Tôi không còn tự ti nữa

26/11/2025

Bởi Debra, Hoa Kỳ

Ngay từ nhỏ, tính cách của tôi đã khá rụt rè, phản ứng lại chậm chạp. Gia đình đều nói tôi không được lanh lợi, đầu óc có phần đần độn. Hơn nữa, khả năng biểu đạt của tôi không tốt lắm, nên cứ hễ nói chuyện trước đám đông là tôi lại dễ bị căng thẳng. Mà mỗi khi căng thẳng thì đầu óc tôi lại trống rỗng, vì vậy tôi thường chỉ im lặng. Khi còn đi học, mỗi lần thầy cô đặt câu hỏi, các bạn khác đều hăng hái phát biểu, còn tôi dù biết đáp án cũng không dám chủ động trả lời. Tôi chỉ có thể bị động chờ thầy cô gọi tên, hoặc tự nhẩm đáp án trong đầu. Gia đình và bạn bè đều nói tôi phản ứng chậm và ăn nói vụng về. Bố tôi cũng thường kể cho tôi nghe câu chuyện về chim chậm thì phải bay trước. Lâu dần, tôi cũng bắt đầu cảm thấy mình hơi chậm chạp, luôn cảm thấy việc gì mình làm cũng chẳng ra đâu vào đâu. Vì vậy, tôi ngày càng trở nên khép kín. Sau khi tin Đức Chúa Trời, thấy các anh chị em rất thân thiện, tôi cảm thấy họ như người nhà của mình. Tôi cũng mở lòng trò chuyện về tình trạng cũng như khó khăn của mình với các anh chị em. Mọi người đều giúp đỡ và khích lệ tôi, và tôi trở nên bớt bị kìm kẹp hơn; trong lòng cảm thấy được giải phóng và rất vui vẻ. Tuy nhiên, khi nói chuyện trước nhiều người, tôi vẫn cảm thấy rất bị kìm kẹp. Có vài lần nhóm họp đông người, đến lượt tôi thông công thì tôi căng thẳng đến mức run cầm cập. Dòng suy nghĩ của tôi rối loạn, lời nói cũng lắp ba lắp bắp. Vài người chị em ngẩng đầu nhìn tôi, tôi chỉ biết cười ngượng nghịu. Lúc đó, mặt tôi nóng bừng vì xấu hổ, chỉ muốn tìm cái lỗ nào để chui xuống. Tôi nghĩ thầm trong bụng: “Các anh chị em sẽ nghĩ gì về mình đây? Họ có nghĩ mình quá kém cỏi không? Có vẻ như sau này mình nên nói ít lại và để các anh chị em có tố chất tốt thông công nhiều hơn”. Thế là từ đó về sau, trong các buổi nhóm họp đông người, tôi luôn là người thông công cuối cùng, có khi còn chẳng thông công gì cả. Tôi chỉ dám thông công đơn giản khi có ít người, hoặc trước mặt những anh chị em mà tôi thân quen. Thỉnh thoảng, tôi đạt được một số kết quả khi thực hiện bổn phận, thế là người phụ trách yêu cầu tôi chia sẻ về những phương pháp hay để mọi người có thể học hỏi và tham khảo. Tuy nhiên, vừa nghĩ đến việc phải chia sẻ trước mặt nhiều anh chị em, tôi lại thấy vô cùng sợ hãi. Tôi lo rằng đến lúc đó, mình sẽ lo lắng và nói năng lủng củng – xấu hổ biết bao! Tôi đã từ chối hết lần này đến lần khác với lý do mình không có phương pháp đặc biệt nào. Sau đó, tôi suy ngẫm, tại sao mỗi lần cần phải nói chuyện trước đám đông là tôi lại sợ hãi và lùi bước?

Một lần, tôi đọc được lời này của Đức Chúa Trời: “Có những người từ nhỏ đã không thông minh, kém ăn nói, tướng mạo cũng không xuất chúng, cho nên mọi người trong gia đình và xã hội đều có một vài đánh giá không tốt về họ. Chẳng hạn như: ‘Đứa trẻ này đầu óc chậm chạp, phản ứng chậm, miệng cũng vụng. Chị xem, con cái nhà người ta, miệng mồm ngon ngọt, xoay người ta như chong chóng. Còn đứa trẻ này gặp người ta cũng chẳng biết nói chuyện, chẳng biết dỗ ngọt cho người ta vui, làm sai cũng chẳng biết phân bua biện bạch. Đứa trẻ này là đồ ngốc’. Bố mẹ chúng bảo vậy, bà con, bạn bè và giáo viên của chúng cũng bảo vậy. Hoàn cảnh như thế vô hình trung đem lại cho những đứa trẻ này một áp lực nhất định, khiến nó trong vô thức hình thành nên một dạng tâm lý. Là dạng tâm lý gì? Chính là cảm giác mình có tướng mạo không đẹp, ai nhìn thấy cũng đều không thích, thành tích học tập cũng không tốt, phản ứng thì chậm, khi nhìn thấy người khác thì ngại mở miệng nói chuyện, người khác cho thứ gì cũng ngại nói cảm ơn. Trong lòng chúng thầm nghĩ: ‘Sao miệng mình lại vụng như vậy? Sao miệng mồm người ta lại khéo như vậy? Mình đúng là đần mà!’. Một cách vô thức, chúng cảm thấy bản thân đặc biệt vô dụng, nhưng vẫn không sẵn lòng thừa nhận bản thân vô dụng đến vậy, ngốc đến vậy. Trong lòng chúng thường tự hỏi: ‘Mình thực sự ngốc đến vậy sao? Mình thực sự chẳng được người ta ưa thích sao?’. Cha mẹ chẳng thích chúng, anh chị em chẳng thích chúng, giáo viên và bạn học cũng chẳng thích chúng. Bà con và bạn bè thì thỉnh thoảng nói về chúng: ‘Người thì thấp, mắt thì nhỏ, mũi thì tẹt, nhìn là biết lớn lên nó chẳng có tiền đồ lớn lao gì’. Dưới hoàn cảnh như vậy, sự chống đối ban đầu trong lòng chúng dần dần trở thành tiếp nhận và thừa nhận những thiếu sót cũng như khiếm khuyết của bản thân, nhưng đồng thời trong sâu thẳm nội tâm chúng cũng nảy sinh một dạng cảm xúc tiêu cực. Dạng cảm xúc này gọi là gì? Là tự ti. Người tự ti chỉ nhìn thấy điểm yếu chứ chẳng thấy điểm mạnh của mình, luôn cảm thấy tướng mạo mình không đẹp, không làm người khác thích, cảm thấy đầu óc mình không thông minh, phản ứng thì chậm chạp, lại còn không biết đoán ý qua lời nói và sắc mặt người khác. Tóm lại là họ cảm thấy bản thân mình cái gì cũng không ổn. Dạng tâm lý tự ti này dần dần chiếm vị trí chủ đạo trong lòng ngươi, rồi trở thành một dạng cảm xúc không thể xua tan, cứ quấy rầy lòng ngươi. Khi ngươi trưởng thành và ra ngoài xã hội hoặc kết hôn và lập nghiệp rồi, bất kể ngươi có thân phận và địa vị gì trong xã hội, dạng cảm xúc tự ti có từ nhỏ trong hoàn cảnh lớn lên này vẫn sẽ ảnh hưởng và khống chế ngươi như trước, khiến ngươi cảm thấy mình không bằng người khác về mọi mặt(Cách mưu cầu lẽ thật (1), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật). Lời Đức Chúa Trời nói trúng phóc tình trạng của tôi. Từ nhỏ đến lớn, những người xung quanh đều nói tôi ăn nói vụng về, phản ứng chậm chạp; gia đình cũng thường nói: “Con xem chị con lanh lợi biết bao. Cứ như con thế này thì ra ngoài chẳng ai ưa đâu…”. Dần dần, tôi ngày càng cảm thấy mình không thông minh bằng người khác, và trong lòng dần dà nảy sinh tâm lý tự ti. Từ nhỏ đến lớn, tôi cảm thấy mình chẳng có ưu điểm gì: khả năng biểu đạt thì kém, tâm lý cũng yếu, hễ nói chuyện trước nhiều người là lại căng thẳng, đã vậy đầu óc còn không linh hoạt, nên tôi rất ít khi nói chuyện và không tham gia nhiều việc. Sau khi tin Đức Chúa Trời, tôi thường sợ các anh chị em sẽ xem thường mình vì khả năng biểu đạt không tốt, nên tôi đã cố gắng nói ít nhất có thể để tránh xấu hổ. Khi thông công trong các buổi nhóm họp, hoặc khi nói về những gì mình thu hoạch được khi thực hiện bổn phận, thì tôi rất bị động, và luôn chọn cách co mình lại. Bị ảnh hưởng bởi cảm giác tự ti, tôi đã đánh mất nhiều cơ hội để đạt được lẽ thật, và ngay cả những bổn phận mình có thể làm, tôi cũng không làm bình thường được. Tôi thấy mình sống thật thảm hại, nên tôi muốn tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề này.

Một ngày nọ, tôi đọc được lời này của Đức Chúa Trời: “Lòng ngươi đầy cảm xúc tự ti và cảm xúc này đã có từ lâu, nó không phải là tâm trạng nhất thời. Đúng hơn là, nó kiểm soát chặt chẽ những suy nghĩ của ngươi từ sâu thẳm tâm hồn ngươi, bịt chặt miệng ngươi, và do đó, bất kể ngươi có hiểu đúng sự việc như thế nào, hay có quan điểm và ý kiến như thế nào đối với con người, sự việc và sự vật, thì ngươi cũng chỉ dám suy nghĩ và suy xét tới lui trong lòng, không bao giờ dám nói ra. Cho dù người khác có thể tán thành những gì ngươi nói, hay là chấn chỉnh và chỉ trích ngươi, ngươi cũng sẽ không dám đối mặt hoặc thấy kết quả như vậy. Tại sao lại như vậy? Đó là bởi vì cảm xúc tự ti ở bên trong ngươi, nói với ngươi rằng: ‘Đừng làm vậy, chỉ đơn giản là mi không đủ khả năng. Mi không có tố chất như thế, mi không có thực tế như thế, mi không nên làm như vậy, đơn giản đó không phải là mi. Giờ đừng làm bất cứ điều gì hay suy nghĩ bất cứ điều gì. Khi sống trong mặc cảm tự ti mi mới là chính mình. Mi không đủ tư cách để mưu cầu lẽ thật hoặc mở lòng và nói những gì mình muốn và kết nối với những người khác như người ta vẫn làm. Và đó là bởi vì mi không giỏi giang, mi không giỏi giang như họ’. Cảm xúc tự ti này chỉ đạo suy nghĩ bên trong tâm trí con người; nó áp chế không cho họ thực hiện các nghĩa vụ mà một người bình thường phải thực hiện và sống cuộc sống của một nhân tính bình thường mà họ nên sống, đồng thời nó cũng định hướng phương thức và phương pháp, phương hướng và mục tiêu trong cách họ nhìn nhận con người và sự việc, cách họ cư xử và hành động. … Từ những biểu hiện và bộc lộ cụ thể này, chúng ta có thể thấy rằng một khi cảm xúc tiêu cực này – cảm xúc tự ti – bắt đầu phát tác và ăn sâu vào tận đáy lòng người, thì trừ khi mưu cầu lẽ thật, nếu không họ sẽ rất khó để nhổ tận gốc nó và thoát khỏi sự kìm kẹp của nó, và sẽ bị nó kìm kẹp trong mọi việc họ làm. Mặc dù cảm xúc này không thể được coi là một tâm tính bại hoại, nhưng nó đã gây ra một tác động tiêu cực nghiêm trọng; nó gây tổn hại nghiêm trọng đến nhân tính của họ và có tác động tiêu cực lớn đến các loại cảm xúc cũng như lời nói và hành động của nhân tính bình thường của họ, với những hậu quả rất nghiêm trọng. Ảnh hưởng nhỏ của nó là ảnh hưởng đến tính cách, sở thích và chí hướng của họ; ảnh hưởng chính của nó là ảnh hưởng đến mục tiêu và phương hướng của họ trong cuộc đời. Từ nguyên nhân của cảm xúc tự ti này, từ quá trình của nó và từ hậu quả mà nó gây ra cho con người, dù nhìn từ khía cạnh nào đi nữa, đó chẳng phải là điều mà con người nên buông bỏ sao? (Thưa, phải.)” (Cách mưu cầu lẽ thật (1), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật). Đối chiếu bản thân với lời Đức Chúa Trời, tôi nhận ra tác hại của việc sống trong cảm giác tự ti. Tự ti không phải là một cảm xúc đơn giản, mà nó ảnh hưởng trực tiếp đến cách tôi làm người và hành động; nó trói buộc và ràng buộc tôi. Từ khi còn nhỏ, mọi người xung quanh đều nói tôi phản ứng chậm và ăn nói vụng về; đã vậy, bố tôi cũng thường kể cho tôi nghe câu chuyện về chim chậm thì phải bay trước. Dần dần, tôi cũng nghĩ rằng mình sinh ra đã chậm chạp hơn người khác, vì vậy tôi thường giữ im lặng, ngay cả những việc mình có khả năng làm tôi cũng không dám chủ động làm. Lẽ ra việc các anh chị em nhóm họp cùng nhau để thông công sự lĩnh hội và nhận thức về lời Đức Chúa Trời phải là một điều tích cực, nhưng tôi luôn cảm thấy mình ăn nói không tốt, và lo rằng nếu mình căng thẳng mà nói không tốt thì sẽ rất xấu hổ, nên tôi không dám dễ dàng mở miệng thông công. Thỉnh thoảng, ngay cả khi có được chút sự sáng và hiểu biết về lời Đức Chúa Trời, tôi cũng không dám thông công. Thực ra, khi đạt được một số kết quả lúc thực hiện bổn phận thì đó là nhờ sự khai sáng và dẫn dắt của Đức Thánh Linh, và mình nên trao đổi về điều này để có thêm nhiều anh chị em được hưởng lợi từ đó. Tuy nhiên, tôi bị ảnh hưởng bởi cảm giác tự ti và lo rằng nếu mình căng thẳng mà nói không tốt thì sẽ rất xấu hổ; nên tôi chọn cách trốn tránh, đánh mất một cơ hội để rèn luyện. Cảm giác tự ti đã trói buộc tôi, khiến tôi nói gì hay làm gì, cũng bị kìm kẹp. Tôi không thể chủ động gánh vác trọng trách, và lối vào sự sống của tôi cũng chẳng có tiến bộ gì. Khi thấy tác hại của việc sống dưới cảm giác tự ti, tôi đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, cảm giác tự ti đã liên tục trói buộc con từ thời thơ ấu đến khi trưởng thành. Sau khi tin Đức Chúa Trời, con vẫn bị chúng kìm kẹp và không thể thực hiện được bổn phận của mình. Con không muốn tiếp tục sống trong cảm giác tự ti; con muốn xoay chuyển tình thế. Xin Ngài giúp con thoát khỏi những trói buộc của cảm xúc tiêu cực này”.

Sau đó, tôi đọc được lời này của Đức Chúa Trời: “Vậy làm sao ngươi có thể đánh giá và biết chính xác về bản thân mình, đồng thời thoát khỏi cảm xúc tự ti? Ngươi nên lấy lời Đức Chúa Trời làm cơ sở để đạt được hiểu biết về bản thân mình, tìm hiểu nhân tính, tố chất và tài năng của mình như thế nào, và mình có sở trường gì. Ví dụ, giả sử trước đây ngươi thích hát và hát rất hay, nhưng có người cứ chê bai ngươi, coi thường ngươi, nói ngươi không phân biệt được nốt nhạc và hát lạc điệu, nên giờ ngươi cảm thấy mình hát không hay và không còn dám hát trước mặt người khác. Bởi vì những người trần tục, hồ đồ và tầm thường đó đã đưa ra những đánh giá và phán xét không chính xác về ngươi, nên hạn chế những quyền mà nhân tính ngươi xứng đáng được hưởng, và đè nén tài năng của ngươi. Kết quả là, ngươi thậm chí không dám hát một bài hát, và ngươi chỉ đủ can đảm để hát thật to và thoải mái khi chỉ có một mình. Bởi vì ngươi thường cảm thấy bị kìm nén khủng khiếp, nên khi không ở một mình thì ngươi không dám hát một bài hát nào; ngươi chỉ dám hát khi ở một mình, tận hưởng khoảng thời gian khi có thể hát to, hát rõ, và đó là khoảng thời gian tự do, tuyệt vời biết bao! Chẳng phải thế sao? Vì những tổn hại mà người ta đã gây ra cho ngươi, ngươi không biết hoặc không thể thấy rõ những gì ngươi thực sự có thể làm, những gì ngươi giỏi và những gì ngươi không giỏi. Trong tình huống này, ngươi phải đánh giá đúng và đo lường chính xác bản thân theo lời Đức Chúa Trời. Ngươi nên xác định những gì mình đã học được, điểm mạnh của mình nằm ở đâu, và bước ra làm bất cứ điều gì ngươi có thể làm; còn những việc ngươi không làm được, những thiếu sót và khuyết điểm của mình thì ngươi nên tự phản tỉnh và nhận biết, đồng thời cũng nên đánh giá chính xác và biết tố chất của mình như thế nào, tốt hay xấu. Nếu ngươi không thể hiểu hay có nhận biết biết rõ ràng về các vấn đề của chính mình, thì hãy nhờ những người có hiểu biết quanh mình đánh giá ngươi. Cho dù những gì họ nói có chính xác hay không, thì ít nhất nó cũng cho ngươi thông tin để tham khảo và giúp ngươi có đánh giá hoặc sự xác định tính chất cơ bản về bản thân mình. Sau đó, ngươi có thể giải quyết vấn đề về thực chất của cảm xúc tự ti tiêu cực, và dần dần thoát khỏi chúng. Những cảm xúc tự ti như vậy rất dễ giải quyết nếu người ta có thể phân định được nó, tỉnh thức về nó và tìm kiếm lẽ thật(Cách mưu cầu lẽ thật (1), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi đã tìm ra con đường thực hành. Tôi nên dựa vào lời Đức Chúa Trời để đo lường và đánh giá bản thân, chứ không nên bị ảnh hưởng bởi những đánh giá thiếu chính xác của người khác, cũng không nên để chúng chi phối sự xác định vị trí bản thân và phán đoán của mình. Tôi nghĩ đến việc Đức Chúa Trời đã phán rằng tôi có thể hỏi các anh chị em thân quen về đánh giá của họ đối với tôi, rồi sau đó dựa vào lời Đức Chúa Trời để đo lường bản thân một cách khách quan. Vì vậy, tôi đã hỏi một vài chị em thân quen. Họ nói: “Thực ra chị không kém cỏi như chị nói đâu. Bình thường, em thấy chị cũng có sự lĩnh hội riêng về các nguyên tắc liên quan đến bổn phận của mình, và có thể thảo luận một số hiểu biết về lời Đức Chúa Trời. Thỉnh thoảng chị cũng có thể giúp đỡ các anh chị em khác. Chị nên đối đãi đúng đắn với bản thân mình”. Khi nghe các chị em đánh giá về mình, tôi nhận ra rằng tôi không tệ như tôi đã nghĩ. Tôi không thể cứ mãi sống theo những đánh giá sai lầm của người khác, rồi lại tự quy định bản thân một cách tiêu cực. Thực ra, không phải là tôi chẳng có ưu điểm nào cả; dù tính cách của tôi hơi hướng nội và biểu đạt không tốt bằng người khác, nhưng hầu như lúc nào, tôi cũng giải thích rõ ràng được một số điều, tìm ra được những con đường thực hành tốt khi thực hiện bổn phận, và vẫn đóng được một vai trò nào đó. Tôi nên nhìn nhận một cách lý tính về những thiếu sót của mình. Sau đó, mỗi khi lại có những suy nghĩ tiêu cực về bản thân, tôi lại nghĩ: “Khả năng ngôn ngữ của một người là do Đức Chúa Trời định sẵn. Mình không thể cảm thấy thua kém người khác vì những thiếu sót ở phương diện này, để rồi lúc nào cũng bị kìm kẹp. Mình phải có tâm thái đúng đắn, và cố gắng hết sức để làm tốt những việc trong khả năng của mình”.

Một lần nọ, tôi nói với một người chị em về tình trạng của mình. Chị ấy nói vấn đề chính của tôi là quá xem trọng thể diện, và quá quan tâm đến cách người khác nghĩ về mình. Tôi đã tìm đọc những lời của Đức Chúa Trời liên quan đến việc giải quyết tình trạng này. Lời Đức Chúa Trời phán: “Khi bậc trưởng bối trong nhà bảo ngươi ‘Cây sống nhờ vỏ, người sống nhờ thể diện’, chính là để ngươi phải chú trọng chuyện vẻ vang mặt mày, để ngươi sống phải có thể diện, và không làm những việc khiến mình xấu mặt. Vậy câu nói này dẫn dắt người ta theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực? Nó có thể dẫn dắt ngươi đến với lẽ thật không? Nó có thể dẫn dắt ngươi hiểu lẽ thật không? (Thưa, không thể.) Có thể nói rất chắc chắn rằng ‘Không thể’. Đức Chúa Trời yêu cầu người ta phải làm người trung thực. Khi vi phạm, làm chuyện sai, hay là làm chuyện phản nghịch Đức Chúa Trời và làm trái lẽ thật, thì ngươi cần phản tỉnh bản thân, nhận biết sai lầm của mình, còn cần mổ xẻ tâm tính bại hoại của mình, như vậy mới đạt đến sự hối cải đích thực, rồi sau đó hành động theo lời Đức Chúa Trời. Thực hành làm người trung thực thì người ta cần có tâm thái nào? Tâm thái mà người ta nên có này liệu có xung đột với quan điểm ‘Cây sống nhờ vỏ, người sống nhờ thể diện’ không? (Thưa, có.) Xung đột gì? Câu nói ‘Cây sống nhờ vỏ, người sống nhờ thể diện’ là để người ta xem trọng việc sống vẻ vang đẹp đẽ và làm những việc khiến thể diện được vẻ vang, không làm những việc xấu xa không vẻ vang, không phơi bày mặt cực kỳ xấu xí của họ, đừng để mình sống không có thể diện hay tôn nghiêm. Vì thể diện, vẻ vang mặt mày, mà người ta không thể nói mình là thứ chẳng ra gì, càng không thể kể cho người khác biết về những mặt tối tăm và không thể để người khác thấy của mình, bởi vì người ta phải sống có thể diện và tôn nghiêm. Để có tôn nghiêm thì người ta phải có thể diện, để có thể diện thì phải ngụy trang và tô vẽ bản thân. Như thế chẳng phải sẽ xung đột với việc làm người trung thực hay sao? (Thưa, phải.) Khi làm người trung thực, là ngươi đã vứt bỏ câu nói ‘Cây sống nhờ vỏ, người sống nhờ thể diện’. Nếu muốn làm người trung thực, thì đừng xem trọng thể diện; thể diện của con người chẳng đáng một xu. Khi đối diện với lẽ thật, người ta phải vạch trần bản thân, chứ đừng ngụy trang hoặc giả tạo. Người ta phải phơi bày trước Đức Chúa Trời những suy nghĩ thật sự, những chân tướng sự thật như những lỗi lầm đã phạm, những chỗ đã vi phạm các nguyên tắc lẽ thật, vân vân, đồng thời phơi bày những thứ này cho các anh chị em thấy. Đây không phải chuyện sống vì thể diện, mà là chuyện sống để làm người trung thực, sống để mưu cầu lẽ thật, sống để làm một loài thọ tạo đích thực và sống để làm thỏa lòng Đức Chúa Trời và được cứu rỗi. Nhưng khi ngươi không hiểu lẽ thật này, không hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời, thì những thứ mà gia đình hun đúc cho ngươi thường nắm thế chủ đạo trong lòng ngươi. Cho nên, khi làm gì sai thì ngươi che đậy và ngụy trang, nghĩ rằng: ‘Mình không được nói với ai về chuyện này, cũng không cho phép những người biết chuyện này nói gì. Ai mà nói ra thì mình không tha cho đâu. Thể diện của mình là trên hết. Con người không sống vì thể diện thì sống vì cái gì nữa, thể diện quan trọng hơn hết thảy. Mất thể diện là mất hết tôn nghiêm. Cho nên không được có gì nói nấy, phải ngụy trang, phải che đậy, không thì sẽ mất thể diện và tôn nghiêm, cuộc sống sẽ không còn giá trị. Nếu không được ai tôn trọng, thì chỉ là thứ vô giá trị, là rác rưởi.’ Khi thực hành như thế, ngươi có thể làm người trung thực được không? Có thể hoàn toàn mở lòng và mổ xẻ bản thân không? (Thưa, không thể.) Rõ ràng, làm như thế chính là đang tuân theo câu ‘Cây sống nhờ vỏ, người sống nhờ thể diện’ mà gia đình đã hun đúc cho ngươi. Tuy nhiên, nếu ngươi buông bỏ câu nói này để mưu cầu lẽ thật và thực hành lẽ thật, thì nó sẽ không còn tác dụng với ngươi nữa, sẽ không còn là lời cách ngôn và nguyên tắc hành động của ngươi nữa, thay vào đó, ngươi sẽ làm hoàn toàn ngược lại câu nói ‘Cây sống nhờ vỏ, người sống nhờ thể diện’. Ngươi sẽ không sống vì thể diện, vì tôn nghiêm, mà thay vào đó, ngươi sẽ sống để mưu cầu lẽ thật, làm người trung thực, để mưu cầu việc thỏa mãn Đức Chúa Trời và việc làm một loài thọ tạo chân chính. Tuân thủ nguyên tắc này thì ngươi sẽ buông bỏ được những hun đúc của gia đình(Cách mưu cầu lẽ thật (12), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật). Đối chiếu bản thân với lời Đức Chúa Trời, tôi đã hiểu tại sao mình không bao giờ dám mở lòng, hay bày tỏ quan điểm của riêng mình. Vấn đề chính là tôi đã bị ảnh hưởng bởi những độc tố của Sa-tan như “Cây sống nhờ vỏ, người sống nhờ thể diện” và “Chim đi để tiếng, người đi để danh”. Tôi xem trọng thể diện của mình hơn bất cứ điều gì khác, và nghĩ rằng nếu bị mất mặt thì cũng mất đi tôn nghiêm. Tôi phản ứng chậm và khả năng ngôn ngữ không tốt, nên tôi cảm thấy mình thấp kém hơn người khác và rất tự ti. Tôi dễ bị căng thẳng khi nói chuyện trước nhiều người, sợ rằng nếu không thể biểu đạt tốt thì các anh chị em sẽ xem thường mình, nên tôi cứ im lặng cho xong. Lẽ ra khi tôi có những phương pháp hay trong việc thực hiện bổn phận, tôi nên chia sẻ với các anh chị em, không chỉ để giúp đỡ họ, mà còn để nâng cao kết quả và hiệu quả trong công tác. Tuy nhiên, để giữ gìn thể diện của mình, tôi đã từ chối và viện cớ hết lần này đến lần khác; tôi nhận ra mình đã quá xem trọng thể diện, làm gì cũng chỉ nghĩ cho bản thân trước. Tôi thực sự quá ích kỷ và đê tiện! Tâm ý của Đức Chúa Trời là muốn con người làm người trung thực và học cách mở lòng về bản thân, thậm chí đối với những thiếu sót và khuyết điểm của chính mình cũng nên phơi bày ra, không nên che đậy và ngụy trang. Khi đã hiểu được tâm ý và yêu cầu của Đức Chúa Trời, tôi đã cầu nguyện với Ngài: “Lạy Đức Chúa Trời. Con không muốn lúc nào cũng bị thể diện trói buộc và kìm kẹp. Con muốn thoát khỏi những cảm xúc tiêu cực của sự tự ti này. Xin Ngài dẫn dắt để con có thể thực hành lẽ thật”.

Có một lần, vì tôi đạt được một số kết quả khi thực hiện bổn phận, nên lúc tổng kết công tác, người phụ trách đã yêu cầu tôi chia sẻ về điều đó. Vừa nghĩ đến việc phải thông công trước đám đông, tôi lại thấy hơi run. Tôi vừa định từ chối, thì đột nhiên nhận ra rằng những hoàn cảnh xảy đến với mình mỗi ngày đều có sự cho phép của Đức Chúa Trời. Đây là Đức Chúa Trời đang cho tôi một cơ hội để thực hành lẽ thật, và tôi nên đối mặt với nó. Tôi nhớ lại một đoạn lời của Đức Chúa Trời: “Nếu ngươi cho phép khiếm khuyết và khuyết điểm của mình cùng tồn tại với ngươi, thì ngươi sẽ cho phép sự tồn tại của chúng, ngay cả khi người khác thấy khiếm khuyết của ngươi, thì chuyện đó có khi còn có ích cho ngươi, cũng là một sự bảo vệ cho ngươi, ngăn ngươi khỏi kiêu ngạo và tự đại. Đương nhiên, đối với nhiều người, bộc lộ khiếm khuyết của mình là một việc cần đến dũng khí. Một số người nói: ‘Người ta đều bộc lộ điểm mạnh và ưu điểm của mình. Ai lại cố ý bộc lộ điểm yếu và khiếm khuyết của bản thân chứ?’. Nhưng đó không phải là cố ý bộc lộ, mà là cho phép chúng bộc lộ. Chẳng hạn như, ngươi nhút nhát, nói chuyện ở chỗ đông người thì thường thấy hồi hộp, thế là ngươi chủ động bảo người ta: ‘Khi nói chuyện, tôi rất dễ bị hồi hộp, mọi người thông cảm cho tôi nhé, đừng bới móc khuyết điểm của tôi là được’. Ngươi chủ động bộc lộ khuyết điểm và khiếm khuyết của mình cho mọi người, để mọi người thông cảm và bao dung cho ngươi, để mọi người hiểu rõ ngươi, mà mọi người càng hiểu rõ ngươi thì lòng ngươi càng bình thản, càng không bị các khuyết điểm và khiếm khuyết đó kìm kẹp. Như vậy thì ngược lại còn đem đến ích lợi và sự giúp đỡ cho ngươi. Ngươi luôn che đậy khiếm khuyết và khuyết điểm của mình, thì chứng tỏ ngươi không muốn cùng tồn tại với chúng. Nếu ngươi cho phép chúng cùng tồn tại với mình, thì ngươi phải bộc lộ chúng ra, đừng cảm thấy mất mặt, nhụt chí, cũng đừng cảm thấy mình thua người một bậc hay thấy bản thân không ra gì và không có hy vọng được cứu rỗi. Chỉ cần ngươi có thể mưu cầu lẽ thật, có thể đạt đến mức hết lòng, hết sức và hết trí để làm bổn phận theo nguyên tắc, có tấm lòng chân thành và không qua loa chiếu lệ đối với Đức Chúa Trời, thì ngươi sẽ có hy vọng được cứu rỗi(Cách mưu cầu lẽ thật (3), Lời, Quyển 7 – Về việc mưu cầu lẽ thật). Qua lời Đức Chúa Trời, tôi nhận ra rằng nếu người ta có một số thiếu sót và vấn đề, thì Đức Chúa Trời sẽ không định tội họ, và điều đó không có nghĩa là họ thua kém người khác. Đức Chúa Trời hy vọng chúng ta có thể đối xử đúng đắn với những thiếu sót của chính mình, và cho phép chúng cùng tồn tại với chúng ta. Nếu chúng ta che đậy những thiếu sót của mình vì sợ bị người khác xem thường, thì đó là sự ngụy trang và lừa dối, và chúng ta sẽ bị kìm kẹp trong mọi việc, không thể phát huy hết ngay cả những việc mà mình có thể làm. Tôi bẩm sinh đã hướng nội, và dễ bị căng thẳng khi ở gần nhiều người; khả năng biểu đạt của tôi cũng kém. Điều này là do Đức Chúa Trời định sẵn. Tôi không nên lúc nào cũng nghĩ về việc làm thế nào để không bị căng thẳng khi nói hoặc phải làm gì với khả năng biểu đạt kém của mình. Tôi nên hướng về Đức Chúa Trời và thực hành làm một người trung thực, thành thật chia sẻ về cách mình đã phối hợp và những trải nghiệm của bản thân. Chỉ cần tôi cố gắng hết sức để làm tốt là được rồi. Tôi thầm cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, con không muốn suy xét cho thể diện của mình. Con chỉ muốn xem cuộc chia sẻ này như một cơ hội để thực hành lẽ thật và làm một người trung thực. Xin Ngài dẫn dắt con!”. Vì vậy, tôi đã chia sẻ với mọi người về những trải nghiệm của mình trong khoảng thời gian này và những gì mình gặt hái được khi thực hiện bổn phận. Mặc dù đôi lúc có hơi căng thẳng, nói không được trôi chảy cho lắm, nhưng tôi đã không bị điều này kìm kẹp, và cảm thấy lòng mình thật sự được giải thoát. Lời Đức Chúa Trời đã khiến tôi phản tỉnh và hiểu rõ bản thân. Dần dần, tôi đã thoát khỏi sự trói buộc và kìm kẹp của cảm giác tự ti, và có thể thực hiện bổn phận với một thái độ chủ động và tích cực. Tạ ơn Đức Chúa Trời!

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger