Phản tỉnh về việc không làm công tác thực tế

22/10/2025

Bởi Hứa Ngôn, Trung Quốc

Tháng 5 năm 2023, tôi phụ trách công tác bài giảng. Đến giữa tháng 10, một trưởng nhóm bị cách chức vì không làm công tác thực tế, sau đó anh Lý Chí được chọn lên thay. Lúc đó, lãnh đạo đã đặc biệt viết thư nhắc nhở tôi, nói rằng anh Lý Chí có tố chất trung bình, thiếu năng lực công tác, và bảo tôi phải giúp đỡ, dìu dắt anh ấy nhiều hơn. Thế là ngay hôm đó, tôi viết thư cho anh Lý Chí, giới thiệu tình hình cụ thể của các thành viên, chỉ ra những vấn đề cấp bách cần giải quyết trong nhóm, và bảo anh ấy phải phân thứ tự ưu tiên mà làm việc. Anh Lý Chí hồi âm rằng, ban đầu anh thấy tố chất mình kém, có quá nhiều thiếu sót, không gánh vác nổi bổn phận trưởng nhóm, nhưng sau khi đọc lời Đức Chúa Trời thì tình trạng đã được xoay chuyển, và anh cũng đã lập kế hoạch cho công tác sắp tới. Tôi thầm nghĩ: “Anh Lý Chí có chút lối vào sự sống. Tuy năng lực công tác còn yếu kém, nhưng chỉ cần con người đúng đắn thì có thiếu sót cũng không đáng sợ, mình có thể dìu dắt, giúp đỡ anh ấy nhiều hơn”. Tôi cảm thấy chỉ cần anh ấy nắm vững một số nguyên tắc và có thêm kinh nghiệm công tác thì sẽ ổn thôi. Sau đó, tôi theo dõi công tác của anh Lý Chí khá sát sao. Những đề xuất tôi đưa ra, anh đều có thể tiếp nhận, và cũng phản hồi kịp thời về các chi tiết công tác.

Hơn một tháng sau, anh Lý Chí dần tìm được ba nhân sự làm công tác văn tự, tất cả đều có chút tố chất. Tôi cảm thấy rất vui, nghĩ rằng: “Trước đây mình mãi không tìm được người, không ngờ anh Lý Chí vừa đến đã tìm được người phù hợp. Xem ra năng lực công tác của anh Lý Chí cũng không quá tệ”. Tôi nghĩ đến việc dạo gần đây mình phụ trách công tác của ba nhóm và bồi dưỡng nhân sự, ngày nào cũng bận tối mắt tối mũi. Giờ anh Lý Chí về cơ bản đã quen tay với công tác rồi, tôi có thể thả lỏng một chút. Thế là, tôi không còn theo dõi công tác sát sao nữa. Nửa tháng sau, tôi phát hiện nhóm do anh Lý Chí phụ trách không nộp bài giảng nào. Tôi có chút khó hiểu: “Anh Lý Chí nói ba chị em mới vào nhóm đều có chút tố chất, vậy tại sao hiệu quả bổn phận của họ không có chút tiến triển nào? Lẽ nào do họ mới rèn luyện nên chưa nắm vững nguyên tắc?”. Nghĩ vậy, tôi liền đi kiểm tra tình hình sàng lọc bài giảng của nhóm, và thấy anh Lý Chí có thể nhận ra một số vấn đề trong các bài giảng, công tác cũng không có sai lệch rõ ràng. Tôi nghĩ: “Kết quả công tác thuộc phạm vi do anh Lý Chí phụ trách vốn đã kém, không thể mong có kết quả ngay được. Có lẽ một thời gian nữa sẽ tốt hơn thôi”. Lúc đó, tôi cũng từng nghĩ: “Mình có nên tìm hiểu sâu hơn không?”. Nhưng vừa nghĩ đến việc nếu tìm hiểu ra vấn đề thì sẽ phải tốn không ít thời gian để giải quyết, mà mình còn phải theo dõi công tác của hai nhóm khác, tôi thấy nếu việc nào mình cũng tham gia thì sẽ mệt chết mất! Sau khi suy đi tính lại, cuối cùng tôi vẫn quyết định để anh Lý Chí tự tìm hiểu và giải quyết. Có lần, tôi biết được một trong ba chị em mới được điều đến là Lục Viễn có thái độ chống đối với việc anh Lý Chí theo dõi và giám sát, chị ấy cảm thấy việc liên tục hỏi thăm tiến độ công tác là làm lãng phí thời gian của mình, thậm chí còn bày tỏ quan điểm này trước mặt người khác. Tôi biết thái độ của chị ấy là không đúng và sẽ ảnh hưởng đến công tác bài giảng, nhưng tôi đã không tìm hiểu sâu hơn để giải quyết, mà chỉ bảo anh Lý Chí thông công với chị Lục Viễn. Sau đó, anh Lý Chí phản hồi rằng chị Lục Viễn đã thực hiện bổn phận bình thường, nên tôi đã không theo dõi và tìm hiểu thêm nữa.

Thoáng chốc đã đến giữa tháng 12, tôi thấy nhóm do anh Lý Chí phụ trách vẫn nộp rất ít bài giảng. Tôi nhận ra có điều không ổn, bèn vội viết thư hỏi thăm tình hình của anh Lý Chí. Anh ấy nói tình trạng của mình không tốt, mấy anh chị em đều nói anh không làm được công tác thực tế, không giải quyết được khó khăn trong bổn phận của họ, và đang định báo cáo anh ấy… Lúc đó, tôi sững sờ. Rõ ràng trước đó anh ấy có thể làm được một số công tác, sao đột nhiên lại đến mức bị báo cáo chứ? Tôi cảm thấy hơi sợ hãi, cảm thấy công tác của nhóm này ra nông nỗi này là do suốt thời gian qua mình đã không làm công tác thực tế, trách nhiệm này mình không thể chối bỏ được. Tôi vội đến nhóm để tìm hiểu tình hình. Không ngờ, anh Lý Chí cảm thấy tố chất mình kém, không thể làm trưởng nhóm, nên đã nhận trách nhiệm và từ chức. Dù lãnh đạo có thông công và giúp đỡ thế nào cũng vô ích. Sau khi anh Lý Chí rời đi, tôi phát hiện nhóm do anh phụ trách có cả đống vấn đề. Chị Lục Viễn luôn trút ra sự tiêu cực. Chị ấy cho rằng việc anh Lý Chí giám sát và kiểm tra công tác là lãng phí thời gian của chị ấy, khiến anh Lý Chí không thể theo dõi công tác bài giảng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả công tác. Ba chị em mới được điều đến thì tự do tản mạn trong bổn phận, làm việc không có kế hoạch, hễ gặp khó khăn là đùn đẩy hết cho anh Lý Chí. Nhưng anh Lý Chí chưa bao giờ đề cập đến thái độ làm bổn phận của họ, cũng không phản ánh lên cấp trên. Cứ để họ làm việc cho qua ngày như vậy. Biết được những chuyện này, tôi chết lặng. Chỉ trong ba tháng, anh Lý Chí đã khiến công tác ra nông nỗi này, các thành viên trong nhóm thì qua loa chiếu lệ nghiêm trọng trong bổn phận – vậy mà tôi không hề hay biết chút nào về những vấn đề này, khiến công tác bài giảng bị đình trệ. Tôi hối hận vì đã không để tâm hơn! Sau đó, tôi cách chức những người không phù hợp trong nhóm và điều chỉnh một số nhân sự mới, công tác mới dần dần có khởi sắc.

Sau sự việc này, tôi cảm thấy rất tự trách. Tôi biết rõ tố chất của anh Lý Chí ở mức trung bình, năng lực công tác cũng không tốt lắm, vậy tại sao tôi lại có thể buông lỏng và bỏ mặc công tác của nhóm này chứ? Nếu lúc đầu tôi chú trọng theo dõi và tìm hiểu công tác, thì đã có thể phát hiện sớm vấn đề của anh Lý Chí, không đến nỗi gây ra hậu quả như vậy. Công tác ra nông nỗi này chính là sự tỏ lộ cho việc tôi không làm công tác thực tế. Trong thời gian đó, tôi thường tìm đọc những lời của Đức Chúa Trời vạch trần các lãnh đạo giả. Trong đó, có một đoạn đặc biệt nhắm vào tình trạng của tôi. Đức Chúa Trời phán: “Lãnh đạo giả không bao giờ tìm hiểu và theo sát tình hình công tác của người phụ trách các nhóm, cũng không tìm hiểu, theo sát hay nắm rõ tình trạng lối vào sự sống của người phụ trách các nhóm và người gánh vác công tác quan trọng của các nhóm, cùng thái độ của họ đối với công tác của hội thánh và bổn phận, cả thái độ của họ đối với việc tin Đức Chúa Trời, đối với lẽ thật và Đức Chúa Trời. Lãnh đạo giả không tìm hiểu xem họ có chuyển biến hay tiến bộ gì không, cũng không tìm hiểu các loại vấn đề mà họ gặp phải trong công tác. Nhất là việc họ để xảy ra sai lầm hay lệch lạc trong các khâu công tác gây ra ảnh hưởng gì cho công tác của hội thánh và lối vào sự sống của dân được Đức Chúa Trời chọn, và những sai lầm hay lệch lạc này có được xoay chuyển hay không, lãnh đạo giả hoàn toàn không biết gì về những tình hình này. Nếu không hiểu rõ về những tình hình chi tiết này thì một khi xuất hiện vấn đề, lãnh đạo giả sẽ rất bị động. Nhưng khi làm công tác, lãnh đạo giả căn bản là không quan tâm đến những vấn đề chi tiết này. Họ cho rằng sắp xếp xong người phụ trách các nhóm và giao phó công tác xong thì hết chuyện, coi như đã làm tốt công tác, nếu sau đó có xảy ra vấn đề gì thì không liên quan đến họ nữa. Vì lãnh đạo giả không làm được tác dụng giám sát, chỉ đạo và theo sát đối với người phụ trách các nhóm, không làm tròn trách nhiệm ở những khía cạnh đó, nên kết quả là làm hỏng công tác của hội thánh. Đây chính là sự tắc trách của lãnh đạo và người làm công. Đức Chúa Trời có thể dò xét tận đáy lòng của con người, còn con người thì không có năng lực này, vì thế khi làm công tác, người ta phải chịu khó một chút, để tâm nhiều hơn. Họ nên thường xuyên đến địa điểm công tác để theo sát, giám sát, và chỉ đạo thì mới có thể đảm bảo công tác của hội thánh được tiến triển bình thường. Rất rõ ràng là khi làm công tác, lãnh đạo giả không hề có trách nhiệm. Đối với các hạng mục công tác, từ đầu đến cuối, họ đều không giám sát, theo sát hay chỉ đạo, dẫn đến việc một số người phụ trách để xảy ra các loại vấn đề trong khi làm công tác mà không biết cách giải quyết, căn bản là không đủ sức đảm nhiệm công tác nhưng vẫn đảm nhiệm vai trò người phụ trách, cuối cùng khiến cho công tác bị chậm trễ thêm hết lần này đến lần khác, và làm hỏng công tác. Đây chính là hậu quả của việc lãnh đạo giả không tìm hiểu, không giám sát và không theo sát tình hình của người phụ trách, hoàn toàn là vì sự tắc trách của lãnh đạo giả mà ra(Chức trách của lãnh đạo và người làm công (3), Lời, Quyển 5 – Chức trách của lãnh đạo và người làm công). Đức Chúa Trời phán rằng các lãnh đạo giả vô trách nhiệm trong bổn phận và không làm công tác thực tế. Sau khi chọn được người phụ trách, họ nghĩ rằng mọi việc đã ổn thỏa và có thể khoanh tay đứng nhìn được rồi. Vì vậy, họ không tìm hiểu hay nắm bắt chi tiết của các hạng mục công tác. Họ thậm chí không biết liệu người phụ trách hay những người làm bổn phận có thực sự đủ năng lực hay không, hoặc công tác có bị đình trệ hay không, việc này gây tổn hại nghiêm trọng cho công tác. Đây chính là một lãnh đạo giả chính hiệu. Tôi chính là loại lãnh đạo giả mà Đức Chúa Trời nói đến. Sau khi anh Lý Chí được chọn làm nhóm trưởng, tôi thấy anh ấy tìm được ba nhân sự làm công tác văn tự, cộng thêm khi trao đổi công tác với anh, thái độ của anh luôn khá tốt. Thế là tôi nghĩ anh Lý Chí làm việc rất chắc chắn, có thể yên tâm giao phó công tác cho anh ấy. Sau đó, tôi trở thành một kẻ quan liêu, không giám sát hay theo dõi công tác của anh. Kết quả là, tôi không biết anh Lý Chí đang gặp khó khăn trong bổn phận, cũng hoàn toàn không hay biết các thành viên trong nhóm đang không chuyên tâm vào việc chính đáng và qua loa chiếu lệ trong bổn phận. Tôi biết công tác bài giảng của nhóm họ liên tục không có kết quả, nhưng vì sợ nếu tìm hiểu chi tiết thì sẽ phải tốn thời gian và công sức giải quyết vấn đề, nên tôi đã để anh Lý Chí tự xử lý. Hơn nữa, chị Lục Viễn không cho người khác giám sát công tác của mình, lại còn xả sự tiêu cực của mình ra với mọi người trong nhóm, chị ấy đã gây cản trở cho công tác bài giảng. Tôi đã không vạch trần vấn đề của chị ấy mà lại để anh Lý Chí giải quyết, sau đó cũng không theo dõi kết quả giải quyết thế nào. Điều này dẫn đến vấn đề vẫn không được giải quyết, chị Lục Viễn không đóng vai trò tích cực trong nhóm, ảnh hưởng đến tiến độ công tác. Thấy vậy, tôi nhận ra mình quả thực là một lãnh đạo giả. Việc thực hiện bổn phận của tôi chỉ toàn là vi phạm.

Sau đó, tôi phản tỉnh: “Điều gì đã khiến mình tin tưởng anh Lý Chí đến vậy?”. Tôi đọc được lời Đức Chúa Trời: “Đối với người phụ trách không làm công tác thực tế và không chuyên tâm vào việc chính đáng, lãnh đạo giả không bao giờ hỏi han. Họ cho rằng sau khi chọn người phụ trách xong thì hết chuyện, sau này những chuyện liên quan đến công tác chỉ cần có người phụ trách xử lý là được. Thỉnh thoảng họ chỉ cần tổ chức nhóm họp, cũng không cần giám sát hay hỏi han về tình hình công tác. Họ sẽ trở thành một ông chủ ngồi không hưởng lợi. … Bản thân họ không làm được công tác thực tế, cũng không cẩn thận kiểm tra công tác của trưởng nhóm và người phụ trách, không theo dõi tiến độ mà cũng không hỏi han. Họ nhìn nhận mọi người bằng ấn tượng và tưởng tượng của riêng mình. Thấy ai nhất thời làm tốt, thì họ tin rằng người này sẽ mãi mãi tốt, sẽ không thay đổi; ai nói người này có vấn đề họ cũng không tin, ai cảnh tỉnh chuyện gì họ cũng mặc kệ. Các ngươi nói xem, loại lãnh đạo giả này có ngu xuẩn không? Họ ngu xuẩn mà còn ngoan cố. Điều gì khiến họ ngu xuẩn? Họ tùy tiện đặt niềm tin vào người ta, cho rằng vì khi họ chọn người này, người này đã thề nguyện, và đã lập quyết chí, đã mặt mày giàn giụa nước mắt mà cầu nguyện, thì điều đó nghĩa là họ đáng tin cậy, để họ phụ trách công tác thì chắc chắn sau này sẽ không xuất hiện vấn đề gì. Lãnh đạo giả không hiểu rõ bản tính của con người; không biết về tình hình thực tế của nhân loại bại hoại. Họ nói: ‘Một người được tuyển chọn làm người phụ trách, làm sao còn có thể trở nên xấu xa được chứ? Một người có vẻ rất nghiêm túc và đáng tin cậy, làm sao lại bỏ ngang công tác được chứ? Họ sẽ không như vậy, phải không? Họ có đầy nhân cách mà’. Bởi vì lãnh đạo giả quá tin tưởng vào tưởng tượng và cảm giác của bản thân, cuối cùng dẫn đến việc rất nhiều vấn đề nảy sinh trong công tác của hội thánh mà họ không thể giải quyết kịp thời, cũng không kịp thời cách chức và điều chỉnh người có liên đới trách nhiệm. Họ là những lãnh đạo giả chính cống. … Các lãnh đạo giả còn có một điểm chí mạng nữa, đó là họ dễ dàng dựa trên tưởng tượng của mình mà tin tưởng người nào đó. Đây chẳng phải do họ không hiểu lẽ thật sao? Lời Đức Chúa Trời vạch rõ thực chất của nhân loại bại hoại thế nào? Đức Chúa Trời đâu có tin tưởng con người, họ dựa vào cái gì mà tin vậy? Có phải lãnh đạo giả quá kiêu ngạo và tự cho mình là đúng không? Họ cho rằng: ‘Tôi không thể nhìn nhầm người, người mà tôi đã nhìn trúng thì sẽ không để xảy ra sai sót gì được. Người này tuyệt đối không phải là người ăn uống chơi bời, ham ăn biếng làm. Họ tuyệt đối có thể cậy dựa và đáng tin. Họ sẽ không thay đổi; nếu họ thay đổi thì chẳng lẽ mình đã nhìn nhầm à?’. Đây là loại lôgic gì vậy? Ngươi là cao nhân gì sao? Ngươi có đôi mắt nhìn xuyên thấu sao? Ngươi có bản lĩnh này không? Ngươi có thể sống với người này trong một hoặc hai năm, nhưng nếu không có hoàn cảnh thích hợp để tỏ lộ triệt để thực chất bản tính của họ, thì ngươi có thể nhìn thấu họ không? Nếu họ không bị Đức Chúa Trời tỏ lộ, ngươi có thể sống bên cạnh họ ba năm, năm năm, mà vẫn rất khó nhìn thấu được thực chất bản tính của họ rốt cuộc là gì, huống hồ là đối với người mà ngươi không thường xuyên gặp mặt, không sống cùng một chỗ! Chỉ dựa vào ấn tượng nhất thời hoặc nghe ai đó nói vài câu đánh giá tốt về người đó mà đã tùy tiện tin tưởng họ, dám giao phó công tác của hội thánh cho họ. Như vậy, chẳng phải họ quá mù quáng rồi sao? Chẳng phải họ làm xằng làm bậy sao? Và khi làm việc như vậy thì chẳng phải lãnh đạo giả cực kỳ vô trách nhiệm sao?(Chức trách của lãnh đạo và người làm công (3), Lời, Quyển 5 – Chức trách của lãnh đạo và người làm công). Sau khi đọc lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu được tại sao mình lại mù quáng và vội vàng tin người. Căn nguyên là do tôi không hiểu lẽ thật lại còn rất kiêu ngạo, và tôi đã đánh giá người khác theo quan niệm và tưởng tượng của mình. Tôi cho rằng một người có thể làm công tác thực tế chỉ vì họ có biểu hiện tốt trong chốc lát. Điều này khiến tôi quá tin người và lơ là việc giám sát, theo dõi công tác. Thực ra, lãnh đạo đã nhắc nhở tôi rằng tố chất và năng lực công tác của anh Lý Chí không tốt lắm, và bảo tôi phải theo dõi chi tiết công tác nhiều hơn, cũng như hướng dẫn anh ấy nhiều hơn trong công việc. Nhưng vì anh Lý Chí đã tìm được ba nhân sự làm công tác văn tự và có thể nhận ra một số vấn đề trong các bài giảng, nên tôi đã thay đổi cách nhìn về anh ấy, nghĩ rằng anh có chút năng lực công tác và tố chất cũng không quá tệ. Sau đó, tôi đã buông lỏng đối với công tác của anh, dẫn đến sự trì hoãn trong công tác. Khi thực sự nghĩ lại, tôi nhận ra hai trong ba thành viên đó là do lãnh đạo cung cấp, còn anh Lý Chí chỉ chịu trách nhiệm sắp xếp bổn phận cho họ, chứ không phải do anh ấy tự mình phát hiện qua việc bồi dưỡng nhân sự. Hơn nữa, lý do anh ấy có thể nhận ra một số vấn đề trong các bài giảng là vì anh đã tập luyện viết bài giảng, và có thể nắm bắt một số nguyên tắc. Nhưng khi nói đến việc dùng lẽ thật để giải quyết vấn đề, chẳng hạn như giải quyết tình trạng của các thành viên trong nhóm và thái độ của họ đối với bổn phận, thì anh ấy đành chịu, không làm được. Tôi đã không đánh giá người khác theo các nguyên tắc lẽ thật, lại còn tham hưởng an nhàn, không muốn chịu khổ hay trả giá, không theo dõi hay hướng dẫn chi tiết công tác của anh Lý Chí. Cuối cùng, điều này đã gây tổn hại cho công tác. Phản tỉnh đến đây, tôi cảm thấy vừa tự trách vừa hối hận. Tôi nhận ra mình thực sự đã mù cả mắt lẫn lòng.

Sau đó, tôi tìm đọc những lời của Đức Chúa Trời về cách làm công tác thực tế. Đức Chúa Trời phán: “Bất kể lãnh đạo hay người làm công làm công tác quan trọng nào, bất kể tính chất của công tác này là gì, thì ưu tiên số một của họ cũng là hiểu rõ và nắm rõ hiện trạng công tác. Họ phải có mặt trực tiếp để theo sát và hỏi han, đích thân nắm rõ thông tin trực tiếp. Họ không được chỉ nghe tin truyền miệng, hoặc nghe báo cáo của người khác; thay vào đó, họ phải tận mắt quan sát tình hình nhân sự, tình hình tiến triển của công tác, hiểu rõ chỗ nào có khó khăn, có chỗ nào trái với yêu cầu của Bề trên hay không, có vấn đề làm trái nguyên tắc, gây gián đoạn và nhiễu loạn không, có thiếu thiết bị hay tài liệu hướng dẫn cần thiết cho công tác nghiệp vụ hay không – họ phải nắm rõ những điều này như lòng bàn tay. Bất kể nghe người ta báo cáo bao nhiêu, nghe tin truyền miệng được bao nhiêu, thì đều không bằng đích thân đi xem tận mắt. Tận mắt chứng kiến thì sẽ chính xác và đáng tin cậy hơn; một khi họ đã quen với tình hình, họ sẽ nắm bắt tốt về những gì đang diễn ra. Nhất là đối với những người có tố chất tốt và đáng để bồi dưỡng thì càng phải nắm bắt cho chuẩn và rõ ràng mới có thể bồi dưỡng và dùng người cho chuẩn xác, đây là điều mấu chốt để làm tốt công tác(Chức trách của lãnh đạo và người làm công (4), Lời, Quyển 5 – Chức trách của lãnh đạo và người làm công). Đức Chúa Trời phán rằng để làm tốt công tác thực tế, điều cốt yếu là không được nuông chiều xác thịt và không chỉ nghe báo cáo của người khác. Chúng ta phải đích thân tham gia, đi sâu vào nơi làm việc, và tìm hiểu rõ chi tiết công tác. Chúng ta cũng phải đích thân tham gia giải quyết vấn đề. Sau một thời gian, chúng ta phải theo dõi kết quả công tác, chứ không thể chỉ triển khai mà không theo dõi, phải đạt được mục tiêu là phát hiện vấn đề liền giải quyết vấn đề. Thế là tôi thầm cầu nguyện với Đức Chúa Trời, nói rằng mình sẽ không làm quan liêu nữa. Sau đó, tôi bắt đầu tập trung vào công tác chi tiết, đích thân hỏi han một số vấn đề và tìm cách giải quyết chúng. Lúc đó, công tác bài giảng của nhóm do chị Tô Tĩnh phụ trách cũng không có kết quả gì. Khi tôi đến tìm hiểu công tác, chị ấy báo cáo rằng mình đã làm công tác thực tế ra sao, đã chịu khổ và trả giá thế nào. Nghe báo cáo thì có vẻ chị Tô Tĩnh đã làm rất nhiều việc, nhưng điều này không tương xứng với kết quả công tác, nên tôi đã bắt đầu tìm hiểu chi tiết công tác. Tôi phát hiện chị Tô Tĩnh rất coi trọng danh tiếng và địa vị, khi báo cáo công tác chỉ báo tin tốt mà không báo tin xấu. Khi tôi hỏi về chi tiết công tác, chị ấy luôn lảng tránh những vấn đề then chốt. Sau nhiều lần điều tra và tìm hiểu, tôi xác định rằng chị Tô Tĩnh không có năng lực công tác, nên đã cách chức chị ấy. Vì lúc đó chưa tìm được người phù hợp làm nhóm trưởng, nên tôi đã tự mình đảm nhận một số công tác chi tiết. Qua hai tháng thực sự tham gia và theo dõi công tác, kết quả công tác bài giảng đã được cải thiện. Tôi đã nếm trải được vị ngọt của việc làm công tác thực tế.

Thoáng chốc đã đến tháng tư. Công tác của ba nhóm tôi phụ trách dần có tiến triển, và chúng tôi cũng đã tìm được ứng viên làm trưởng nhóm. Trong lòng tôi thầm tính toán: “Công tác cuối cùng cũng đi vào quỹ đạo, chỉ cần theo dõi đều đặn là được, mình cuối cùng cũng có thể nghỉ ngơi rồi”. Dần dần, tôi chỉ tập trung vào các bài giảng được nộp mỗi ngày, mà không còn chủ động tìm hiểu chi tiết công tác nữa. Một ngày tháng Sáu, tôi xem một video lời chứng trải nghiệm, người anh em trong đó là lãnh đạo hội thánh, phụ trách công tác phúc âm. Anh ấy làm việc rất chi tiết và nắm rõ tình hình của từng đối tượng phúc âm. Đối chiếu với bản thân, tôi nhận ra mình còn kém xa. Đặc biệt là trong nửa tháng qua, chỉ cần có bài giảng được nộp là tôi đã hài lòng, mà không tìm hiểu chi tiết công tác của từng nhóm. Tôi nhận ra mình đã hơi lơ là trong công tác, và nghĩ rằng mình cần phải nhanh chóng xoay chuyển. Sau đó, tôi bắt đầu kiểm tra chi tiết công tác của vài nhóm. Không xem thì thôi, xem rồi mới giật mình. Một nhóm tồn đọng rất nhiều bài giảng chưa được sàng lọc, một nhóm khác thì kết quả công tác giảm sút rõ rệt. Càng kiểm tra, tôi càng phát hiện ra nhiều vấn đề. Tôi rất tức giận với bản thân. Sao mình lại không kìm được mà đi vào con đường của một lãnh đạo giả nữa rồi? Tôi bèn cầu nguyện tìm kiếm, và đọc được một đoạn lời của Đức Chúa Trời: “Còn một loại lãnh đạo giả nữa, đó là loại người mà chúng ta thường xuyên nói đến từ khi thông công về chủ đề ‘chức trách của lãnh đạo và người làm công’ đến nay. Loại người này có chút tố chất, đầu óc không tệ, khi làm công tác thì có phương thức và phương pháp, có phương án giải quyết vấn đề, nếu giao cho họ một công tác, họ có thể thực hiện nó gần đạt đến tiêu chuẩn. Họ có thể phát hiện bất kỳ vấn đề nào xuất hiện trong công tác, cũng có thể giải quyết một số vấn đề; khi nghe thấy vài vấn đề được người khác phản ánh, hoặc quan sát thấy hành vi và biểu hiện, lời nói và cử chỉ của một số người, thì trong lòng họ có phản ứng, họ có quan điểm và cũng có thái độ. Đương nhiên, nếu những người này mưu cầu lẽ thật và biết mang gánh nặng, thì mọi vấn đề này đều có thể được giải quyết. Nhưng về loại người mà chúng ta thông công hôm nay, có những vấn đề nằm trong phạm vi công tác mà họ phụ trách lại không thể được giải quyết, tại sao lại như vậy? Vì những người này không làm công tác thực tế, tham ăn biếng làm, làm qua loa cho có, thích sự nhàn hạ và hưởng thụ lợi ích của địa vị, thích ra lệnh và chỉ tay năm ngón rồi coi như xong chuyện. Hễ là công tác thực tế của hội thánh hay công tác then chốt mà Đức Chúa Trời giao phó, thì họ đều không để tâm – trong lòng họ không có gánh nặng này, cho dù nhà Đức Chúa Trời có nhấn mạnh nhiều lần thì họ vẫn không để tâm. … Vấn đề của loại người này là gì? (Thưa, là quá lười biếng.) Các ngươi nói xem, ai có vấn đề nghiêm trọng: những người lười biếng, hay những người có tố chất kém? (Thưa, những người lười biếng.) Tại sao những người lười biếng lại có vấn đề nghiêm trọng? (Thưa, những người có tố chất kém không làm lãnh đạo hay người làm công được, nhưng họ có thể hiệu quả phần nào khi làm bổn phận phù hợp với khả năng của mình. Những người lười biếng thì không thể làm được gì cả; ngay cả khi có tố chất thì nó cũng chẳng có tác dụng gì.) Những người lười biếng không làm được bất kỳ việc gì. Dùng hai chữ để khái quát thì họ là ‘phế nhân’, là tàn phế cấp độ hai. Dù tố chất của những người lười biếng có tốt cỡ nào thì đó cũng chỉ là cái mã bên ngoài; tố chất tốt của họ cũng chẳng dùng được. Điều này là do họ quá lười biếng, họ biết đúng ra họ phải làm gì, nhưng lại không làm; ngay cả khi biết có vấn đề, họ cũng không tìm kiếm lẽ thật để giải quyết; họ biết phải chịu những cái khổ nào thì mới có thể làm công tác có hiệu quả, nhưng họ không sẵn lòng chịu đựng những cái khổ đáng giá này. Kết quả là, họ không đạt được bất kỳ lẽ thật nào, cũng không làm được bất kỳ công tác thực tế nào. Họ không muốn chịu những cái khổ mà con người nên chịu; họ chỉ biết tham hưởng an nhàn, hưởng thụ những lúc sung sướng nhàn hạ, hưởng thụ cuộc sống tự do và thoải mái. Người như vậy chẳng phải là phế rồi sao? Người không thể chịu khổ thì không đáng sống. Bất cứ ai luôn muốn sống như ký sinh trùng đều là người không có lương tâm hay lý trí; họ là súc sinh, loại người này thậm chí không xứng đem sức lực phục vụ. Bởi vì họ không thể chịu khổ nên hiệu quả đem sức lực phục vụ của họ cũng kém, và nếu họ muốn đạt được lẽ thật thì càng không có hy vọng gì. Người không thể chịu khổ và không yêu thích lẽ thật thì là phế nhân, thậm chí không đạt tiêu chuẩn để đem sức lực phục vụ. Họ là súc sinh, không có chút nhân tính nào. Dạng người này buộc phải bị đào thải, như thế thì mới hợp với tâm ý của Đức Chúa Trời(Chức trách của lãnh đạo và người làm công (8), Lời, Quyển 5 – Chức trách của lãnh đạo và người làm công). Đọc xong sự vạch trần của Đức Chúa Trời về những lãnh đạo giả có tố chất nhưng không thực hiện bổn phận một cách đàng hoàng, lòng tôi run lên. Trước đây, tôi luôn nghĩ mình không quá lười biếng, và chưa bao giờ liên hệ bản thân với người vô dụng mà Đức Chúa Trời vạch rõ. Nhưng lần này, trước sự thật, tôi phải thừa nhận rằng căn nguyên của việc tôi không làm công tác thực tế là do tôi yêu thích sự thoải mái, ghét lao động, tham hưởng an nhàn và quá lười biếng. Nhìn lại thời gian tôi phụ trách công tác của ba nhóm, lúc đầu, tôi có thể gánh vác một chút trách nhiệm, chịu chút khổ và trả chút giá, công tác cũng có chút tiến triển. Nhưng tôi quá quan tâm đến xác thịt, luôn sợ tốn thêm thời gian và công sức sẽ khiến mình mệt mỏi. Vì vậy, khi thấy công tác có chút hiệu quả, lòng tham hưởng an nhàn của tôi lại trỗi dậy, và tôi bắt đầu đùn đẩy công việc cho các nhóm trưởng để mình được thảnh thơi. Bề ngoài, có vẻ như tôi ngày nào tôi cũng làm công tác, nhưng tôi không làm công tác thực tế và chi tiết nào. Tôi biết rõ anh Lý Chí mới bắt đầu rèn luyện, vậy mà tôi vẫn đẩy công tác cho anh ấy. Tôi cũng biết rõ một số thành viên trong nhóm có vấn đề và cần được theo dõi, quan tâm thường xuyên, vậy mà tôi vẫn cứ phủi tay không lo. Đặc biệt là khi người chị em cộng sự bảo tôi phụ trách một nhóm yếu kém, trong lòng tôi đã chống đối và muốn chọn việc nhẹ nhàng hơn. Dù cuối cùng đã đồng ý, nhưng tôi vẫn không cam tâm tình nguyện. Chính vì tham hưởng an nhàn, nên trong bổn phận, tôi chỉ nghĩ đến việc làm sao để xác thịt ít chịu khổ, ít tốn não. Mỗi ngày tôi hài lòng với việc chỉ sàng lọc bài giảng, mà không muốn lao tâm khổ tứ chủ động suy nghĩ về vấn đề của từng nhóm. Tôi thực hiện bổn phận theo kiểu đầu voi đuôi chuột, chỉ thích làm sao cho nhẹ nhàng nhất. Nghĩ lại, Đức Chúa Trời ban cho con người trí óc là để suy ngẫm những việc chính đáng, nhưng tôi lại luôn không muốn động não, không muốn suy nghĩ vấn đề. Hội thánh đã sắp xếp cho tôi một bổn phận quan trọng như vậy, nhưng tôi không nghĩ đến việc làm sao để trả giá để công tác có hiệu quả, thay vào đó, lại vì sự an nhàn của xác thịt mà vô trách nhiệm với bổn phận. Tôi thực sự không có lương tâm, không có nhân tính, chẳng phải tôi chính là người vô dụng mà Đức Chúa Trời nói đến sao? Dù thân thể tôi không tàn tật, nhưng trong bổn phận, tôi đã không dốc hết sức mình, vậy thì tôi chính là một người vô dụng.

Sau đó, tôi bắt đầu tự hỏi: “Việc mình liên tục tham hưởng sự an nhàn của xác thịt cuối cùng sẽ mang lại cho mình điều gì? Việc liên tục chiều chuộng xác thịt có giá trị gì không?”. Tôi đọc được lời Đức Chúa Trời: “Xác thịt của con người giống như con rắn: Bản chất của nó là làm hại sự sống của con người – và khi nó hoàn toàn được theo ý mình, thì sự sống của ngươi sẽ bị tước mất. Xác thịt thuộc về Sa-tan. Bên trong nó luôn có những dục vọng xa xỉ, nó luôn nghĩ cho bản thân nó, luôn muốn tận hưởng sự thoải mái và chìm đắm trong an nhàn, không biết lo lắng hay cấp bách, đắm mình trong sự nhàn rỗi, và khi ngươi đã thỏa mãn nó đến một mức nào đó thì cuối cùng ngươi sẽ bị nó nuốt chửng. Điều đó có nghĩa là, nếu ngươi đáp ứng nó lần này, thì lần sau nó sẽ lại yêu cầu ngươi thỏa mãn nó. Nó luôn có những ham muốn ngông cuồng và những đòi hỏi mới, và lợi dụng sự xuôi theo xác thịt của ngươi để khiến cho ngươi trân trọng nó hơn nữa và sống giữa sự thoải mái của nó – và nếu ngươi không bao giờ vượt qua nó được, ngươi cuối cùng sẽ tự hủy hoại chính mình(Chỉ yêu kính Đức Chúa Trời mới thực sự là tin vào Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Đúng vậy, xác thịt giống như con rắn; được voi đòi tiên. Càng thỏa mãn nó, nó càng không biết đủ, cuối cùng nó có thể nuốt chửng con người. Nghĩ lại một thời gian trước, khi tôi đích thân tham gia công tác, dù xác thịt có hơi mệt mỏi, nhưng khi gặp chuyện, tôi có thể tập trung tìm kiếm lẽ thật để giải quyết, cầu nguyện với Đức Chúa Trời nhiều hơn, phản tỉnh bản thân nhiều hơn. Quan trọng là, trong lúc thực hiện bổn phận, tôi cảm nhận được sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời, tâm hồn tôi bình an, thanh thản, và mối quan hệ của tôi với Đức Chúa Trời cũng bình thường. Nhưng khi tôi chiều theo xác thịt, tôi không còn nghĩ đến việc làm thế nào để hoàn thành tốt bổn phận nữa, mà thay vào đó, tôi nghĩ làm sao để được nghỉ ngơi nhiều hơn, làm sao để đầu óc được thư giãn. Dần dần, khi thấy vấn đề, tôi trở nên không muốn xử lý, thậm chí còn không muốn chủ động giải quyết. Đôi khi tôi còn nghĩ: “Tại sao phải khiến mình mệt mỏi như vậy? Tại sao phải tham gia vào mọi việc, khiến mình mệt mỏi thế này – vậy chẳng phải là ngốc sao?”. Tôi dần dần để cho xác thịt lấn lướt, dẫn đến việc tôi ngày càng thụ động trong bổn phận, làm trì hoãn công tác và vi phạm. Sau khi hiểu ra những điều này, tôi đã có lòng muốn chống lại xác thịt, nên đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời, nguyện ý ăn năn và làm công tác thực tế.

Một ngày nọ, trong lúc tĩnh nguyện, tôi đọc được lời của Đức Chúa Trời: “Hiện tại không có nhiều cơ hội để thực hiện bổn phận, vì vậy khi có thể thì ngươi phải nắm lấy cơ hội. Chính xác là khi đối mặt với một bổn phận, ngươi phải cố gắng hết sức mình; nghĩa là ngươi phải xả thân, dâng mình cho Đức Chúa Trời, và cần phải trả giá. Đừng giữ lại bất cứ điều gì, đừng ủ mưu gì, đừng chừa đường xoay sở hay cho mình một lối thoát. Nếu ngươi chừa đường xoay sở, toan tính hay xảo trá và gian dối, thì ngươi nhất định sẽ làm việc tệ hại(Lối vào sự sống bắt đầu bằng việc thực hiện bổn phận, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Nếu ngươi thực sự có tố chất nhất định, thực sự hiểu nghiệp vụ và không phải là tay mơ trong phạm vi mà ngươi phụ trách, thì ngươi chỉ cần làm được hai chữ là có thể đạt đến có lòng trung thành với bổn phận. Là hai chữ gì? ‘Để tâm’. Nếu ngươi để tâm vào các sự việc, để tâm vào mọi người, thì sẽ có thể trung thành và có trách nhiệm trong bổn phận. Hai chữ ‘để tâm’ này có dễ thực hành không? Ngươi đưa nó vào thực hành như thế nào? Không phải là ngươi dùng tai để nghe hay dùng não để nghĩ, mà là ngươi hãy dùng tấm lòng của mình. Nếu một người thực sự có thể để tâm vào một điều gì đó, thì khi mắt họ nhìn thấy ai đó làm việc gì đó, có những biểu hiện như thế nào đó, hoặc có một dạng phản ứng nào đó đối với điều gì đó, hoặc khi tai họ nghe thấy một vài câu nói hay luận điệu của một số người, thì bằng cách để tâm mà ngẫm nghĩ và suy ngẫm, trong đầu họ và trong tư tưởng họ sẽ nảy sinh một vài cách nghĩ, quan điểm và thái độ. Những cách nghĩ, quan điểm, thái độ đó sẽ làm cho họ hiểu sâu sắc, cụ thể và chuẩn xác hơn về con người hay sự vật, đồng thời sẽ làm nảy sinh những đánh giá và nguyên tắc phù hợp và chính xác. Chỉ khi người ta có biểu hiện để tâm như vậy thì mới có lòng trung thành với bổn phận(Chức trách của lãnh đạo và người làm công (7), Lời, Quyển 5 – Chức trách của lãnh đạo và người làm công). Lời Đức Chúa Trời giúp tôi hiểu rằng để làm tốt bổn phận và làm công tác thực tế, trước tiên tôi phải có ý thức chống lại tâm tính bại hoại của mình và dốc lòng vào bổn phận. Chỉ cần dốc lòng, tôi sẽ có thể phát hiện vấn đề và thực sự giải quyết chúng. Chỉ có như vậy, tôi mới có thể trung thành trong bổn phận, và chỉ khi đó mới được coi là làm công tác thực tế. Nếu tôi không dốc lòng, không muốn nỗ lực hay trả giá, thì khi thấy vấn đề, tôi sẽ không nỗ lực tìm kiếm lẽ thật, thậm chí có thể không phát hiện ra vấn đề, chứ đừng nói đến việc giải quyết, và cuối cùng, tôi sẽ không thể làm tốt bổn phận của mình.

Sau đó, tôi đã trao đổi từng vấn đề trong nhóm với người chị em cộng sự. Chúng tôi đã kiểm tra kỹ lưỡng công tác trong nhóm và phát hiện một số sai lệch và thiếu sót, sau đó tôi đã viết thư để trao đổi một cách thực tế, và dần dần, nhóm đã giải quyết được vấn đề hiệu suất làm bổn phận thấp. Nhưng tôi biết rằng những công việc này không thể giải quyết trong một lần là xong, mà cần phải theo dõi và giám sát liên tục, đây là công việc phải làm lâu dài. Đôi khi, khi công việc chất đống, tôi vẫn bộc lộ tình trạng muốn lười biếng và tránh mệt mỏi, nhưng tôi đã có thể xoay chuyển kịp thời và chống lại xác thịt, làm công tác thực tế dựa trên lời Đức Chúa Trời. Không biết từ lúc nào, công tác bài giảng của các nhóm tôi phụ trách bắt đầu có kết quả rõ rệt, và tôi cảm thấy rất vui. Thực hiện bổn phận như vậy, lòng tôi thấy thật thanh thản.

Sau khi trải nghiệm điều này, tôi nhận ra rằng làm công tác thực tế không khó, chỉ là vấn đề có dốc lòng hay không. Khi bạn đặt đúng ý định của mình – không hướng đến sự thoải mái và an nhàn của xác thịt, mà thay vào đó là suy nghĩ về cách làm công tác thực tế – lòng bạn sẽ tập trung hơn vào những việc đúng đắn, và trong bổn phận, bạn có thể cảm nhận được sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời, và nhìn nhận vấn đề một cách rõ ràng và chính xác hơn. Quan trọng là, thông qua việc làm công tác thực tế, bạn có thể phát hiện ra nhiều vấn đề hơn, có thể rèn luyện bản thân giải quyết vấn đề bằng lẽ thật, và thông qua việc tìm kiếm, bạn cũng có thể hiểu thêm được một khía cạnh khác của các nguyên tắc lẽ thật. Tôi đã nhận ra rằng, làm công tác thực tế mới là con đường dẫn đến sự bình an và thanh thản trong tâm hồn. Tạ ơn Đức Chúa Trời!

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger