Tôi đã không thành thật trong đức tin của mình

31/01/2022

Bởi Michelle, Cameroon

Thuở nhỏ, gia đình tôi từng khá nghèo, và tôi đã mơ ước trở thành giám đốc ngân hàng, có địa vị nhất định trong xã hội, để chúng tôi sẽ không quá khó khăn về chuyện tiền nong. Khi đã tốt nghiệp đại học, và bắt đầu tìm việc, tôi nộp hồ sơ xin việc đi rất nhiều nơi nhưng gặp nhiều khó khăn và chẳng bao giờ tìm được việc mình muốn. Tôi chỉ tìm được những việc trung bình, lương thấp.

Năm 2019, tôi tin nhận công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời Toàn Năng và ít lâu sau thì bắt đầu làm bổn phận chăm tưới trong hội thánh. Tôi đã nghĩ rằng nếu làm hết mình cho Đức Chúa Trời thì chắc chắn Ngài sẽ ban phước cho tôi và giúp tôi tìm được một công việc tốt. Vì vậy, tôi liên tục nộp hồ sơ xin việc trong khi thực hiện bổn phận. Thế rồi vào tháng 6 năm 2021, tôi nhận được cuộc gọi từ một người đại diện công ty, bảo tôi đến phỏng vấn. Tôi đã lên mạng tra cứu về tổ chức đó, thấy rằng đó là một công ty đa quốc gia, và CEO của công ty đó đã đầu tư khắp nơi trên thế giới. Ông ấy sở hữu một ngân hàng khổng lồ là nơi tôi đã hy vọng được vào làm, nhưng những lần phỏng vấn tôi từng có với họ đã chẳng đi đến đâu. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng công ty đó sẽ tìm tôi để phỏng vấn. Đây là một bất ngờ thú vị. Tôi cảm thấy đó là Đức Chúa Trời đang cho tôi một cơ hội, và nếu tôi có thể làm việc tại công ty đa quốc gia đó thì đây là do Đức Chúa Trời ban phước cho tôi. Tôi tự nhủ rằng mình chắc chắn sẽ thành công lần đó và được mức lương quản lý bởi vì Đức Chúa Trời sẽ giúp tôi. Tôi đã rất vui vì cuối cùng cũng có cơ hội giành được công việc mình hằng mơ ước và điều này sẽ giúp tấm bằng Thạc sĩ mà tôi dày công học tập trở nên xứng đáng. Tôi bắt đầu tưởng tượng cuộc sống của mình sẽ thay đổi thế nào trong tương lai, rằng tôi sẽ có nhiều tiền, có nhà riêng và có thể mua bất cứ thứ gì mình muốn. Tôi đã nghĩ mình có thể đi du lịch thế giới và chăm sóc gia đình, đặc biệt là bố mẹ. Tôi đã nghĩ rằng một khi bắt đầu làm việc ở đó, mọi thứ sẽ trở nên tốt hơn. Ở buổi phỏng vấn, tôi thấy có ba ứng viên, và tôi bắt đầu cảm thấy sợ mình sẽ không được chọn, nhưng tôi tự nhủ: “Không đâu, công việc này sẽ là của mình. Mình là con của Đức Chúa Trời và chắc chắn Ngài sẽ ban phước cho mình. Dù thế nào đi nữa, Đức Chúa Trời sẽ dành vị trí này cho mình”. Tôi cũng cảm thấy tự tin vào khả năng của chính mình. Trong buổi phỏng vấn, tôi đã trả lời tất cả các câu hỏi và người phỏng vấn nói rằng nếu tôi trúng tuyển, họ sẽ gọi cho tôi trong vòng năm ngày tới. Tôi cảm thấy tự tin rằng mình sẽ được chọn. Năm ngày sau, tôi thấp thỏm chờ đợi cuộc gọi nhưng cả ngày vẫn không thấy gì. Một tuần trôi qua, tôi vẫn chưa nhận được cuộc gọi từ họ. Tôi nhận ra mình đã rớt phỏng vấn. Tôi rất đau lòng và bắt đầu tự hỏi mình đã làm gì sai và tại sao mình lại thất bại. Tôi đã cậy dựa Đức Chúa Trời và cầu nguyện với Ngài, vậy tại sao tôi lại không thành công? Tôi đã cảm thấy thực sự tiêu cực và yếu đuối và bắt đầu trách móc Đức Chúa Trời. Tôi đã là tín hữu hơn hai năm và thực hiện bổn phận xuyên suốt. Tôi chưa bao giờ chệch lạc khỏi Đức Chúa Trời hay từ bỏ bổn phận của mình. Tại sao Ngài không ban cho tôi ân điển và phước lành? Tôi đã trở nên chán nản và đau khổ hơn, đến mức không tham gia các buổi nhóm họp hay đọc lời Đức Chúa Trời suốt đúng một tuần. Khi các anh chị em liên hệ với tôi, tôi thực sự rất khó chịu và không muốn trả lời hay nói chuyện với họ. Tôi đã chẳng muốn làm bất cứ điều gì, thậm chí ra khỏi nhà. Tôi ngừng làm bổn phận truyền giáo và chia sẻ lời Đức Chúa Trời với các anh chị em. Tôi ở lì trong phòng cả ngày, không có bất kỳ động lực hay mục tiêu nào, thậm chí chẳng muốn ăn. Tôi đã sụt ký chỉ sau vài ngày.

Một ngày nọ, tôi nghe một bài thánh ca lời Đức Chúa Trời: “Điều Đức Chúa Trời muốn trong những sự thử luyện chính là tấm lòng thật của con người”. “Khi Đức Chúa Trời đang thử luyện con người, Ngài muốn tạo ra kiểu hiện thực nào? Ngài không ngừng yêu cầu con người dâng lòng mình cho Ngài. Khi Đức Chúa Trời thử luyện ngươi, Ngài thấy được lòng ngươi ở với Ngài, với xác thịt hay với Sa-tan. Khi Đức Chúa Trời thử luyện ngươi, Ngài thấy được liệu ngươi đang đứng ở vị trí đối nghịch với Ngài hay ở một vị trí tương hợp với Ngài, và Ngài cũng nhìn thấy lòng của ngươi có đứng về phía Ngài hay không. Khi ngươi còn non nớt và đối diện với những sự thử luyện, ngươi ít tự tin, và ngươi không thể biết chính xác ngươi cần phải làm gì để thực hiện những ý định của Đức Chúa Trời, bởi sự hiểu biết của ngươi về lẽ thật còn hạn chế. Tuy nhiên, nếu ngươi vẫn có thể cầu nguyện với Đức Chúa Trời một cách thành thật và chân thành, và nếu ngươi có thể sẵn sàng dâng trọn lòng mình cho Đức Chúa Trời, tôn Ngài là Đấng Tối Cao của ngươi, và sẵn lòng dâng lên Ngài tất cả những gì mà ngươi cho là quý giá nhất, thì ngươi cũng đã dâng lòng mình cho Ngài. Khi ngươi nghe nhiều bài giảng hơn và hiểu thêm về lẽ thật, thì vóc giạc của ngươi sẽ dần dần phát triển. Vào thời điểm này, tiêu chuẩn mà Đức Chúa Trời yêu cầu sẽ không giống như lúc ngươi chưa trưởng thành; Ngài sẽ yêu cầu ngươi một tiêu chuẩn cao hơn. Khi con người dần dần dâng lòng mình cho Đức Chúa Trời, lòng họ từ từ đến gần với Ngài hơn; khi con người có thể thực sự đến gần với Đức Chúa Trời hơn, thì lòng họ sẽ càng tôn kính Ngài hơn bao giờ hết. Điều Đức Chúa Trời muốn chỉ là một tấm lòng như thế(“Theo Chiên Con và hát những bài ca mới”). Nghe xong bài hát đó, tôi đã hiểu rằng khi Đức Chúa Trời kiểm tra con người, Ngài đang quan sát lòng họ – xem họ quan tâm những gì, liệu họ có quy phục Đức Chúa Trời trong hoàn cảnh mà Ngài sắp đặt hay không. Thay vì dâng lòng mình cho Ngài, tôi lại suy nghĩ về cách lợi dụng Ngài để đáp ứng những dục vọng của riêng mình. Khi không nhận được công việc, sự giàu có và những tiện nghi vật chất mà mình muốn, tôi đã trở nên yếu đuối, không muốn tham gia nhóm họp hay thực hiện bổn phận. Đây là phản bội Đức Chúa Trời, và khi rơi vào hoàn cảnh như thế, tôi đã không còn làm chứng cho Đức Chúa Trời. Vì vậy, tôi đã cầu nguyện, “Lạy Đức Chúa Trời Toàn Năng, Ngài đã phơi bày rằng con không tận tâm hay thật lòng với Ngài. Con đã không đứng ra làm chứng cho Ngài hay quy phục Ngài. Lạy Đức Chúa Trời, xin hãy thương xót con. Con muốn ăn năn”.

Tôi đã cảm thấy bình an hơn sau khi cầu nguyện và tôi trả lời tin nhắn của mọi người. Một chị đã hỏi thăm tình hình của tôi và tôi kể hết với chị về những gì mình đã trải qua. Chị ấy gửi cho tôi một đoạn lời Đức Chúa Trời: “Không ai sống cả đời mà không chịu đau khổ. Đối với một số người, điều này liên quan với gia đình, một số người khác thì với công việc, một số khác thì với hôn nhân, và một số khác thì với sự đau bệnh thể chất. Mọi người đều đau khổ. Một số người nói: ‘Tại sao con người phải chịu khổ? Sẽ thật tuyệt khi sống cả cuộc đời chúng ta một cách bình yên và hạnh phúc. Chúng ta không thể không chịu khổ sao?’ Không – mọi người đều phải chịu khổ. Sự đau khổ khiến mọi người trải nghiệm vô số cảm giác của đời sống thể chất, dù là cảm giác tích cực, tiêu cực, chủ động hay bị động; sự đau khổ cho ngươi những cảm giác và sự cảm kích khác nhau, những điều mà đối với ngươi đều là trải nghiệm sống. Nếu ngươi có thể tìm kiếm lẽ thật và hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời từ những điều này, thì ngươi sẽ đến càng gần hơn với tiêu chuẩn mà Đức Chúa Trời yêu cầu ở ngươi. Đó là một phương diện, và nó cũng nhằm làm cho con người giàu kinh nghiệm hơn. Một phương diện khác là trách nhiệm mà Đức Chúa Trời trao cho con người. Trách nhiệm gì? Ngươi phải trải qua sự đau khổ này, phải chịu sự đau khổ này, và nếu ngươi có thể, thì đây là chứng ngôn, và không phải là điều đáng xấu hổ(“Chỉ bằng cách giải quyết những quan niệm của mình, người ta mới có thể bước vào đúng hướng để tin Đức Chúa Trời (1)” trong Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Tôi học được từ lời Đức Chúa Trời rằng mọi người đều gặp khó khăn trong cuộc sống, cho dù họ có là tín hữu hay không, và sự đau khổ là một phần của cuộc sống. Đau khổ không phải là không có giá trị. Nó có thể làm phong phú trải nghiệm của tôi và đưa tôi đến gần Đức Chúa Trời hơn. Tôi có thể đến trước Đức Chúa Trời để tìm kiếm lẽ thật và ý muốn của Ngài. Chúng ta đã bị Sa-tan làm bại hoại quá sâu sắc, tất cả chúng ta đều tham lam tiền tài, thèm muốn hư vinh, mưu cầu địa vị và tiền đồ, và không yêu lẽ thật. Nếu nhưcuộc sống an yên, mọi chuyện thuận lợi, chúng ta sẽ ngày càng xa cách Đức Chúa Trời và ngày càng trở nên sa đọa. Tôi ngộ ra rằng Đức Chúa Trời cho phép chuyện đó xảy ra với tôi là để đưa tôi đến trước Đức Chúa Trời trong lời cầu nguyện, để tôi tìm kiếm lẽ thật, sao cho tôi đạt được đức tin thực sự nơi Đức Chúa Trời và đến gần Ngài hơn. Hiểu được ý định tha thiết của Đức Chúa Trời, tôi không muốn chiến đấu với tình hình đó nữa, nhưng dù điều gì có thể xảy ra tiếp theo, tôi cũng muốn quy phục tuyệt đối và tiếp tục dâng mình cho Đức Chúa Trời.

Tôi đọc được một đoạn khác sau đó. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Trong những trải nghiệm sống của con người, họ thường tự nhủ rằng tôi đã từ bỏ gia đình và sự nghiệp vì Đức Chúa Trời, và Ngài đã cho tôi được gì? Tôi phải tổng lại, và xác nhận rằng – tôi đã nhận được bất kỳ phúc lành nào gần đây chưa? Tôi đã cho đi rất nhiều trong thời gian này, tôi đã làm tốt bấy lâu nay, và chịu đựng rất nhiều – đổi lại Đức Chúa Trời đã cho tôi bất kỳ lời hứa nào chưa? Ngài có nhớ những việc lành của tôi chưa? Kết cục của tôi sẽ là gì? Tôi có thể nhận những phúc lành của Đức Chúa Trời không? … Mỗi người đều liên tục thực hiện những sự tính toán như thế trong lòng họ, và họ đưa ra những yêu cầu đối với Đức Chúa Trời, những yêu cầu mang động cơ, tham vọng, và tâm lý đổi chác của họ. Nói vậy nghĩa là, trong lòng mình, con người liên tục kiểm tra Đức Chúa Trời, liên tục đặt ra những kế hoạch về Đức Chúa Trời, liên tục tranh luận về trường hợp kết cuộc cá nhân của riêng mình với Đức Chúa Trời, và cố gắng moi ra một câu tuyên bố từ Đức Chúa Trời, xem liệu Đức Chúa Trời có thể ban cho họ điều họ muốn hay không. Cùng với việc theo đuổi Đức Chúa Trời, con người không đối đãi với Đức Chúa Trời như một Đức Chúa Trời. Con người luôn cố gắng thỏa thuận với Đức Chúa Trời, không ngừng đòi hỏi ở Ngài, và thậm chí thúc ép Ngài trong mọi bước, được đằng chân lân đằng đầu. Cùng với việc cố gắng thỏa thuận với Đức Chúa Trời, con người cũng tranh luận với Ngài, và thậm chí có những người mà khi những thử luyện xảy đến với họ hay họ thấy mình trong những tình huống nhất định, thường trở nên yếu đuối, thụ động, bê trễ trong công việc, và đầy than oán về Đức Chúa Trời. Từ khi con người mới bắt đầu tin Đức Chúa Trời, họ đã xem Đức Chúa Trời là một nguồn cung dồi dào, là một con dao gấp đa năng, và họ coi chính mình là chủ nợ lớn nhất của Đức Chúa Trời, như thể việc cố gắng lấy được những phúc lành và lời hứa từ Đức Chúa Trời là quyền và nghĩa vụ vốn có của họ, trong khi trách nhiệm của Đức Chúa Trời là bảo vệ, chăm sóc cho con người, và chu cấp cho họ. Đó là sự hiểu biết cơ bản về ‘niềm tin nơi Đức Chúa Trời’ của tất cả những ai tin Đức Chúa Trời, và đó là sự hiểu biết sâu sắc nhất của họ về khái niệm niềm tin nơi Đức Chúa Trời. Từ bản tính và thực chất của con người cho đến sự theo đuổi chủ quan của họ, không điều gì liên quan đến sự kính sợ Đức Chúa Trời. Mục tiêu của con người trong việc tin vào Đức Chúa Trời không thể liên quan gì đến sự thờ phượng Đức Chúa Trời. Nói vậy nghĩa là, con người chưa bao giờ xem xét hay hiểu rằng niềm tin nơi Đức Chúa Trời đòi hỏi kính sợ và thờ phượng Đức Chúa Trời. Với tình trạng như vậy, thực chất của con người thật rõ ràng. Đó là thực chất gì? Đó là lòng người hiểm độc, nuôi sự phản bội và lừa dối, không yêu sự công lý, công chính và những điều tích cực, nó đê tiện và tham lam. Lòng người không thể khép kín hơn với Đức Chúa Trời; họ chưa hề dâng nó cho Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời chưa bao giờ thấy tấm lòng thật của con người, Ngài cũng chưa bao giờ được con người thờ phượng. Cho dù cái giá mà Đức Chúa Trời trả có đắt như thế nào, hoặc Ngài làm bao nhiêu công tác, hoặc Ngài chu cấp cho con người nhiều bao nhiêu, con người vẫn mù quáng và hoàn toàn thờ ơ với tất cả. Con người chưa bao giờ dâng lòng mình cho Đức Chúa Trời, họ chỉ muốn tự lo cho lòng mình, đưa ra những quyết định của riêng mình – ẩn ý của điều này là con người không muốn theo con đường kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, hoặc vâng phục quyền tối thượng và những sự sắp đặt của Đức Chúa Trời, họ cũng không muốn thờ phượng Đức Chúa Trời như với một Đức Chúa Trời. Đó là tình trạng của con người ngày nay(Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời II, Lời, Quyển 3 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời đã phơi bày tình trạng thật của tôi và khiến tôi rất xấu hổ. Đức tin của tôi chỉ nhằm được phước lành, và mặc dù tôi tôi đã dâng mình cho Đức Chúa Trời, nhưng rốt cuộc thì đó hoàn toàn là để được Đức Chúa Trời ban thưởng. Tôi đã nhiệt tình phụng sự Ngài, dành rất nhiều thời gian và sức lực cho bổn phận của mình, với hy vọng rằng Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho tôi và ban ân điển của Ngài, để cuối cùng tôi sẽ nhận được một công việc trả lương cao trong lĩnh vực mình đã học. Sau đó, tôi sẽ có một cuộc sống hạnh phúc và chẳng còn thiếu thốn gì, tôi và gia đình sẽ không khổ nữa. Đó là suy nghĩ và mục tiêu của tôi. Nhưng sau hơn hai năm có đức tin, những phước lành mà tôi mưu cầu đã không thành hiện thực. Khi tôi không có được công việc mà mình hy vọng, sự thôi thúc đi theo và phụng sự Đức Chúa Trời không còn nữa. Sự thật đã cho tôi thấy rằng bao lâu nay, tôi đã lừa dối Đức Chúa Trời, cố gắng đổi chác với Ngài. Trông có vẻ như tôi đã làm việc chăm chỉ cho Đức Chúa Trời, tham gia nhóm họp và tích cực trong bổn phận, nhưng thực tế là tôi đã có những động cơ ngầm – đó là nhận được nhiều ân điển và phước lành hơn từ Đức Chúa Trời. Sự khai sáng trong lời Đức Chúa Trời đã cho tôi thấy tính ích kỷ của chính mình, rằng tôi chỉ nghĩ đến bản thân và gia đình, áp đặt những đòi hỏi của mình lên Đức Chúa Trời, đưa ra những đòi hỏi ngông cuồng với Ngài. Tôi đã không đối xử với Ngài như Đức Chúa Trời, không thực sự thờ phượng Đức Chúa Trời trong đức tin của mình. Tôi đã đòi Đức Chúa Trời trả tiền như thể Ngài là con nợ của tôi, bắt Ngài ban cho tôi những ân huệ đặc biệt, lợi dụng Ngài để thực hiện những ham muốn của tôi. Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta sự sống, và Ngài đã ban cho chúng ta rất nhiều lẽ thật một cách vô điều kiện. Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt và chịu đựng rất nhiều để cứu rỗi chúng ta, những con người bị Sa-tan làm cho bại hoại. Tất cả là để chúng ta có thể đạt được lẽ thật, loại bỏ sự bại hoại và được Đức Chúa Trời cứu rỗi hoàn toàn. Tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta lớn lao vô cùng, và Ngài đã ban cho chúng ta rất nhiều ân điển. Nhưng tôi chẳng thấy được tình yêu của Đức Chúa Trời và chẳng bao giờ quan tâm đến ý muốn của Ngài. Tôi chỉ biết đòi hỏi. Tôi đã chẳng có lương tâm hay lý trí! Lời Đức Chúa Trời luôn phơi bày tình trạng thật của tôi. Nếu tôi dùng sự hy sinh của mình để đòi hỏi phước lành mà mình muốn từ Đức Chúa Trời, coi bổn phận của chúng ta giống như một phần của giao dịch thì dạng đức tin và sự phục vụ đó giống như làm việc cho một ông chủ ngoài đời. Chỉ là để nhận lại thứ gì đó, hoàn toàn thiếu sự chân thành.

Sau đó tôi đã đọc một đoạn khác, trong đoạn cuối của “Công tác của Đức Chúa Trời và sự thực hành của con người”. “Cho dù họ có bị thử luyện thế nào, lòng trung thành của những người có Đức Chúa Trời trong lòng mình vẫn không thay đổi; nhưng đối với những ai không có Đức Chúa Trời trong lòng mình, một khi công tác của Đức Chúa Trời không thuận lợi cho xác thịt của họ, thì họ thay đổi quan điểm của mình về Đức Chúa Trời, và thậm chí còn rời xa Đức Chúa Trời. Đó là những người sẽ không đứng vững vào lúc cuối cùng, những người chỉ tìm kiếm các phước lành của Đức Chúa Trời và không có mong muốn dâng mình cho Đức Chúa Trời và dành trọn bản thân cho Ngài. Tất cả những kẻ hèn hạ như thế đều sẽ bị trục xuất khi công tác của Đức Chúa Trời kết thúc, và chúng không xứng đáng với bất kỳ sự cảm thông nào. Những người vô nhân tính không có khả năng thực sự yêu mến Đức Chúa Trời. Khi tình cảnh an toàn và bảo đảm, hoặc có thể làm lợi, thì họ hoàn toàn vâng lời Đức Chúa Trời, nhưng một khi những gì họ mong muốn bị tổn hại hoặc cuối cùng bị bác bỏ, họ nổi loạn ngay lập tức. Thậm chí chỉ trong một đêm, họ có thể đi từ một người tươi cười, ‘tốt bụng’ đến một tên sát nhân xấu xí và tàn bạo, bất thình lình đối xử với ân nhân của mình ngày hôm qua như là kẻ thù không đội trời chung, mà chẳng có lí do chính đáng gì. Nếu những con quỷ này không bị đuổi ra, những con quỷ này mà sẽ giết hại không chớp mắt, thì chẳng phải chúng sẽ là nguồn gốc của nguy hiểm tiềm ẩn sao?(“Lời xuất hiện trong xác thịt”). Lời Đức Chúa Trời nói với chúng ta rằng chỉ những người có chỗ dành cho Đức Chúa Trời trong lòng họ mới có thể đứng vững làm chứng qua những sự thử luyện của Ngài, nhưng những ai không có Đức Chúa Trời trong lòng họ thì chỉ nghĩ đến lợi ích của riêng mình. Khi có được một số lợi ích xác thịt, họ ép mình phải vâng phục, nhưng ngay khi không có được những gì mình muốn thì họ coi Đức Chúa Trời là kẻ thù, trách móc và phản bội Ngài. Đây là loại người mà Đức Chúa Trời ghét và sẽ loại bỏ – họ giống như ma quỷ. Suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, tôi nhận ra, chẳng phải mình đúng là loại người đó sao? Đức tin của tôi là chỉ để được phước lành. Miễn là các thành viên trong gia đình đều khỏe mạnh và tôi có công việc tốt thì tôi sẵn sàng làm việc chăm chỉ cho Đức Chúa Trời. Nhưng khi những điều đó không diễn ra theo cách tôi muốn thì tôi đình công và bắt đầu than oán Đức Chúa Trời. Tôi không có lòng sùng kính hay quy phục Đức Chúa Trời. Tôi thấy đức tin của mình nơi Đức Chúa Trời không chân thật, thấy tôi đã lừa dối Ngài và thực hiện đổi chác, và Ngài sẽ không bao giờ công nhận loại đức tin đó. Đức Chúa Trời đang làm cho trọn vẹn một nhóm những người đắc thắng trong thời kỳ sau rốt. Họ có thể hoàn toàn hướng lòng về Đức Chúa Trời và sống hoàn toàn để đáp ứng Ngài. Họ quyết tâm chịu khổ vì Đức Chúa Trời, và họ có thể đứng vững qua khó khăn như Gióp, để trở thành chứng nhân. Cuối cùng thì họ là những người mà Đức Chúa Trời sẽ hoàn thiện, và chỉ họ mới xứng đáng được Đức Chúa Trời chấp thuận và ban phước. Gióp đã phải chịu khổ rất nhiều qua những sự thử luyện của ông, nhưng ông không bao giờ trách Đức Chúa Trời về những đau khổ của mình. Trên thực tế, đức tin của ông nơi Đức Chúa Trời không hề nao núng chút nào, và khi mất hết con cái cũng như của cải, ông vẫn có thể ngợi khen danh Đức Chúa Trời và quy phục sự tể trị của Đức Chúa Trời. Ông là một chứng nhân vang dội cho Đức Chúa Trời. Nhưng hãy nhìn tôi xem, tôi đã thực sự xa rời những gì Đức Chúa Trời yêu cầu.

Một ngày nọ, tôi đọc được đoạn lời này của Đức Chúa Trời, đoạn cuối cùng trong “Ngươi trung thành với ai?”. “Nếu ngay lúc này Ta đặt một món tiền trước mặt các ngươi và cho các ngươi quyền tự do lựa chọn – và nếu Ta không định tội các ngươi về sự lựa chọn đó – thì hầu hết các ngươi sẽ chọn món tiền và từ bỏ lẽ thật. Những người tốt hơn trong số các ngươi sẽ từ bỏ món tiền và miễn cưỡng lựa chọn lẽ thật, trong khi những người đứng giữa thì một tay nắm lấy tiền và tay kia nắm lẽ thật. Chẳng phải là bản chất thật của các ngươi khi đó sẽ trở nên rõ ràng đó sao? Khi lựa chọn giữa lẽ thật và bất kỳ thứ gì mà các ngươi trung thành, tất cả các ngươi sẽ lựa chọn như vậy, và thái độ của các ngươi sẽ không thay đổi. Không phải vậy sao? Chẳng phải nhiều người trong số các ngươi đã từng cò cưa giữa đúng và sai sao? Trong những cuộc đấu tranh giữa tích cực và tiêu cực, đen và trắng, chắc chắn các ngươi biết được những lựa chọn mà các ngươi đã thực hiện giữa gia đình và Đức Chúa Trời, con cái và Đức Chúa Trời, hòa thuận và chia rẽ, sang và hèn, địa vị và thường dân, được tương trợ và bị gạt sang bên, v.v. Giữa một gia đình đầm ấm và một gia đình tan vỡ, các ngươi chọn vế trước, và các ngươi chọn như vậy mà không chút lưỡng lự; giữa của cải và bổn phận, các ngươi lại chọn vế trước, thậm chí còn không có ý muốn quay đầu lại bờ[a]; giữa xa hoa và nghèo khó, các ngươi chọn vế trước; khi lựa chọn giữa con trai, con gái, vợ chồng, và Ta, các ngươi chọn vế trước; và giữa quan niệm và lẽ thật, lại lần nữa các ngươi chọn vế trước. Đối diện với đủ cách hành ác của các ngươi, Ta chỉ đơn giản là đã mất niềm tin vào các ngươi. Ta hoàn toàn kinh ngạc rằng trái tim các ngươi quá kháng cự để được làm mềm lại. Bao nhiêu năm tận tụy và nỗ lực hóa ra chẳng đem lại gì cho Ta ngoài sự bỏ mặc và tuyệt vọng của các ngươi, nhưng niềm hi vọng của Ta cho các ngươi lớn dần lên từng ngày, vì ngày của Ta đã được trải bày hoàn toàn trước mọi người. Vậy nhưng các ngươi vẫn tiếp tục tìm kiếm những thứ tăm tối và xấu xa, và không chịu buông bỏ chúng. Như vậy thì, kết cục của các ngươi sẽ là gì? Các ngươi đã bao giờ cân nhắc thấu đáo việc này chưa? Nếu các ngươi được yêu cầu lựa chọn lần nữa, thì quan điểm của các ngươi sẽ là gì? Liệu có phải sẽ vẫn là vế trước? Liệu các ngươi sẽ vẫn đem lại cho Ta nỗi thất vọng và nỗi đau buồn sầu thảm? Lòng các ngươi có còn một chút hơi ấm nào không? Các ngươi vẫn sẽ không biết làm gì để xoa dịu lòng Ta? Vào lúc này, các ngươi sẽ chọn gì? Các ngươi sẽ quy phục những lời của Ta hay sẽ chán ngấy chúng? Ngày của Ta đã được trải ra trước mắt các ngươi, và các ngươi đối mặt với một cuộc đời mới và một điểm bắt đầu mới. Tuy nhiên, Ta phải nói với các ngươi rằng điểm bắt đầu này không phải là khởi đầu của công tác mới đã qua, mà là điểm kết thúc của công tác cũ. Có nghĩa là, đây là hành động cuối cùng. Ta nghĩ rằng tất cả các ngươi đều có thể hiểu sự khác thường ở điểm bắt đầu này. Tuy nhiên, một ngày không xa, các ngươi sẽ hiểu ý nghĩa thực sự của điểm bắt đầu này, vậy nên chúng ta hãy cùng nhau vượt qua nó và chào đón đoạn kết!(“Lời xuất hiện trong xác thịt”). Lời Đức Chúa Trời rất cảm động đối với tôi, và tôi thấy rằng con người thực sự có bản tính phản bội Đức Chúa Trời. Chúng ta chỉ yêu của cải vật chất và tiền bạc, địa vị và danh vọng chứ không yêu lẽ thật. Mặc dù bản tính của chúng ta thật đáng ghê tởm đối với Đức Chúa Trời nhưng Ngài không để ý đến sự phản nghịch và bại hoại của chúng ta, mà xem chúng ta hiện có đang theo đuổi lẽ thật, liệu chúng ta có ăn năn và thay đổi hay không. Đức Chúa Trời muốn hoàn toàn cứu rỗi chúng ta khỏi sự ảnh hưởng của Sa-tan và đưa chúng ta vào vương quốc của Ngài. Nhưng tôi đã không trân quý ân điển của Đức Chúa Trời hay theo đuổi lẽ thật. Tôi đã tập trung tìm kiếm một công việc tốt với mức lương cao, khao khát sự giàu có và tiện nghi xác thịt. Tôi đã quá ngu xuẩn! Chỉ lẽ thật mới có thể cứu rỗi con người, làm tinh sạch sự bại hoại của chúng ta, cho phép chúng ta phân biệt thiện ác, thoát khỏi sự lừa dối và hãm hại của Sa-tan. Hiểu lẽ thật, chúng ta có thể biết Đức Chúa Trời, biết cách sống, cách tìm kiếm ý nghĩa làm người. Sự theo đuổi tiền bạc và những thú vui vật chất sẽ chỉ đưa tôi rời xa Đức Chúa Trời hơn, khiến tôi càng bại hoại, tham lam và buông thả, đánh mất cơ hội được cứu rỗi. Như Đức Chúa Jêsus đã phán: “Ta lại nói cùng các ngươi, lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn một người giàu vào nước Ðức Chúa Trời(Ma-thi-ơ 19:24). Quá giàu có, quá thoải mái không hẳn là điều tốt. Trong Châm ngôn có nói rằng: “Và sự yên ổn của kẻ dại dột sẽ làm hại cho chúng nó” (Châm Ngôn 1:32). Đức Chúa Jêsus đã cảnh báo chúng ta, “Ấy vậy, các ngươi chớ lo lắng mà nói rằng: Chúng ta sẽ ăn gì? uống gì? mặc gì? Vì mọi điều đó, các dân ngoại vẫn thường tìm, và Cha các ngươi ở trên trời vốn biết các ngươi cần dùng những điều đó rồi. Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Ðức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa(Ma-thi-ơ 6:31-33). Các thảm họa đang ngày càng tăng. Điều quan trọng nhất bây giờ là trang bị cho mình lẽ thật và chăm chỉ thực hiện bổn phận. Trong bổn phận của mình, chúng ta phải tìm cách loại bỏ sự bại hoại và quy phục Đức Chúa Trời, để trở nên xứng đáng là một loài thọ tạo trong mắt Đức Chúa Trời. Ngoài ra, chẳng điều gì khác có giá trị hoặc ý nghĩa cả. Tôi cũng đã biết được rằng mình có tìm được công việc tốt hay không, điều này hoàn toàn nằm trong tay Đức Chúa Trời. Tôi đã sẵn sàng quy phục những sự sắp đặt của Đức Chúa Trời và đặt mình hoàn toàn vào tay Ngài.

Sau đó tôi đọc một đoạn khác từ Đức Chúa Trời: “Không có mối tương quan giữa bổn phận của con người và việc liệu họ được ban phước hay bị rủa sả. Bổn phận là việc con người phải thực hiện; đó là thiên hướng của họ và không nên lệ thuộc vào sự tưởng thưởng, điều kiện hay lý do. Chỉ khi đó mới là thực hiện bổn phận của mình. Được ban phước là khi ai đó được làm cho hoàn thiện và vui hưởng các phước lành của Đức Chúa Trời sau khi trải qua sự phán xét. Bị rủa sả là khi tâm tính của ai đó không thay đổi sau khi họ đã trải qua hình phạt và sự phán xét, đó là khi họ không trải nghiệm việc được làm cho hoàn thiện, mà bị trừng phạt. Nhưng bất kể họ được ban phước hay bị rủa sả, những loài thọ tạo cũng phải thực hiện bổn phận của mình, làm những điều họ cần phải làm, và làm những điều họ có thể làm; thực hành được như vậy chính là điều tối thiểu mà người mưu cầu Đức Chúa Trời nên làm. Ngươi không nên thực hiện bổn phận của mình chỉ để được ban phước, và ngươi không nên từ chối hành động vì sợ bị rủa sả. Để Ta bảo các ngươi điều này: Việc thực hiện bổn phận của con người là những gì họ cần phải làm, và nếu họ không thể thực hiện bổn phận của mình, thì đây là sự phản nghịch của họ(Sự khác nhau giữa chức vụ của Đức Chúa Trời nhập thể và bổn phận của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Từ đoạn này, tôi đã biết được rằng dù Đức Chúa Trời ban cho chúng ta sự may mắn hay tai họa, chúng ta cũng phải làm bổn phận của riêng mình và hoàn thành sự ủy nhiệm của Ngài. Đây là trách nhiệm vô điều kiện của chúng ta. Nghĩ lại, sau khi trải qua một số thất bại trong việc theo đuổi công việc ổn định và đáng nể, tôi thực sự trở nên chán nản, tiêu cực và không muốn làm bổn phận của mình nữa. Đó không phải là thái độ đúng đắn đối với bổn phận của tôi. Đức Chúa Trời bảo chúng ta rằng với tư cách là loài thọ tạo, tất cả chúng ta đều có trách nhiệm thực hiện phần việc của mình. Bất kể Đức Chúa Trời khiến chúng ta phải trải qua điều gì, cho dù cảm thấy yếu đuối hay không hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời, chúng ta cũng phải tiếp tục làm bổn phận của mình. Loài thọ tạo chúng ta nên quy phục Đức Chúa Trời vô điều kiện. Chúng ta không có quyền đòi hỏi bất cứ điều gì ở Ngài hoặc thực hiện đổi chác với Ngài. Là loài thọ tạo, làm phần việc của mình là bổn phận bắt buộc của chúng ta và không được để sự đổi chác làm ô uế điều đó! Chuyện này như con cái hiếu thảo với cha mẹ, là chuyện đúng đắn và phải đạo, chuyện đương nhiên phải vậy.

Sau đó, tôi nghiêm túc hơn với bổn phận của mình và thực sự dốc lòng chia sẻ Phúc Âm. Tôi đã cảm thấy rất bình yên khi sống theo cách này. Một ngày nọ, có một trường học mời tôi đến phỏng vấn. Trường đó thực sự rất uy tín, nên tôi biết mình sẽ được trả lương cao nếu nhận được công việc đó. Nhưng trong buổi phỏng vấn, tôi đã nói với Đức Chúa Trời trong lòng mình: “Lạy Đức Chúa Trời, mọi thứ đều do Ngài sắp đặt. Cho dù con có làm tốt ở buổi phỏng vấn này hay không, con cũng không đòi hỏi Ngài ban công việc này. Con chỉ muốn quy phục những sự sắp đặt của Ngài. Ngay cả khi con không nhận được công việc này, con vẫn sẽ ngợi khen Ngài và tiếp tục làm bổn phận của con”. Khi kết quả của buổi phỏng vấn viết được công bố, tôi nằm trong năm ứng viên hàng đầu. Tôi đã rất hạnh phúc. Vài ngày sau, sau buổi phỏng vấn miệng, tôi phát hiện ra mình đã không được chọn. Một anh bạn nói với tôi rằng anh ấy đã được chọn, và mặc dù rất vui cho anh ấy nhưng tôi quả thật cảm thấy có chút thất vọng. Tôi đã xin Đức Chúa Trời ban cho tôi sự bình an nội tâm và dõi theo lòng tôi để tôi có thể quy phục sự tể trị của Ngài. Tôi cảm thấy rất bình tĩnh sau khi cầu nguyện, và thực hiện bổn phận như thường lệ vào chiều hôm đó. Tôi biết rằng nếu Đức Chúa Trời muốn tôi làm việc trong ngôi trường đó thì tôi đã nhận được công việc ấy rồi, còn không thì dù tôi có cố cách mấy cũng sẽ không vào được. Tôi cảm thấy tin tưởng rằng tất cả đều nằm trong tay Đức Chúa Trời, và không ai có thể vượt qua Đức Chúa Trời. Khi nghĩ theo cách đó, tôi cảm nhận được động lực bên trong này, và thực sự muốn làm bổn phận cho dù thế nào đi nữa, để hoàn thành trách nhiệm của mình.

Điều này thực sự dạy tôi rằng những hoàn cảnh khó khăn đó thực ra là ân điển và phước lành của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã cho tôi trải qua tất cả những điều đó để thử thách đức tin của tôi, và để xem liệu tôi có thể trung thành với Đức Chúa Trời qua những lúc khó khăn hay không. Đối mặt với sự thật, tôi thấy rằng đức tin của mình mới ô uế tạp nham làm sao, rằng tôi đã có khả năng lừa dối Đức Chúa Trời. Sự hướng dẫn của lời Đức Chúa Trời đã giúp tôi hiểu bản thân mình và xoay chuyển những mưu cầu sai lầm của mình. Tôi sẽ không bao giờ có thể đạt được tất cả những điều này trong những lúc thoải mái. Tôi vô cùng cảm tạ tình yêu của Đức Chúa Trời!

Chú thích:

a. Quay đầu lại bờ: thành ngữ Trung Quốc, có nghĩa “từ bỏ con đường tội lỗi”.

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger