Sau khi tôi bị tố giác

28/02/2022

Bởi Tâm Duệ, Hàn Quốc

Một ngày nọ vào năm 2016, tôi bất ngờ nhận được một lá thư tố giác mình. Lá thư được viết bởi hai chị mà trước đó đã bị tôi tước bổn phận. Họ tố giác rằng tôi hành xử độc đoán chuyên quyền khi trong bổn phận của mình ở hội thánh của họ, lại còn tuyển chọn hai lãnh đạo giả, và một trong hai lãnh đạo giả đó, cô Trương, là một kẻ hành ác, sự bại hoại của cô ta gần như đã làm tê liệt công tác của toàn bộ hội thánh. Họ còn nói nếu lúc đó tôi chịu nghe lời khuyên của họ hoặc hỏi han thêm các anh chị em cho hiểu rõ sự tình, tôi đã không chọn hai lãnh đạo giả đó, cũng không gây tổn hại đến thế cho công tác của hội thánh. Lúc đó tôi rất sửng sốt. Tôi nghĩ, “Sao lại thế này được? Chắc có nhầm lẫn gì đó”. Trong lòng tôi lúc đó rất sợ, nhưng vẫn không thể chấp nhận sự thật này. Tôi đã nghĩ xấu về hai chị em viết lá thư đó, và cho rằng họ làm thế để cố tình trả thù tôi. Ban đầu họ là người giữ bổn phận lãnh đạo hội thánh, nhưng họ có tố chất kém và không thực hiện công tác thực tế. Họ bao che và bảo vệ các lãnh đạo giả, lên án những ai tố giác họ, nên cuối cùng tôi đã tước bổn phận của họ. Tôi nhớ lại việc mình đã tham khảo ý kiến của họ khi chọn cô Trương. Họ toàn nói rằng cô Trương có nhân tính xấu và không thể hợp tác với người khác. Họ chưa bao giờ nói chính xác cô ta là một kẻ hành ác. Nhưng giờ khi cô Trương bị vạch trần, họ lại đi tố giác tôi. Giờ mới rõ chứ lúc đó đâu nghĩ ra. Tôi cho là họ bất mãn về việc bị tước bổn phận và muốn trả đũa tôi. Hơn nữa, lúc đó Đảng Cộng Sản Trung Quốc đang truy lùng gắt gao nên chúng tôi không thể tổ chức bầu chọn, lại không có các ứng viên phù hợp. Cô Trương phần nào có tố chất tốt hơn và có khả năng phân định hơn người khác, nên trong hoàn cảnh đó, tôi còn biết chọn ai chứ? Phải có người làm lãnh đạo chứ. Tôi cũng đã hỏi thăm một vài người về cô Trương, và không ai nói cô ta là một kẻ hành ác. Ai cũng phạm sai lầm trong bổn phận. Ai mà phân định được thực chất của một người khi mới gặp lần đầu chứ? Chọn nhầm lãnh đạo không phù hợp là chuyện bình thường. Ai đảm bảo được lúc nào cũng chọn đúng người chứ? Thế nên, tôi thấy có vẻ hai chị này quá xoi mói, cố tình gây chuyện. Lúc đó, tôi vẫn cố gắng biện hộ cho mình. Tôi kịch liệt phản đối lá thư tố giác. Nhưng lá thư tố giác đã chỉ rõ rằng hai người này quả thực đã bị vạch trần là lãnh đạo giả, và cô Trương là một kẻ hành ác, và với vị trí lãnh đạo, họ đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho công tác của hội thánh và lối vào sự sống của những người được Đức Chúa Trời chọn. Trước sự thực thế này, tôi không còn biện hộ được nữa. Tôi miễn cưỡng thừa nhận rằng mình đã không thể nhìn thấu họ, rằng tôi kiêu ngạo, và dùng người một cách mù quáng. Nhưng tôi không thành tâm phản tỉnh hay cố gắng hiểu vấn đề của mình, và cuối cùng chuyện cũng qua.

Sau đó, khi lãnh đạo của tôi biết chuyện này, anh ấy đã phơi bày tôi vì dùng một kẻ hành ác làm lãnh đạo, không lắng nghe những lời nhắc nhở và quá kiêu ngạo. Lúc đó tôi mới bắt đầu nhận thức được sự việc. Tôi đã mắc sai lầm thật ư? Có phải tôi thực sự quá kiêu ngạo và tự phụ? Nhưng trong hoàn cảnh đó, làm sao tôi làm khác được? Tôi thật sự không hiểu mình sai ở đâu. Sau đó, tôi nhớ lại một đoạn lời Đức Chúa Trời: “Ngươi càng cảm thấy rằng trong các lĩnh vực nhất định ngươi đã làm tốt hoặc làm đúng, và ngươi càng nghĩ rằng ngươi có thể thỏa mãn ý muốn của Đức Chúa Trời hoặc có thể khoe khoang trong những lĩnh vực nhất định, thì càng đáng để ngươi biết bản thân mình trong những lĩnh vực đó và càng đáng để ngươi đào sâu vào chúng để xem những sự bất khiết nào tồn tại trong ngươi, cũng như những điều nào trong ngươi không thể thỏa mãn ý muốn của Đức Chúa Trời. … Điều này là bởi vì ngươi chắc chắn chưa đào xới, chú ý, hoặc mổ xẻ các khía cạnh của bản thân mà ngươi tin là tốt, để xem liệu chúng có thực sự chứa bất kỳ điều gì chống lại Đức Chúa Trời hay không(“Chỉ bằng cách nhận ra quan điểm sai lầm của mình ngươi mới có thể biết chính mình” trong Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời Đức Chúa Trời đã thức tỉnh tôi, và cho tôi con đường thực hành. Sau đó, khi có thời gian, tôi suy ngẫm lại sự việc, sau một thời gian phản tỉnh, tôi nhận ra quả thật mình đã quá kiêu ngạo. Kể từ khi nhận được lá thư, tôi đã chống chế. Tôi cảm thấy lúc đó bị bách hại quá nghiêm trọng, nên không thể tổ chức bầu chọn bình thường, và không có ứng viên phù hợp. Trong hoàn cảnh đó, cô Trương là ứng viên phù hợp nhất, và không có gì chứng minh cô ta là một kẻ hành ác, tôi nghĩ mình đã đưa ra lựa chọn tốt nhất. Không ai ngờ được sau đó cô ta lại bị vạch trần là một kẻ hành ác. Đương nhiên tôi không cố ý bổ nhiệm một kẻ hành ác để quấy phá công tác của nhà Đức Chúa Trời. Nên ban đầu khi đọc thư, tôi cảm thấy mình không làm gì sai và không phản tỉnh hay cố gắng tự nhận thức, tôi phản đối và căm ghét hai chị đã viết bức thư đó. Thậm chí tôi còn lên án họ vì cố trả thù và cố tình bới móc sai lầm ở tôi. Giờ nghĩ lại, khi tôi chọn cô Trương, hai chị đó đã chỉ ra rằng cô Trương có nhân tính xấu. Tôi biết họ lo rằng việc chọn sai người làm lãnh đạo sẽ gây thiệt hại cho công tác của nhà Đức Chúa Trời, nhưng họ không thể thấy rõ thực chất của cô Trương, nên họ không dám lên án cô ta là một kẻ hành ác. Nhưng lúc đó tôi đã quá kiêu ngạo và coi thường họ. Tôi cảm thấy đa số những người họ chọn trong khi họ còn làm lãnh đạo không hề phù hợp, họ không biết phân định mọi người, nên nghe họ khuyên cũng vô ích. Sau nhiều nỗ lực, cuối cùng tôi đã tìm được người đảm nhận công tác, thì họ lại kén chọn và không chịu đồng ý. Nên tôi đã không mảy may lắng nghe họ. Sau đó, khi tôi gạt bản thân qua một bên, phản tỉnh và tìm kiếm lẽ thật, tôi nhận ra rằng quả thật có những vấn đề trong cách tôi chọn lãnh đạo. Dù không tổ chức bầu chọn, lẽ ra tôi nên tham khảo ý kiến từ những người hiểu lẽ thật trước khi chọn cô Trương. Lúc đó, tôi chỉ thảo luận với cộng sự của mình, và hỏi một vài người khác cảm nghĩ của họ về cô Trương. Trong đó, hai chị viết thư tố giác tôi đã không tán thành với lựa chọn của tôi, nhưng tôi lại không tìm hiểu kĩ hơn. Tôi chỉ tin vào ý kiến của mình và những giả thiết chủ quan với suy nghĩ rằng Trương là một lãnh đạo phù hợp. Trong chuyện này, một mặt, tôi không hỏi những người hiểu rõ để biết thêm về hành vi thường lệ của cô Trương, và mặt khác, tôi không tìm kiếm từ những người hiểu lẽ thật cũng không hướng thượng tìm kiếm. Quan trọng hơn, khi gặp phải những ý kiến bất đồng, tôi phản đối và làm ngơ ý kiến của người khác, độc đoán bổ nhiệm cô Trương làm lãnh đạo dựa vào ý kiến của riêng mình. Tôi đã thực sự tác oai tác quái. Ngoài ra, nhà Đức Chúa Trời đã nhấn mạnh nhiều lần rằng những kẻ hành ác và ngụy trá không thể được chọn làm lãnh đạo. Khi hai chị đó nói cô Trương có nhân tính xấu, nếu trong lòng tôi kính sợ Đức Chúa Trời, lẽ ra tôi nên hỏi thêm những người hiểu cô ta, tìm ra chân tướng về nhân tính của cô Trương, và quyết định xem cô ta có phải là kẻ hành ác hay không. Nếu tôi vẫn không chắc sau khi tìm hiểu và không còn ai phù hợp, và cô Trương có vẻ thực sự là ứng viên phù hợp nhất, tôi có thể vừa dùng vừa quan sát cô ta, rồi tước bổn phận cô ta một khi phát hiện cô ta xấu xa và không đi theo con đường đúng đắn. Việc này sẽ không quấy phá công tác của nhà Đức Chúa Trời. Chứ không phải như những gì tôi đã làm, chọn bừa một người, hài lòng và không để ý gì đến nữa. Những gì tôi cho là đúng hoàn toàn dựa vào quan điểm, quan niệm và tưởng tượng của mình tôi. Tôi đã tự cho mình là công chíh và khăng khăng làm theo ý mình, kết quả là tôi đã để một kẻ hành ác làm lãnh đạo hơn một năm, khiến toàn bộ công tác của hội thánh gần như tê liệt. Lúc này tôi mới nhận ra tôi không chỉ phạm một sai lầm nhỏ trong việc bầu chọn lãnh đạo, mà tôi đã hành ác, một việc chống đối Đức Chúa Trời nghiêm trọng. Để người được Đức Chúa Trời chọn đi theo Đức Chúa Trời, mưu cầu lẽ thật và được cứu rỗi, họ phải có một lãnh đạo giỏi, nhưng tôi đã coi nhẹ việc lựa chọn lãnh đạo. Tôi không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Không những tôi không chọn được lãnh đạo giỏi cho các anh chị em, tôi đã đề bạt một kẻ hành ác và làm hại những người được Đức Chúa Trời chọn. Tôi không hề chịu trách nhiệm hay quan tâm đến sự sống của các anh chị em. Với thái độ đối với bổn phận như thế, sao tôi có thể xứng đáng làm lãnh đạo cơ chứ? Trong việc lựa chọn lãnh đạo, tôi đã quá hấp tấp, sơ suất và cẩu thả, kiêu ngạo và tự cho mình công chính đến nỗi khi người khác cố nhắc nhở tôi, tôi không thèm đếm xỉa. Tôi quá chuyên quyền và độc đoán, kết quả là công tác của hội thánh và lối vào sự sống của các anh chị em bị thiệt hại nghiêm trọng. Không có cách nào tôi có thể bù đắp cho những việc mình đã làm. Tôi đã chọn một lãnh đạo tà ác cho các anh chị em và phạm quá nhiều tội ác, nhưng khi hai chị đó tố giác và phơi bày tôi, tôi không cảm thấy tội lỗi hay hối hận, mà thay vào đó lại chống chế. Tôi quá cố chấp và hèn hạ!

Sau đó, tôi đã phản tỉnh: Tại sao tôi lại quá kiêu ngạo và độc đoán chuyên quyền đến nỗi không thể tiếp thu lời khuyên hay tìm kiếm nguyên tắc về lẽ thật? Đây là tâm tính gì? Đức Chúa Trời coi chuyện này như thế nào? Một hôm, tôi tình cờ đọc được đoạn này trong lời Đức Chúa Trời: “Một số người luôn tự nên công chính và khăng khăng theo cách của riêng mình, nói rằng: ‘Tôi sẽ không nghe bất kỳ ai. Ngay cả khi tôi nghe thì đó cũng chỉ là để tỏ ra bề ngoài – tôi sẽ không thay đổi. Tôi sẽ làm việc theo cách của tôi; tôi cảm thấy rằng mình đúng, rằng mình hoàn toàn chính đáng’. Ngươi quả thật có thể có lý và có thể không có sai phạm nghiêm trọng nào trong những gì ngươi làm; ngươi có thể đã không phạm bất kỳ sai lầm nào và ngươi có thể có sự hiểu biết rõ về những khía cạnh kỹ thuật của một vấn đề hơn những người khác, tuy nhiên, một khi những người khác thấy ngươi cư xử và thực hành theo cách này thì họ sẽ nói rằng: ‘Tâm tính của người này không tốt! Khi điều gì đó xảy đến với họ, họ bất chấp những gì mà bất kỳ ai khác có thể nói, dù đúng hay sai, không chịu chấp nhận, luôn cãi lại. Một người như thế không chấp nhận lẽ thật’. Và nếu mọi người khác nói ngươi không chấp nhận lẽ thật, thì Đức Chúa Trời sẽ nghĩ gì? Đức Chúa Trời có thể nhìn thấy hành vi này của ngươi hay không? Đức Chúa Trời có thể nhìn thấy hết thảy một cách rất rõ ràng. Đức Chúa Trời không những thấy tận đáy lòng của con người, mà còn theo dõi mọi điều ngươi nói và làm ở mọi lúc, mọi nơi. Và khi Ngài nhìn thấy những điều này thì Ngài sẽ nói gì? Ngài sẽ phán: ‘Ngươi thật cứng lòng. Ngươi cố chấp trong những trường hợp ngươi đúng, và ngươi cố chấp cũng như không chịu thay đổi trong những trường hợp ngươi biết rõ hoàn toàn rằng ngươi sai. Dù bất kỳ ai có đề nghị gì, ngươi cũng dùng sự phản kháng thụ động. Ngươi chẳng chấp nhận một đề xuất nào của những người khác. Toàn bộ lòng ngươi đầy sự chống đối, khép kín và cự tuyệt. Ngươi thật khó tính!’ Khó khăn nằm ở đâu? Điều khó khăn đối với ngươi là hành vi của ngươi không phải là một cách làm sai hoặc một kiểu ứng xử sai, mà đúng hơn là nó phơi bày một kiểu tâm tính nào đó. Nó phơi bày kiểu tâm tính gì? Ngươi khinh ghét lẽ thật và ngươi nhìn lẽ thật bằng sự thù hận. Một khi ngươi đã bị xác định là nhìn lẽ thật bằng sự thù hận, thì khi Đức Chúa Trời nhìn thấy điều đó, ngươi sẽ gặp rắc rối. Với mọi người, điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là, họ có thể nói: ‘Tâm tính của người này thật không tốt – họ thật cứng đầu cứng cổ và xấc láo! Họ khó gần, không đưa lẽ thật vào thực hành, và họ không yêu lẽ thật cũng như không bao giờ chấp nhận nó’. Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là mọi người sẽ cho ngươi loại đánh giá như vậy, nhưng liệu sự đánh giá như vậy có thể quyết định số phận của ngươi không? Mọi người sẽ không thể quyết định số phận của ngươi bằng cách cho ngươi sự đánh giá, nhưng có một điều ngươi không được quên, và đó là, Đức Chúa Trời dò xét lòng người, và đồng thời Ngài cũng quan sát mọi thứ mà một người nói và làm. Nếu Đức Chúa Trời đã xác định điều này về ngươi và nói rằng ngươi đối xử với lẽ thật bằng sự thù hận, thay vì đơn thuần nói rằng ngươi có điều gì đó của tâm tính bại hoại và có phần bất tuân – thì đây sẽ là một vấn đề lớn hay vấn đề nhỏ? (Sẽ là vấn đề lớn). Trong trường hợp đó, rắc rối đang chờ người. Rắc rối này không liên quan đến cách mọi người nhìn ngươi hay cách họ đánh giá ngươi như thế nào, mà liên quan đến cách Đức Chúa Trời nhìn nhận tâm tính bại hoại nhìn lẽ thật bằng sự thù hận này của ngươi như thế nào. Vậy thì, Đức Chúa Trời sẽ nhìn ngươi như thế nào? Liệu Ngài có nói: ‘Họ nhìn lẽ thật bằng sự thù hận; họ không yêu lẽ thật’ không? Đó có phải là cách Đức Chúa Trời sẽ nhìn ngươi không? Lẽ thật đến từ đâu? Lẽ thật đại diện cho gì? (Đại diện cho Đức Chúa Trời). Vậy thì, ngươi hãy thử đào sâu vào điều này, nếu ai đó nhìn lẽ thật bằng sự thù hận, thì Đức Chúa Trời sẽ nhìn điều này như thế nào? (Rằng họ là kẻ thù của Đức Chúa Trời). Chẳng phải đây sẽ là một vấn đề nghiêm trọng sao? Một người nhìn lẽ thật bằng sự thù hận sẽ nhìn Đức Chúa Trời bằng sự thù hận trong lòng. Tại sao Ta nói họ nhìn Đức Chúa Trời bằng sự thù hận? Người này có rủa sả Đức Chúa Trời không? Họ có phản nghịch chống lại Ngài trước mặt Ngài không? Họ có nói bất cứ gì sau lưng Ngài không? Không, họ đã không như thế. Một số ngươi có thể nói: ‘Khi một người phơi bày dạng tâm tính này, có phải điều này nghĩa là họ nhìn Đức Chúa Trời bằng sự thù hận không? Chẳng phải đây là chuyện bé xé ra to sao?’. Quả thực là nhìn Đức Chúa Trời bằng sự thù hận, và những tình huống như vậy dẫn đến hậu quả thảm khốc. Nói thế nghĩa là, khi một người có loại tâm tính này, thì họ có khả năng phơi bày loại tâm tính này mọi lúc mọi nơi, và nếu họ tiếp tục sống trong tình trạng phụ thuộc vào nó, thì họ sẽ chống đối hay sẽ không chống đối Đức Chúa Trời? Khi họ gặp một vấn đề liên quan đến lẽ thật, liên quan đến những lựa chọn họ đưa ra, nếu họ không thể chấp nhận lẽ thật mà cứ sống trong tình trạng dựa vào tâm tính bại hoại của mình, thì họ đương nhiên sẽ chống đối Đức Chúa Trời và phản bội Ngài. Đó là bởi vì loại tâm tính bại hoại này không gì khác hơn là một tâm tính nhìn Đức Chúa Trời, và lẽ thật, bằng sự thù hận(“Nếu ngươi không thể luôn sống trước Đức Chúa Trời thì ngươi là kẻ chẳng tin” trong Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời Đức Chúa Trời đã chỉ ra thực chất và điểm mấu chốt của vấn đề, và phản kích lại quan niệm của tôi, nhất là đoạn lời này: “Hành vi của ngươi không phải là một cách làm sai hoặc một kiểu ứng xử sai, mà đúng hơn là nó phơi bày một kiểu tâm tính nào đó. Nó phơi bày kiểu tâm tính gì? Ngươi khinh ghét lẽ thật và ngươi nhìn lẽ thật bằng sự thù hận”. Đoạn này như dao cứa vào lòng tôi, giáng cho tôi một đòn đau. Tôi không ngờ tâm tính kiêu ngạo mà tôi biểu lộ đối với Đức Chúa Trời, là sự ghê tởm, khinh ghét và không tiếp nhận lẽ thật. Đây là tâm tính của một kẻ hành ác và một kẻ địch lại Đấng Christ. Nếu Đức Chúa Trời đã xác định tôi là một người ghê tởm và khinh ghét lẽ thật, thì việc này sẽ biến tôi thành ác quỷ, Sa-tan và không được cứu rỗi. Lúc đó, tôi mới bắt đầu cảm thấy sợ hãi. Dù tôi biết mình có tâm tính kiêu ngạo và tự cho mình là công chính, không muốn tiếp thu lời khuyên của người khác, và đã vi phạm rất nhiều vì việc này, nhưng tôi vẫn không chịu công nhận. Có lúc tôi còn nghĩ sự kiêu ngạo là một biểu hiện thường thấy của con người bại hoại và không dễ thay đổi, nên tôi đã tự tha thứ cho mình, không coi đó là một vấn đề nghiêm trọng cần phải giải quyết. Vì vậy nên trong bổn phận tôi thường biểu lộ tâm tính kiêu ngạo, mà không hề mảy may suy nghĩ. Chỉ khi bị tỉa sửa và xử lý tôi mới cảm thấy hối hận và buồn bã, nhưng về sau lại vẫn vô thức biểu lộ nó. Những người biết tôi đánh giá rằng tôi kiêu ngạo và tự nên công chính, trong công tác mà lãnh đạo bàn giao cho tôi, anh ấy thường nhắc nhở và hướng dẫn tôi không được kiêu ngạo và tự nên công chính và lắng nghe ý kiến của người khác. Anh ấy sợ sự kiêu ngạo của tôi sẽ làm tổn hại đến công tác của nhà Đức Chúa Trời. Qua những gì mà lời Đức Chúa Trời vạch trần, tôi mới thấy rằng mình kiêu ngạo và không tiếp nhận lẽ thật, dù lời khuyên của người khác có đúng đắn và có lợi như thế nào cho công tác của nhà Đức Chúa Trời, tôi vẫn cố chấp bám vào quan điểm của mình, nếu có ai thông công nguyên tắc về lẽ thật hay đề xuất những việc trái với quan niệm của tôi, tôi liền ghét bỏ và phản đối họ. Tôi căm ghét và không tha cho những ai phơi bày tôi. Việc này cho thấy tôi có tâm tính căm ghét và khinh ghét lẽ thật của một kẻ địch lại Đấng Christ. Tôi nhớ lại việc hai chị đó đã cảnh báo tôi về người mà tôi chọn sợ tôi sẽ để một kẻ hành ác làm hại hội thánh, nhưng tôi đã không nghe theo lời khuyên của họ và khăng khăng làm theo quan điểm của mình. Giờ khi hai chị đó không còn cảm thấy bị địa vị của tôi kìm hãm, họ viết thư tố giác để phơi bày vấn đề của tôi, và họ làm thế để bảo vệ công tác của hội thánh, nhưng cũng là lời cảnh báo dành cho tôi. Nhưng tôi không phản tỉnh hay cố gắng tự nhận thức, mà trong lòng lại khinh ghét và tẩy chay họ, thậm chí phán xét và lên án họ vì đã bới móc sai lầm của tôi. Thái độ của tôi không gì khác ngoài ghê tởm và căm ghét lẽ thật. Sau đó, tôi đọc được một đoạn khác trong lời Đức Chúa Trời: “Các ngươi nghĩ dạng người nào là người khinh ghét lẽ thật? Họ có phải là những người chống lại và chống đối Đức Chúa Trời không? Họ có thể không công khai chống đối Đức Chúa Trời, nhưng bản tính và bản chất của họ là phủ nhận và chống đối Đức Chúa Trời, là điều tương đương với việc công khai nói với Đức Chúa Trời rằng: ‘Tôi không thích nghe những gì Ngài nói, tôi không chấp nhận, và bởi vì tôi không chấp nhận rằng lời của Ngài là lẽ thật, tôi không tin Đức Chúa Trời. Tôi tin vào bất cứ ai có ích và có lợi cho tôi’. Đây có phải là thái độ của những người ngoại đạo không? (Phải). Nếu đây là thái độ của ngươi đối với lẽ thật, thì chẳng phải ngươi đang công khai thù địch với Đức Chúa Trời sao? Và nếu ngươi công khai thù địch với Đức Chúa Trời, liệu Đức Chúa Trời có cứu rỗi ngươi không? (Không). Đó là lý do khiến Đức Chúa Trời thịnh nộ đối với tất cả những ai phủ nhận và chống đối Đức Chúa Trời. Bản chất của những người như thế này, những người khinh ghét lẽ thật, là bản chất thù địch với Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không coi những người có bản chất như vậy là con người. Ngài đối xử với họ như thế nào? Như kẻ thù và ma quỷ. Ngài sẽ không bao giờ cứu rỗi họ; cuối cùng, họ sẽ bị rơi vào thảm họa và bị hủy diệt(“Hiểu lẽ thật đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện bổn phận của một người cho đúng” trong Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Đức Chúa Trời phán thái độ của chúng ta với lẽ thật cũng chính là thái độ đối với Ngài, nên khi căm ghét và khinh ghét lẽ thật, tôi đã thể hiện sự căm ghét và đối địch với Đức Chúa Trời. Những ai căm ghét lẽ thật là những kẻ hành ác, ác quỷ và Sa-tan, những đại diện thực sự của Sa-tan. Nếu lời khuyên của các chị ấy đến từ Đức Thánh Linh, phù hợp với lẽ thật và có lợi cho công tác của nhà Đức Chúa Trời, nhưng tôi kiêu ngạo, không chịu tiếp nhận nó hay tìm kiếm lẽ thật, vậy thì tôi đã chống đối sự khai sáng của Đức Thánh Linh, và đã trực tiếp chống đối Đức Chúa Trời và xúc phạm tâm tính của Ngài. Khi hiểu ra điều này, lòng tôi càng sợ hãi, vì tôi biết vấn đề của mình rất nghiêm trọng. Nó không như tôi nghĩ, chỉ đơn giản là kiêu ngạo và không tiếp thu lời khuyên của người khác. Nó liên quan đến thái độ của tôi với công tác của Đức Thánh Linh và đối với Đức Chúa Trời, cũng như sự chống đối Đức Chúa Trời của tôi.

Sau đó, lãnh đạo của tôi đã phân tích cho tôi về chuyện này, và nói, “Khi chị chọn một kẻ hành ác, những người khác nhắc nhở chị người này có vấn đề nghiêm trọng, nhưng chị không chịu nghe, và chỉ tin vào quan điểm của mình. Nếu những quan điểm của chị căn cứ vào lời Đức Chúa Trời, thì chị có thể tin tưởng vào bản thân. Nhưng nếu không, nếu chúng là quan niệm vô lý của riêng chị, thì sự tin tưởng vào bản thân lại là vấn đề với nhân tính của chị. Chị không cư xử theo nguyên tắc, không có nhân tính ngay thẳng. Chị không biết chừng mực và rất vô lý”. Sau khi nghe phân tích của lãnh đạo, tôi rất đau lòng. Tôi nhận ra mình không những có tâm tính kiêu ngạo, mà còn có vấn đề với nhân tính của mình, và đối xử bất công với mọi người. Khi tôi đã chọn người và dự định dùng họ, tôi không chịu tiếp thu sự phê bình của người khác về họ. Những người nêu ý kiến là những người bị tôi coi thường và tước bổn phận, nên tôi vênh váo và không đếm xỉa đến lời khuyên của họ. Tôi cho rằng những ai đã bị tước bổn phận vì không thực hiện tốt bổn phận không thể đưa ra lời khuyên đúng đắn. Trong lòng tôi đã hoàn toàn bác bỏ hai chị đó. Tôi cư xử như một kẻ hợm hĩnh. Đối xử và tuyển chọn nhân sự dựa vào cảm tính và quan điểm cá nhân. Tôi không đối xử công bằng với mọi người theo nguyên tắc về lẽ thật. Việc đó thể hiện rằng nhân tính, cá tính, và tâm tính của tôi đều có vấn đề. Nếu tôi tiếp tục làm lãnh đạo, thì tôi sẽ là một lãnh đạo giả hoặc một kẻ địch lại Đấng Christ, toàn bộ những điều đó sẽ làm hại những người được Đức Chúa Trời chọn. Càng phản tỉnh, tôi càng thấy vấn đề của mình nghiêm trọng. Vì sự kiêu ngạo của mình, tôi không chịu nghe lời khuyên của các anh chị em về công tác và các vấn đề quan trọng của hội thánh, gây ra nhiều tổn hại đối với công tác của nhà Đức Chúa Trời. Trong đức tin của tôi vào Đức Chúa Trời, đây là một sự ô uế và là một việc tà ác. Tôi cảm thấy rất buồn và tội lỗi.

Tôi bắt đầu thắc mắc lý do tại sao tôi luôn kiêu ngạo như vậy. Tại sao tôi luôn vô thức hành ác và chống đối Đức Chúa Trời. Căn nguyên là gì? Lời Đức Chúa Trời đã cho tôi câu trả lời: “Nếu trong lòng ngươi ngươi thực sự hiểu được lẽ thật, thì ngươi sẽ biết cách thực hành lẽ thật và vâng phục Đức Chúa Trời, và đương nhiên sẽ dấn bước trên con đường theo đuổi lẽ thật. Nếu con đường ngươi bước đi là con đường đúng và phù hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời, thì công tác của Đức Thánh Linh sẽ không rời khỏi ngươi – như thế sẽ có ngày càng ít nguy cơ ngươi phản bội Đức Chúa Trời. Không có lẽ thật, rất dễ làm điều ác, và ngươi sẽ làm điều đó dù bản thân không muốn vậy. Chẳng hạn, nếu ngươi có một tâm tính kiêu ngạo và tự phụ, thì việc bảo ngươi đừng đối nghịch với Đức Chúa Trời sẽ chẳng kết quả gì, ngươi không thể cưỡng lại, nó nằm ngoài tầm kiểm soát của ngươi. Ngươi sẽ không chủ tâm làm điều đó; ngươi sẽ làm điều đó dưới sự chi phối của bản tính kiêu ngạo và tự phụ của mình. Sự kiêu ngạo và tự phụ của ngươi sẽ khiến ngươi coi thường Đức Chúa Trời và xem Ngài là tầm thường; chúng sẽ khiến ngươi tự đề cao bản thân, không ngừng khoe khoang về bản thân; chúng sẽ khiến ngươi coi khinh những người khác, sẽ khiến ngươi không có ai trong lòng ngoài bản thân mình; chúng sẽ khiến ngươi nghĩ rằng mình cao siêu hơn cả những người khác lẫn Đức Chúa Trời, và cuối cùng sẽ khiến ngươi ngồi vào chỗ của Đức Chúa Trời và đòi hỏi mọi người phải quy phục mình, sùng bái những suy nghĩ, ý tưởng và những quan niệm của mình như là lẽ thật. Hãy xem có bao nhiêu tội ác được thực hiện bởi những người chịu sự chi phối của bản tính kiêu ngạo và tự phụ của họ!(“Chỉ có theo đuổi lẽ thật mới đạt được sự thay đổi trong tâm tính” trong Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Đúng thế. Tôi đã quá kiêu ngạo và hết sức vô lý. Tôi luôn quá tự tin vào bản thân, như thể quan điểm và ý kiến của tôi là lẽ thật, tôi không cho người khác hỏi tôi, chứ đừng nói gì đến đưa ra ý kiến trái chiều. Ví dụ như trong việc lựa chọn lãnh đạo, nhà Đức Chúa Trời quy định rõ ràng rằng những kẻ xấu xa và ngụy trá không thể được lựa chọn làm lãnh đạo. Đây là điều cấm kỵ, và là một vấn đề rất nghiêm trọng. Khi hai chị đó nhắc tôi về nhân tính xấu của cô Trương, tôi chỉ hỏi thêm vài người để tìm hiểu, và vì những giả định chủ quan của mình, tôi đã mù quáng bỏ ngoài tai lời khuyên của họ. Tôi không tìm kiếm với những người hiểu lẽ thật, cũng không biết được sự khác nhau giữa người có nhân tính xấu hay người có thực chất của một kẻ hành ác, hay cố gắng tìm hiểu lý do cụ thể mà cô Trương không thể hợp tác với người khác, xem đó là vấn đề về tâm tính hay là nhân tính xấu. Nếu đó là vấn đề về tâm tính bại hoại và cô ta có thể tiếp nhận lẽ thật, thì cô ta có thể thay đổi và không thể xác định đó là sự tà ác. Nếu cô ta là người xấu xa và khinh ghét lẽ thật, thì cô ta là một kẻ hành ác. Cho dù có bị xử lý vì những việc ác đã làm, cô ta sẽ không tiếp nhận, cũng sẽ không bao giờ chân thành ăn năn. Nếu lúc đó tôi tìm kiếm lẽ thật, và đánh giá hành vi đặc trưng của cô Trương qua thực chất của những kẻ hành ác, có lẽ tôi đã có sự phân định về cô ta, sẽ không nhất quyết dùng cô ta, và có thể tránh được việc gây ra tổn hại cho công tác của hội thánh. Những hậu quả xảy ra hoàn toàn là vì tôi quá kiêu ngạo và không tìm kiếm nguyên tắc về lẽ thật. Nếu tôi chỉ cần có một chút kính sợ và vâng phục Đức Chúa Trời thôi, tôi sẽ không phạm phải sai lầm lớn hay làm việc tà ác như thế. Các anh chị em sẽ không phải chịu đau khổ hay thấy sự sống của họ bị tổn hại, và tôi sẽ không mắc phải một sự vi phạm vô phương cứu vãn như thế. Tôi thấy mình quá ương ngạnh và ngoan cố. Tôi khinh ghét và nguyền rủa bản thân từ tận đáy lòng. Tôi đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời, nói rằng mình muốn chân thành ăn năn.

Sau đó tôi đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời và tìm ra con đường thực hành. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Ngươi nên phản tỉnh về bản thân và cố gắng tự biết mình như thế nào, khi ngươi đã làm điều gì đó vi phạm các nguyên tắc của lẽ thật và làm mất lòng Đức Chúa Trời? Khi ngươi chuẩn bị làm điều đó, ngươi có cầu nguyện với Ngài không? Ngươi đã bao giờ suy ngẫm: ‘Đức Chúa Trời sẽ nhìn vấn đề này như thế nào nếu nó được đưa đến trước Ngài? Ngài sẽ vui hay khó chịu nếu Ngài biết về nó? Ngài sẽ khinh ghét nó không?’ Ngươi đã không tìm kiếm điều đó, phải không? Ngay cả khi người khác nhắc nhở ngươi, ngươi vẫn sẽ nghĩ rằng vấn đề không có gì to tát, và rằng nó không đi ngược lại bất kỳ nguyên tắc nào và không phải là tội. Kết quả là, ngươi đã xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời và kích động cơn giận dữ dội của Ngài, thậm chí đến mức Ngài khinh miệt ngươi. Nếu ngươi đã tìm kiếm và xem xét, và nhìn nhận vấn đề rõ ràng trước khi hành động, thì chẳng phải ngươi sẽ xử lý được nó sao? Mặc dù có thể có những khi tình trạng của con người không tốt, hoặc tiêu cực, nếu họ đưa mọi việc họ đang lên kế hoạch thực hiện đến trước Đức Chúa Trời một cách trang trọng trong lời cầu nguyện, và tìm kiếm lẽ thật trên cơ sở lời Đức Chúa Trời, họ sẽ không mắc phải những sai lầm lớn. Khi thực hành lẽ thật, con người khó tránh phạm phải những sai lầm, nhưng nếu ngươi biết cách làm việc phù hợp với lẽ thật khi làm mà ngươi lại không thực hiện chúng phù hợp với lẽ thật, thì vấn đề là ngươi không có tình yêu với lẽ thật. Tâm tính của một người không có tình yêu với lẽ thật sẽ không thay đổi. Nếu ngươi không thể nắm bắt chính xác ý muốn của Đức Chúa Trời, và không biết cách thực hành, thì ngươi nên thông công với người khác và tìm kiếm lẽ thật. Và nếu những người khác cũng đang gặp khó khăn, thì các ngươi nên cùng nhau cầu nguyện và tìm kiếm từ Đức Chúa Trời, chờ đợi thời điểm của Đức Chúa Trời, chờ đợi Ngài mở ra một lối thoát. Ngươi rất có thể tìm ra một giải pháp mang lại cho ngươi một lối thoát tốt, và điều này rất có thể được nảy sinh từ sự khai sáng của Đức Thánh Linh. Nếu ngươi rốt cuộc phát hiện ra rằng khi thực hiện theo cách này, ngươi đã phạm một sai lầm nhỏ, thì ngươi nên nhanh chóng điều chỉnh, và rồi Đức Chúa Trời sẽ không tính sai lầm này là tội. Bởi ngươi đã có những ý định đúng đắn khi đưa vấn đề này vào thực hành, và ngươi đang thực hành phù hợp với lẽ thật và đơn thuần không biết rõ các nguyên tắc, và những hành động của ngươi đưa đến một số sai phạm, thì đây là một tình huống được giảm nhẹ tội. Tuy nhiên, ngày nay nhiều người chỉ đơn thuần dựa vào chính đôi tay họ để làm việc và tâm trí họ để làm điều này điều nọ, và họ hiếm khi có bất kỳ sự cân nhắc nào đến những câu hỏi này: Thực hành theo cách này có tuân theo ý muốn của Đức Chúa Trời không? Liệu Đức Chúa Trời có vui không nếu tôi làm theo cách này? Liệu Đức Chúa Trời có tin tưởng tôi không nếu tôi làm theo cách này? Liệu tôi có đưa lẽ thật vào thực hành không nếu tôi làm theo cách này? Nếu Đức Chúa Trời nghe về vấn đề này, liệu Ngài có thể nói ‘Ngươi đã làm điều này đúng và hợp lý. Cứ tiếp tục nhé’ không? Ngươi có thể cẩn thận suy xét tất cả mọi điều ngươi làm không? Ngươi có khả năng sử dụng lời Đức Chúa Trời và những yêu cầu của Đức Chúa Trời làm cơ sở để phản tỉnh về mọi việc ngươi làm, suy ngẫm xem liệu hành động như vậy được Đức Chúa Trời yêu thương hay bị Đức Chúa Trời khinh miệt, và những người được Đức Chúa Trời chọn sẽ nghĩ gì khi ngươi làm điều này, họ sẽ đánh giá như thế nào? Ngươi phải tiếp tục cố gắng tìm hiểu điều này. Nếu ngươi biết rõ rằng vấn đề này liên quan đến những động cơ của chính ngươi, thì ngươi phải phản tỉnh xem mục đích của mình khi thực hiện nó là gì, hậu quả sẽ là gì, là để thỏa mãn bản thân ngươi hay Đức Chúa Trời, làm điều này có lợi cho ngươi hay cho những người được Đức Chúa Trời chọn…. Khi ngươi dành nhiều thời gian hơn để suy ngẫm về những điều đó, hãy tự hỏi bản thân những câu hỏi này và tìm kiếm, những sai lầm của ngươi sẽ trở nên ngày càng nhỏ hơn. Làm mọi thứ theo cách này sẽ chứng tỏ rằng ngươi là một người thật sự tìm kiếm lẽ thật và rằng ngươi là người tôn kính Đức Chúa Trời, bởi vì ngươi đang làm mọi thứ phù hợp với phương hướng mà Đức Chúa Trời yêu cầu, và phù hợp với các nguyên tắc của lẽ thật(“Tìm cầu ý muốn của Đức Chúa Trời vì mục đích thực hành lẽ thật” trong Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời Đức Chúa Trời đã cho tôi nguyên tắc thực hành: Sau này, dù có làm gì, tôi phải có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, tìm kiếm lẽ thật và nguyên tắc để theo đó mà làm việc. Nhất là trong những chuyện liên quan đến công tác và lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, tôi không thể cư xử mù quáng theo quan điểm của riêng mình. Nếu không, khi tôi gây tổn hại nghiêm trọng đến nhà Đức Chúa Trời hay quấy phá công tác, thì tôi đã hành ác và phạm tội chống đối Đức Chúa Trời. Thêm vào đó, tôi không thể tự mình quyết định cách thực hiện bổn phận, cũng không thể làm việc theo cách của mình và chuyên quyền như thế. Tôi phải thảo luận mọi việc với cộng sự, tìm kiếm thêm với các anh chị em hiểu lẽ thật, lắng nghe ý kiến trái chiều với suy nghĩ của tôi. Dù người đó có địa vị, ân tứ hoặc tài năng hay không, tôi nên khiêm tốn lắng nghe. Trong những chuyện không hiểu, tôi nên tìm kiếm với các lãnh đạo ngay, học hỏi những nguyên tắc liên quan, và biết cách cư xử phù hợp với lẽ thật và không xúc phạm Đức Chúa Trời trước khi hành động. Đây là cách giải quyết vấn đề về sự kiêu ngạo của tôi và bảo vệ bản thân tôi khỏi việc hành ác và xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời. Quan trọng hơn, tôi phải biết cách chối bỏ bản thân. Càng cho một việc gì là đúng, tôi càng phải tìm kiếm xem nó có phù hợp với nguyên tắc về lẽ thật không. Trước kia, tôi không hiểu bản thân, tôi không biết tự nhận thức và quá tự tin vào bản thân. Sau bài học đau đớn này tôi mới thấy rằng khi tôi tự tin vào bản thân, khi tôi nghĩ mình không thể làm sai, thậm chí khi tôi nghĩ mình đúng vì có cơ sở chắc chắn, thực tế cho thấy rằng tôi không những phạm sai lầm, mà còn phạm sai lầm một cách khủng khiếp, ngớ ngẩn và đáng hận, và hậu quả gây ra hết sức thảm khốc. Trước kia tôi đã vi phạm quá nhiều vì sự kiêu ngạo của mình. Lúc đó, tôi thực sự nghĩ mình đúng, đôi lúc còn dùng lời Đức Chúa Trời làm căn cứ, nhưng rồi thực tế cho thấy tôi đã sai, vì tôi không hiểu lời Đức Chúa Trời và nguyên tắc, tôi đã dùng lời Đức Chúa Trời một cách bừa bãi. Khi nhận ra điều này, trong lòng tôi thừa nhận tôi không có thực tế về lẽ thật, không hiểu rõ mọi người hay mọi sự, một số quan điểm của tôi rất vô lý và lố bịch. Hơn nữa, tôi có tố chất kém, suy nghĩ không thấu đáo hay không hiểu lẽ thật. Tôi chỉ biết chút giáo lý và làm theo một vài quy tắc. Lúc đó, tôi đã quy phục hoàn toàn. Tôi cảm thấy hoàn toàn không xứng đáng, kém cỏi và thảm hại, và không còn muốn một mực làm theo quan điểm của mình.

Sau đó, khi người khác đưa ra ý kiến trái chiều, cứ khi nào tôi khăng khăng muốn làm theo cách của mình, tôi lại nghĩ đến bài học đau đớn này. Tôi nhớ lại biết bao quan điểm tôi cứ cho là hoàn toàn đúng lại hóa ra sai mọi đàng khi đối chiếcu với lẽ thật, và bị Đức Chúa Trời lên án. Tôi không còn dám khăng khăng làm theo quan điểm của mình, mà cố gắng tìm kiếm quan điểm và lời khuyên của người khác. Đôi lúc khi thảo luận mọi việc, tôi vô thức muốn phản đối quan điểm của người khác, nhưng khi nhận ra mình đang làm vậy, tôi liền hỏi suy nghĩ của đa số mọi người, vì tôi sợ không nghe theo lời khuyên đúng đắn, dẫn đến gây tổn hại cho công tác của nhà Đức Chúa Trời. Trong những chuyện tôi nghĩ mình đã làm điều đúng đắn, tôi không dám một mình quyết định nữa, tôi chủ ý hỏi lời khuyên từ các cộng sự trong chuyện đó hoặc tìm kiếm với các lãnh đạo và đồng sự. Làm như vậy giúp tôi cảm thấy thoải mái hơn, và cũng tránh được việc gây tổn hại cho công tác của nhà Đức Chúa Trời vì cư xử độc đoán. Dù đôi lúc tôi vẫn biểu lộ tâm tính kiêu ngạo, nhưng tôi nghĩ mình đã cải thiện phần nào.

Không có sự phán xét và vạch trần của lời Đức Chúa Trời, những gì mà các anh chị em tố giác và phơi bày, hay nhiều lần bị Đức Chúa Trời phơi bày và xử lý, tôi sẽ không hiểu bản thân, chứ đừng nói gì đến chối bỏ bản thân. Hôm nay, một chút thay đổi nhỏ mà tôi đạt được, việc tôi có chút nhân tính và lý trí, chính là kết quả công tác của Đức Chúa Trời! Đây cũng là tác động đạt được nhờ sự phán xét của lời Đức Chúa Trời. Tôi tạ ơn Đức Chúa Trời từ tận đáy lòng vì đã cứu rỗi tôi.

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Quá khứ ô nhục của tôi

Bởi Lý Nghị, Trung Quốc Tháng 8 năm 2015, tôi cùng gia đình chuyển đến Tân Cương. Tôi nghe nói Trung Cộng áp dụng những biện pháp giám sát...

Tánh tự cao đi trước sự sa ngã

Bởi Tâm Khiết, Trung Quốc Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Sự kiêu ngạo là gốc rễ của tâm tính bại hoại ở con người. Con người càng kiêu ngạo...

Câu chuyện của Joy

Bởi Joy, Philippines Trước đây, tôi luôn đối xử với mọi người theo tình cảm. Miễn là họ tử tế với tôi thì tôi sẽ tử tế với họ. Tôi không có...

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger