỏ chúng. Họ kiềm chế trong các hành động của mình, không thốt ra một lời nào vượt quá giới hạn hay xúc phạm Đức Chúa Trời. Người nói và hành động theo cách này là người có các nguyên tắc và là người thực hành lẽ thật. Ngươi có thể không tương hợp tính cách với ai đó, và ngươi có thể không thích họ, nhưng khi ngươi làm việc cùng với họ, ngươi vẫn giải quyết việc công và không trút những cơn bực bội của mình vào bổn phận hoặc vào lợi ích của nhà Đức Chúa Trời; ngươi có thể xử lý công chuyện theo nguyên tắc. Đây là biểu hiện của điều gì? Đây là biểu hiện của việc có lòng kính sợ cơ bản đối với Đức Chúa Trời. Nếu ngươi có nhiều hơn như thế một chút, khi ngươi thấy rằng người khác có khiếm khuyết hay điểm yếu, thì ngay cả khi họ đã xúc phạm ngươi hay có thành kiến với ngươi, ngươi vẫn đối xử với họ một cách đúng đắn và yêu thương giúp đỡ họ. Điều này có nghĩa là có tình yêu trong ngươi, rằng ngươi là một người sở hữu nhân tính, rằng ngươi là một người tốt bụng và có thể thực hành lẽ thật, rằng ngươi là một người trung thực sở hữu những thực tế lẽ thật, và rằng ngươi là một người có lòng kính sợ đối với Đức Chúa Trời. Nếu ngươi tuy vẫn có vóc giạc nhỏ bé nhưng có ý chí, và sẵn lòng phấn đấu cho lẽ thật, nỗ lực làm việc theo nguyên tắc, và ngươi có thể xử sự và đối đãi với người khác một cách có nguyên tắc, thì điều này cũng được coi là có chút kính sợ đối với Đức Chúa Trời; đây là điều cơ bản nhất. Nếu ngươi thậm chí không thể đạt được điều này, và không thể kiềm chế bản thân, thì ngươi đang gặp nguy hiểm lớn và ngươi khá đáng sợ. Nếu ngươi được giao cho một chức vụ cao, thì ngươi có thể trừng phạt mọi người và gây khó khăn cho họ; sau đó ngươi sẽ có thể trở thành một kẻ địch lại Đấng Christ bất cứ lúc nào(Năm điều kiện cần đáp ứng để tiến vào đúng hướng của đức tin nơi Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Qua lời Đức Chúa Trời, tôi nhận ra rằng những người có lòng kính sợ Đức Chúa Trời sẽ không nói năng và hành động tùy tiện. Dù người khác có đe dọa đến lợi ích của họ, nhưng vì sợ xúc phạm Đức Chúa Trời nên họ sẽ không đả kích hay bài xích người khác. Đức Chúa Trời không có chỗ đứng trong lòng của những kẻ không kính sợ Ngài, thế nên họ muốn làm gì thì làm, muốn nói gì thì nói. Hễ có ai động đến lợi ích riêng của họ thì họ sẽ ra tay trừng trị và trả thù. Đức Chúa Trời phán đây là tâm tính của kẻ ác. Khi nhìn thấy cụm từ “tâm tính của kẻ ác”, tôi liền cảm thấy có chút lo lắng, cảnh tượng về những lần tương tác với Wendy bỗng dưng tràn ngập tâm trí tôi. Chị ấy nói chuyện khá là bộc trực, thường cho tôi lời khuyên và chỉ ra những thiếu sót của tôi trong bổn phận, khiến tôi cảm thấy bị mất mặt, nên tôi cho rằng Wendy có nhân tính kém và khó hòa đồng. Đôi lúc khi tôi nói chuyện với Wendy, chị ấy không trả lời ngay, khiến tôi càng tin rằng chị ấy có nhân tính kém và càng bài xích chị ấy hơn. Khi nghe người khác nói rằng chị ấy không chú trọng lối vào sự sống, tôi đã không xem xét bối cảnh và biểu hiện nhất quán của chị ấy, mà lại chộp lấy cơ hội đó để kể lể với các cộng sự rằng Wendy chỉ chú trọng công tác chứ không xem trọng lối vào sự sống, do đó không phù hợp làm lãnh đạo. Tôi muốn lôi kéo họ về phe mình để cô lập Wendy. Giờ đây nghĩ lại, Wendy đã chịu nhiều áp lực khi giám sát công tác phúc âm của hội thánh. Có nhiều công việc cần được theo dõi, đôi khi gặp khó khăn và không đạt kết quả tốt nên chị ấy hơi kích động. Chỉ nói về công tác mà không chú trọng thông công các nguyên tắc lẽ thật, đây là sai lệch trong bổn phận, nhưng không có nghĩa là chị ấy không phù hợp với bổn phận này. Vậy mà tôi lại phán xét Wendy với ý định khiến chị ấy bị cách chức, để tôi không cần cộng tác với chị ấy trong tương lai nữa. Chẳng phải tôi đang trừng trị người khác sao? Hơn nữa, ai cũng có lúc tâm trạng không được tốt, đâu ai có thể tươi cười và nói chuyện vui vẻ mọi lúc mọi nơi chứ? Wendy lại thường xuyên bận bịu công việc, nên chị ấy không có thời gian quan tâm đến tôi là chuyện bình thường, đây là điều dễ hiểu. Vậy mà khi thấy Wendy phớt lờ mình, tôi liền chuyện bé xé ra to, còn kết luận chị ấy có nhân tính xấu và quá lạnh lùng. Làm vậy là không phù hợp với thực tế. Tôi đã mù quáng chụp mũ và lên án Wendy, lại còn lan truyền tư tưởng này cho các chị em khác, khiến họ ngày càng có thành kiến với Wendy. Họ hùa theo tôi để phán xét sau lưng chị ấy, tâm trí không còn tập trung vào bổn phận. Tâm tính của tôi hẳn phải rất độc ác mới làm ra được những chuyện như vậy. Khi hành động và lời nói của Wendy đe dọa đến lợi ích, thể diện của tôi, tôi liền định tội, đả kích và trả thù chị ấy. Xem ra trong lòng tôi không hề có chút kính sợ nào đối với Đức Chúa Trời. Tôi là một lãnh đạo hội thánh, không những không hợp tác tốt với các anh chị em và thực hiện bổn phận theo nguyên tắc, mà còn khơi mào việc ác, làm gián đoạn công tác hội thánh, thực sự không xứng đáng gánh vác một bổn phận quan trọng như vậy. Tôi từng nghĩ rằng bản thân có nhân tính tốt, lương thiện và hiểu lý lẽ, nhưng đó là khi người khác không đe dọa đến lợi ích của tôi. Ngay khi lợi ích của tôi bị tổn hại, bản tính ác độc của tôi liền lộ rõ, sẵn sàng phán xét, đả kích và trả thù người khác. Chỉ khi nhận ra điều này, tôi mới thấy mình có nhân tính xấu. Nhờ sự công chính của Đức Chúa Trời mà hôm nay tôi bị cách chức, tôi xứng đáng bị như vậy. Sau đó, tôi đã mở lòng với các anh chị em, mổ xẻ những mục đích đằng sau hành động của mình, chia sẻ sự phản tỉnh và nhận thức về bản thân. Các anh chị em đều động viên tôi và nói: “Chị có thể nhận thức về bản thân thông qua việc bị cách chức, đây là một chuyện tốt!”. Nhờ trải nghiệm lần này, tôi đã đạt được chút nhận thức về bản thân, trong lòng cảm thấy bớt chán nản hơn, đồng thời có thể phần nào tiếp nhận việc bị phơi bày. Tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, con thực sự đã làm điều ác. Từ nay con sẽ nguyện lòng ăn năn”. Trong những ngày sau đó, mỗi lần bộc lộ tâm tính bại hoại khi tương tác với mọi người, tôi sẽ cầu nguyện với Đức Chúa Trời và phản tỉnh, tập trung vào việc phối hợp hài hòa với các anh chị em. Tôi cũng bắt đầu tìm kiếm sốt sắng hơn trong bổn phận, mỗi ngày đều cảm thấy trọn vẹn và đủ đầy. Chỉ sau vài ngày, lãnh đạo cấp trên đến gặp tôi, nói rằng trước đây tôi quá kiêu ngạo, không tiếp nhận lời khuyên của người khác và không đối đãi với mọi người theo nguyên tắc, nhưng sau khi bị cách chức, tôi đã học được cách phản tỉnh và nhận thức bản thân, nên mọi người đều đồng ý để tôi trở lại thực hiện bổn phận lãnh đạo. Tôi vô cùng kinh ngạc khi nghe lãnh đạo cấp trên nói vậy, không ngờ mình lại có được cơ hội khác để phụng sự với tư cách lãnh đạo. Không tài nào diễn tả được sự xúc động của mình, tôi thầm tạ ơn Đức Chúa Trời. Đồng thời, tôi cũng hối hận về những việc mình đã làm trong quá khứ. Tôi thầm cầu nguyện với Đức Chúa Trời, quyết tâm ăn năn và không lặp lại những sai lầm trong quá khứ, phối hợp tốt với các anh chị em và hết lòng thực hiện bổn phận của mình. Sau đó, tôi lại phản tỉnh về bản thân: “Tại sao trước đây mình không thể buông bỏ thành kiến đối với Wendy, lại còn phán xét sau lưng và hạ bệ chị ấy?”. Trong một lần tĩnh nguyện, tôi đọc lời này của Đức Chúa Trời: “Trước tiên, đối với chuyện bị tỉa sửa, những kẻ địch lại Đấng Christ không thể tiếp nhận. Và có những lý do khiến họ không thể tiếp nhận, lý do chủ yếu là khi bị tỉa sửa thì họ cảm thấy mất mặt, mất danh dự và địa vị, cảm thấy họ không thể ngẩng cao đầu giữa mọi người. Những điều này gây ra một tác dụng trong lòng họ, khiến họ không sẵn lòng tiếp nhận bị tỉa sửa, và họ cảm thấy rằng bất cứ ai tỉa sửa họ đều là kiếm chuyện với họ và là kẻ thù của họ. Đây là tâm thái của những kẻ địch lại Đấng Christ khi bị tỉa sửa. Chắc chắn là vậy. Thực ra, sự tỉa sửa tỏ lộ rõ ràng nhất việc người ta có thể tiếp nhận lẽ thật và thực sự thuận phục hay không. Việc những kẻ địch lại Đấng Christ quá chống đối việc tỉa sửa đủ để cho thấy rằng họ chán ghét lẽ thật và không tiếp nhận lẽ thật chút nào. Đây là mấu chốt của vấn đề. Thể diện của họ không phải là mấu chốt của vấn đề; không tiếp nhận lẽ thật mới là thực chất của vấn đề. Khi bị tỉa sửa, những kẻ địch lại Đấng Christ đòi hỏi phải được tỉa sửa bằng giọng điệu và thái độ tử tế. Nếu người tỉa sửa dùng giọng điệu nghiêm túc và thái độ nghiêm khắc, thì kẻ địch lại Đấng Christ sẽ chống đối, phản kháng và trở nên tức giận vì xấu hổ. Họ không quan tâm liệu những gì bị vạch trần nơi họ có đúng hay không, có phải là sự thật không, họ cũng không phản tỉnh về việc mình đã sai ở đâu hay liệu họ có nên tiếp nhận lẽ thật hay không. Họ chỉ nghĩ đến chuyện hư vinh và thể diện của họ có bị tổn hại hay không. Những kẻ địch lại Đấng Christ căn bản không thể nhận ra rằng việc tỉa sửa là hữu ích cho con người, là yêu thương và cứu rỗi, cũng như có ích cho con người. Họ thậm chí không thể nhìn thấy điều này. Chẳng phải như vậy là họ hơi không biết phân biệt phải trái và không biết lý lẽ sao? Vậy, khi đối mặt với việc bị tỉa sửa, một kẻ địch lại Đấng Christ bộc lộ tâm tính gì? Không còn nghi ngờ gì nữa, tâm tính đó là tâm tính chán ghét lẽ thật, cũng như tâm tính kiêu ngạo và cương ngạnh. Điều này làm bại lộ rằng bản tính và thực chất của những kẻ địch lại Đấng Christ là chán ghét lẽ thật và thù hận lẽ thật(Lời, Quyển 4 – Vạch trần kẻ địch lại Đấng Christ. Mục 9 (Phần 8)). Đức Chúa Trời vạch trần rằng những kẻ địch lại Đấng Christ quá quan tâm đến việc bảo vệ thể diện và địa vị. Khi đối mặt với sự tỉa sửa và xử lý, họ không hề phản tỉnh và nhận thức bản thân, thay vào đó lại phản kháng, phủ nhận và nghĩ rằng người ta đang làm khó họ, thậm chí còn đả kích và trả thù người ta. Những hành vi này bộc lộ tâm tính chán ghét và căm thù lẽ thật. Đối chiếu sự mặc khải trong lời Đức Chúa Trời với hoàn cảnh của mình, tôi nhận ra hành động phán xét, hạ bệ, đả kích và trả thù Wendy, tất cả đều bộc lộ tâm tính địch lại Đấng Christ của tôi. Khi tôi cộng tác với Wendy, chị ấy thường cho lời khuyên và chỉ ra những thiếu sót của tôi, nhưng chị ấy đâu có xử lý tôi. Tôi không phản tỉnh xem những điều Wendy nói là đúng hay sai, liệu mình có làm sai gì không, hoặc mình nên rút ra bài học gì. Thay vào đó, tôi có cái nhìn thù ghét với Wendy, nghĩ rằng chị ấy nhắm vào tôi và coi thường tôi, thậm chí còn kết luận rằng chị ấy có nhân tính xấu. Tôi hoàn toàn không nhận thức được vấn đề của mình. Nghĩ lại thì, lúc đó tôi là lãnh đạo hội thánh và cũng phân chia thời gian để giám sát các sự vụ chung, nhưng vì cảm thấy mình không thông thạo sự vụ chung, nên tôi chẳng buồn quản lý hay hỏi han về công tác đó, càng không tìm kiếm sự giúp đỡ từ những anh chị em thông thạo phương diện này. Tôi đã không làm được công tác thực tế – Wendy đã đúng khi chỉ ra vấn đề này! Ngoài ra, khi Wendy đề cập đến những sai lệch trong công tác của tôi và cho tôi một vài đề xuất, chị ấy đang giúp tôi tiến bộ. Vậy mà tôi chỉ xem trọng thể diện và địa vị của mình, tưởng rằng chị ấy đang nghi ngờ khả năng làm việc của tôi. Tôi thậm chí xem sự nhắc nhở và giúp đỡ của chị ấy là tư thù, trả đũa bằng cách lôi kéo những người khác về phía mình, kích động họ phán xét và cô lập Wendy. Những điều này đã gây tổn hại cho Wendy, còn tạo ra bầu không khí đầy thị phi, khiến mọi người không thể tập trung hoàn thành bổn phận, làm gián đoạn công tác của hội thánh. Chẳng phải tôi làm vậy là đang đóng vai Sa-tan sao? Tôi thật đáng bị nguyền rủa và trừng phạt! Tôi nghĩ đến những kẻ hành ác và những kẻ địch lại Đấng Christ đã bị hội thánh thanh trừ; đặc tính điển hình của họ là chán ghét và căm thù lẽ thật, không tiếp nhận hoàn cảnh từ Đức Chúa Trời, bị ám ảnh bởi những người đe dọa lợi ích của họ, nghĩ rằng những người đó cố tình làm khó họ, soi mói và chỉ trích họ. Các anh chị đã nhiều lần nhắc nhở, trợ giúp, tỉa sửa và xử lý, nhưng họ vẫn không hề phản tỉnh bản thân. Hễ ai chỉ ra cái sai của họ thì họ liền căm ghét, đả kích và bài xích người đó, quấy nhiễu những người xung quanh và làm gián đoạn công tác của hội thánh, cuối cùng gây nhiều tội ác đến mức bị thanh trừ. Đây đều là hậu quả của việc không tiếp nhận lẽ thật và chán ghét lẽ thật, đều do họ tự chuốc lấy! Với những đặc tính này, chẳng phải tôi chính là một kẻ hành ác và địch lại Đấng Christ sao? Tôi nhận ra rằng mình quá sức bại hoại và có nhân tính xấu. Tôi rất sợ hãi, cảm thấy mình đã rơi vào tình thế vô cùng nguy hiểm, nếu không ăn năn thì Đức Chúa Trời sẽ ghê tởm và đào thải tôi. Tôi phải tranh thủ cơ hội này để ăn năn và cố hết sức mưu cầu lẽ thật, tiếp cận mọi hoàn cảnh với lòng kính sợ Đức Chúa Trời, tìm kiếm lẽ thật, phản tỉnh và nhận thức bản thân, cẩn thận trong cách nói chuyện, và đối xử với mọi người bằng ý định tốt. Tôi đến trước Đức Chúa Trời để cầu nguyện, hứa rằng tôi sẽ không hành động như trước đây nữa, sẵn sàng tiếp nhận sự dò xét của Đức Chúa Trời và thực sự ăn năn.

Sau đó, tôi lại đọc được lời Đức Chúa Trời, từ đó hiểu được cách đánh giá nhân tính của một người, cũng như cách đối xử với những ai nói chuyện thẳng thắn và cho tôi lời khuyên. Đức Chúa Trời phán: “Ngươi phải gần gũi những người có thể nói thật với ngươi; có những người này bên cạnh thì vô cùng ích lợi cho ngươi. Nhất là những người mà khi phát hiện vấn đề ở ngươi thì dám trách cứ ngươi, vạch trần ngươi, có những người tốt như vậy xung quanh thì ngươi có thể tránh khỏi lạc lối. Họ không quan tâm địa vị của ngươi là gì, hễ phát hiện thấy ngươi làm chuyện gì đi ngược lại nguyên tắc lẽ thật, là họ liền trách cứ và vạch trần ngươi nếu cần. Chỉ những người như vậy mới là người chính trực, người có tinh thần chính nghĩa, và dù họ có vạch trần, chỉ trích ngươi thế nào đi nữa, cũng đều giúp ích cho ngươi, cũng đều là giám sát, đốc thúc ngươi. Ngươi phải gần gũi những người như thế; có những người như thế ở bên cạnh trợ giúp thì ngươi sẽ tương đối an toàn hơn nhiều – đây chính là có sự bảo vệ của Đức Chúa Trời. Có những người hiểu lẽ thật và giữ vững nguyên tắc ở bên cạnh giám sát ngươi mỗi ngày là vô cùng ích lợi cho ngươi thực hiện tốt bổn phận và công tác của mình. … Khi ngươi làm chuyện gì đi ngược lại nguyên tắc, họ có thể vạch trần ngươi, nêu ý kiến về vấn đề của ngươi, và chỉ ra những vấn đề, thiếu sót của ngươi một cách thẳng thắn, trung thực; họ sẽ không cố giúp ngươi giữ thể diện, thậm chí còn không cho ngươi cơ hội tránh mất mặt trước nhiều người. Ngươi nên đối đãi với những người như vậy thế nào? Trừng trị họ hay gần gũi họ? (Thưa, gần gũi họ.) Đúng vậy. Ngươi nên mở lòng và thông công với họ rằng: ‘Vấn đề mà anh đã chỉ ra cho tôi là đúng. Lúc đó, lòng tôi còn ham hư vinh và địa vị. Tôi cảm thấy mình đã làm lãnh đạo nhiều năm như vậy, mà không những anh không giữ thể diện cho tôi, lại còn chỉ ra những vấn đề của tôi trước mặt rất nhiều người, nên tôi không tiếp nhận được. Nhưng giờ đây, tôi thấy những việc mình làm quả thực là không phù hợp với nguyên tắc và lẽ thật, tôi không nên làm vậy. Vị trí lãnh đạo thì có gì chứ? Chẳng phải đó chỉ là bổn phận thôi sao? Chúng ta đều đang thực hiện bổn phận, đều bình đẳng về địa vị. Chỉ khác ở chỗ tôi gánh nhiều trách nhiệm hơn một chút, vậy thôi. Nếu sau này anh phát hiện ra bất kỳ vấn đề nào, thì cái gì nên nói, anh cứ việc nói, không có chuyện ân oán cá nhân nào giữa chúng ta đâu. Nếu có khác biệt trong cách lĩnh hội lẽ thật, thì chúng ta có thể thông công cùng nhau. Trong nhà Đức Chúa Trời, cũng như trước Đức Chúa Trời và lẽ thật, chúng ta sẽ đoàn kết, không chia rẽ’. Đây là thái độ thực hành và yêu lẽ thật. Nếu muốn tránh xa con đường của kẻ địch lại Đấng Christ, ngươi nên làm gì? Ngươi nên chủ động gần gũi với những người yêu lẽ thật, những người chính trực, ngươi nên gần gũi những người mà khi phát hiện ra vấn đề của ngươi, có thể chỉ ra vấn đề, có thể nói thật và chỉ trích ngươi, nhất là những người mà khi phát hiện ra vấn đề của ngươi thì có thể tỉa sửa ngươi – đó là những người ích lợi cho ngươi nhất, và ngươi nên trân quý họ. Nếu bài xích và từ bỏ những người tốt như thế, ngươi sẽ đánh mất sự bảo vệ của Đức Chúa Trời, và tai họa sẽ dần đến với ngươi. Khi gần gũi những người tốt và những người hiểu lẽ thật, ngươi sẽ có được sự bình an và niềm vui, cũng như tránh xa tai họa. Khi gần gũi những kẻ tiểu nhân, những kẻ vô liêm sỉ và những kẻ xu nịnh thì ngươi sẽ lâm nguy. Không những ngươi dễ bị lừa bịp, lừa gạt, mà tai họa còn có thể ập đến với ngươi bất cứ lúc nào. Ngươi phải biết loại người nào có thể ích lợi cho ngươi nhất – đó chính là những người có thể nhắc nhở ngươi khi ngươi làm sai, hoặc khi ngươi đề cao, làm chứng cho chính mình và mê hoặc người khác, đó là những người có ích lợi cho ngươi nhất. Gần gũi những người như thế là con đường đúng đắn để đi(Mục 4. Họ tán dương và chứng thực về chính mình, Lời, Quyển 4 – Vạch trần kẻ địch lại Đấng Christ). Từ lời Đức Chúa Trời tôi nhận ra rằng, người có lòng chính nghĩa thì sẽ đề cao nguyên tắc lẽ thật, có thể chỉ ra khi nhìn thấy những vấn đề và thiếu sót của anh chị em, có thể xử lý, tỉa sửa, vạch trần và mổ xẻ người khác khi họ hành động trái với các nguyên tắc, người như vậy có nhân tính tốt và tôi nên ở gần họ. Còn nếu một người bề ngoài thì có vẻ yêu thương và hòa đồng với mọi người, nói chuyện không xúc phạm ai và được anh chị em yêu mến, nhưng khi thấy điều gì đó không hợp với nguyên tắc hoặc gây tổn hại đến lợi ích của hội thánh, họ chỉ lo giữ gìn các mối quan hệ mà không đứng ra vạch trần và ngăn chặn cái sai, thì họ là những kẻ ích kỷ, giả dối và không bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Nghĩ lại thì tôi đã luôn đánh giá nhân tính của người khác dựa trên việc họ có hòa nhã hay không, và liệu họ có giữ gìn thể diện cho người khác khi nói chuyện hay không, nhưng kiểu đánh giá này không phù hợp với lẽ thật. Tôi nhận ra rằng việc Wendy thường xuyên chỉ ra những vấn đề và thiếu sót của tôi là biểu hiện của lòng chính nghĩa. Đúng là Wendy nói chuyện quá thẳng thắn, nhưng chị ấy chỉ nói sự thật và có thể chỉ ra vấn đề của tôi, giúp tôi hoàn thành bổn phận và cải thiện lối vào sự sống của mình. Tôi nên ở gần Wendy và lắng nghe đề xuất của chị ấy nhiều hơn. Sau đó, tôi đã đến xin lỗi Wendy. Tôi biết những tổn thương mà mình gây ra cho chị ấy là không thể đảo ngược, nhưng nếu có thêm một cơ hội được hợp tác với chị, tôi nhất định sẽ trân trọng.

Sau đó, tôi được phân công cộng tác với anh Leonard. Leonard tố chất tốt và có trách nhiệm trong bổn phận. Nếu thấy tôi đi chệch hướng trong bổn phận, anh ấy sẽ chỉ ra cho tôi ngay trước mặt những người khác. Ban đầu, mặc dù cảm thấy hơi bẽ mặt, tôi đã có thể xem lời phê bình của anh ấy như bài học từ Đức Chúa Trời. Nhưng sau nhiều lần như vậy, tôi bắt đầu cảm thấy khó tiếp nhận. Đôi khi Leonard phê bình với giọng điệu hơi ghét bỏ, nêu ra những sai sót trong công tác của tôi. Tôi cảm thấy vô cùng xấu hổ, như thể bị nhìn thấu, nên không còn muốn cộng tác với anh ấy nữa. Tôi nghĩ anh ấy quá kiêu ngạo và nói chuyện với giọng điệu không thể chấp nhận được. Có vài lần khi đang thảo luận với các anh chị em về phương diện cộng tác, tôi rất muốn nói xấu anh ấy trước mặt họ, nhưng khi vừa định mở miệng, tôi nhận ra rằng làm vậy là sai. Trong lời phê bình của Leonard, chắc chắn có những điểm mà tôi có thể bước vào. Tôi bèn cầu nguyện với Đức Chúa Trời, nguyện sửa chữa lại ý định của mình và tìm cách phối hợp với Leonard sao cho phù hợp với ý Đức Chúa Trời, không được dùng ý đồ xấu để phán xét anh ấy nữa. Sau đó, tôi đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời, lời Ngài đã giúp ích rất nhiều cho tôi. “Khi ngươi phát hiện ra mình đang làm điều gì đó sai trái hay đang có sự bộc phát tâm tính bại hoại, nếu ngươi có thể cởi mở và trao đổi với mọi người, điều này sẽ giúp những người xung quanh để mắt đến ngươi. Chấp nhận sự giám sát chắc chắn là cần thiết, nhưng điều chính yếu là cầu nguyện với Đức Chúa Trời và trông cậy vào Ngài, và phản tỉnh bản thân liên tục. Đặc biệt là khi ngươi đã đi sai đường hoặc làm điều gì đó sai trái, hoặc khi ngươi sắp quyết định chuyện gì đó một cách độc đoán, và ai đó ở gần đã đề cập đến nó và cảnh báo ngươi, thì ngươi cần phải tiếp nhận và nhanh chóng phản tỉnh về bản thân, thừa nhận sai lầm của mình và sửa chữa. Điều này có thể ngăn ngươi đặt chân vào con đường của những kẻ địch lại Đấng Christ. Nếu có ai đó giúp đỡ và cảnh báo ngươi theo cách này, thì chẳng phải ngươi đang được gìn giữ mà không biết sao? Đúng là thế, đấy là sự giữ gìn cho ngươi(Muốn làm tròn bổn phận đòi hỏi phải có sự hợp tác hài hòa, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời Đức Chúa Trời nhắc nhở tôi rằng khi bên cạnh chúng ta là một người có lòng chính nghĩa, dám nói ra sự thật và kịp thời chỉ ra những thiếu sót của chúng ta, thì đây chính là một dạng bảo vệ, ngăn chúng ta lạc lối, và cũng là tình yêu của Đức Chúa Trời. Điều chúng ta nên làm là tiếp nhận hoàn cảnh này! Nghĩ lại thì, trong khoảng thời gian đó, tôi đã hài lòng với việc thực hiện những công tác chỉ có mã ngoài, không trả giá để thực hiện công tác mang tính thực chất khi chăm tưới người mới. Bằng cách thường xuyên nhắc nhở, Leonard đã giúp tôi thực hiện bổn phận một cách thực tế hơn. Tôi cũng đã thu được rất nhiều từ những con đường thực hành mà Leonard đề xuất. Tôi nhận ra rằng sự giúp đỡ và lời khuyên của các anh chị em là vô cùng quý giá. Vì tôi không sở hữu lẽ thật, có tâm tính bại hoại nghiêm trọng và có thể làm sai bất cứ lúc nào, việc các anh chị em giám sát, trông chừng tôi sẽ thúc đẩy tôi tiến bộ và ngăn cản tôi phạm phải những điều ác. Nhận ra điều này, tôi sẵn sàng giải quyết những sai lệch trong bổn phận của mình và học cách đối đãi đúng đắn hơn với lời khuyên của Leonard. Tôi gửi anh ấy một tin nhắn nói rằng: “Từ nay về sau, nếu thấy tôi có bất cứ vấn đề gì, xin anh hãy chỉ ra cho tôi biết. Mặc dù cảm thấy hơi mất mặt, nhưng điều đó sẽ có ích cho tôi”. Bây giờ khi nhìn lại, bao nhiêu năm qua, Đức Chúa Trời đã sắp xếp những người như thế bên cạnh tôi, nhưng phần lớn thời gian tôi lại luôn muốn tránh mặt họ vì nghĩ rằng họ khó hòa đồng. Thực tế, tôi mới là kẻ không biết nhìn người, không biết cách đánh giá hay đối đãi với mọi người, vì vậy đã vô tình đánh mất nhiều cơ hội học hỏi từ các cộng sự. Khi Đức Chúa Trời một lần nữa sắp đặt tình huống này cho tôi, cuối cùng tôi đã hiểu được ý muốn của Ngài, có thể đối đãi với người khác theo nguyên tắc, trong lòng cảm thấy nhẹ nhõm hơn nhiều! Tôi tạ ơn Đức Chúa Trời từ tận đáy lòng!

Trước: 82. Kiên cường trong hoàn cảnh khó khăn

Tiếp theo: 91. Mưu cầu lẽ thật bất kể tuổi tác

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

29. Sự ăn năn của một sĩ quan

Bởi Chân Tâm, Trung QuốcĐức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Từ lúc sáng thế cho đến nay, tất cả những gì Đức Chúa Trời đã làm trong công tác của...

Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời Về việc biết Đức Chúa Trời Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ The Responsibilities of Leaders and Workers Về việc mưu cầu lẽ thật I Về việc mưu cầu lẽ thật Sự phán xét khởi từ nhà Đức Chúa Trời Những lời trọng yếu từ Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Các thực tế lẽ thật mà người tin Đức Chúa Trời phải bước vào Theo Chiên Con và hát những bài ca mới Những chỉ dẫn cho việc truyền bá Phúc Âm của vương quốc Chiên của Đức Chúa Trời nghe tiếng của Đức Chúa Trời Lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời thấy được sự xuất hiện của Đức Chúa Trời Những câu hỏi và câu trả lời thiết yếu về Phúc Âm của Vương quốc Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 1) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 2) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 3) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 4) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 5) Tôi đã quay về với Đức Chúa Trời Toàn Năng như thế nào

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger