Tôi không còn sầu khổ vì bệnh tật nữa
Bởi Mộng Phàm, Trung QuốcTháng 12 năm 2022, tôi mắc chứng đau dây thần kinh tam thoa. Sau phẫu thuật, nửa bên đầu phải của tôi vẫn còn tê...
Hoan nghênh tất cả những người tìm kiếm sự xuất hiện của Đức Chúa Trời!
Năm 1999, tôi tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng trong thời kỳ sau rốt. Qua lời Đức Chúa Trời, tôi biết đây là bước công tác cuối cùng để Ngài cứu rỗi nhân loại, và chỉ khi tiếp nhận công tác thời kỳ sau rốt, mưu cầu lẽ thật, chuẩn bị đủ việc lành thì mới có cơ hội sống sót qua đại thảm họa. Tôi thấy mình thật quá có phúc, phải nắm lấy cơ hội ngàn năm có một này để làm bổn phận một cách đàng hoàng và dâng mình cho Đức Chúa Trời. Thế là tôi rời nhà, tích cực rao truyền phúc âm, miệt mài trong hội thánh từ sáng đến tối. Ngay cả khi bị người đời phỉ báng, bị gia đình ruồng bỏ, tôi cũng không hề thấy khổ. Sau này, dù bị cảnh sát bắt vì rao truyền phúc âm, tôi cũng không phản bội Đức Chúa Trời, và sau khi được thả, tôi vẫn làm bổn phận như trước. Tôi thấy rằng bao năm qua mình đã chuẩn bị được rất nhiều việc lành, và nghĩ rằng sau này, dù người khác không được cứu rỗi thì mình vẫn sẽ được cứu.
Thoáng cái đã là cuối năm 2015. Lưng tôi bắt đầu đau dữ dội, buổi sáng phải vịn vào thứ gì đó thì mới từ từ dậy nổi, đi lại cũng chẳng còn sức. Ban đầu, tôi không để tâm lắm, nhưng một thời gian sau, lưng ngày càng đau hơn, tôi bắt đầu đi khập khiễng. Một buổi sáng, lưng đau đến mức tôi không thể nào dậy nổi. Tôi nghĩ: “Thế là xong rồi. Dậy còn không nổi thì làm sao thực hiện bổn phận được đây? Không làm được bổn phận, không chuẩn bị được việc lành, liệu mình còn được Đức Chúa Trời cứu rỗi không?”. Nhưng rồi tôi lại nghĩ: “Đây có thể là sự thử luyện của Đức Chúa Trời, chỉ cần mình không oán trách Ngài và cứ tiếp tục làm bổn phận, có lẽ Đức Chúa Trời sẽ ân đãi và ban phước cho mình, rồi bệnh sẽ khỏi thôi”. Nhưng mọi chuyện không như tôi mong đợi. Bệnh tình ngày một nặng hơn, tối ngủ không trở mình được, có lúc lưng đau đến không cử động nổi. Uống thuốc cũng chẳng ăn thua. Sau đó, tôi đến bệnh viện chụp X-quang, không ngờ lại bị chẩn đoán là viêm cột sống dính khớp. Bác sĩ nói: “Bệnh này người ta gọi là ‘ung thư không chết’. Đây là bệnh mãn tính, theo mình suốt đời, nếu nặng có thể dẫn đến bại liệt vĩnh viễn”. Nghe bác sĩ nói vậy, tôi rụng rời chân tay, thầm nghĩ: “Sao mình lại mắc phải bệnh hiểm nghèo thế này? Từ khi tin Đức Chúa Trời, mình đã nhiệt tình vứt bỏ, dâng mình, tại sao Đức Chúa Trời không bảo vệ mình? Nếu bị bại liệt, không làm được bổn phận, chẳng phải mình sẽ trở thành đồ vô dụng sao?”. Lòng tôi khó chịu đến cùng cực, không tài nào hiểu nổi tại sao căn bệnh hiểm nghèo như vậy lại ập đến với mình. Tôi thấy mình như quả bóng xì hơi, thực sự rất chán nản. Sau đó, tôi về nhà dưỡng bệnh.
Về nhà, tình trạng của tôi sa sút hẳn, không còn đức tin như trước nữa. Tôi thấy cuộc sống chẳng còn hy vọng gì. Tôi thầm nghĩ: “Anh chị em khác thì khỏe mạnh, tích cực làm bổn phận, còn mình thì đi đứng khập khiễng, cũng chẳng làm được bổn phận. Có lẽ một ngày nào đó bệnh nặng hơn, mình sẽ chết, thế là hết phần được cứu rỗi”. Càng nghĩ, tôi càng thấy như bị Đức Chúa Trời ruồng bỏ, không muốn mưu cầu lẽ thật nữa, đọc lời Đức Chúa Trời cũng không sao tập trung được. Tôi sống những ngày mơ hồ, bắt đầu chìm đắm trong xác thịt. Tôi lại nghĩ: “Nếu còn sống được, mình sẽ bảo con trai mua cho một căn hộ để ở đó dưỡng bệnh. Sống được ngày nào hay ngày đó”. Nhìn những người thân, bạn bè ngoại đạo khỏe mạnh, có xe có nhà, còn mình tin Đức Chúa Trời, vứt bỏ và dâng mình bao năm lại mang bệnh vào thân, tôi bắt đầu hối hận về những gì mình đã hy sinh và dâng hiến. Vợ tôi thấy tình trạng tôi không ổn liền thông công: “Việc đột nhiên mắc bệnh này là có tâm ý của Đức Chúa Trời đấy. Chúng ta bị Sa-tan làm cho bại hoại sâu quá rồi, tâm tính bại hoại đã ăn sâu bén rễ. Muốn giải quyết, thay đổi triệt để thì chỉ đọc lời Đức Chúa Trời thôi là chưa đủ đâu, còn phải trải qua nhiều sự thử luyện, tinh luyện nữa. Mình cần tìm kiếm nhiều hơn để hiểu xem qua căn bệnh hiểm nghèo này, Đức Chúa Trời muốn giải quyết phương diện tâm tính bại hoại nào của mình. Anh phải mau chóng ăn năn, thay đổi đi chứ! Đừng oán trách Đức Chúa Trời!”. Nghe vợ nói, lòng tôi dịu lại một chút, và tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, giờ đây con đau khổ quá. Con không hiểu tâm ý của Ngài, xin Ngài hãy khai sáng cho con”.
Cầu nguyện xong, tôi tìm đọc những lời của Đức Chúa Trời liên quan đến sự thử luyện và tinh luyện đối với con người. Có một đoạn lời của Ngài đã đặc biệt khích lệ tôi. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Nếu ngươi đã luôn rất trung thành và vô cùng yêu kính Ta, nhưng ngươi chịu đựng sự đau đớn của bệnh tật, cuộc sống túng thiếu, và sự ruồng bỏ của bạn bè và người thân hoặc là chịu đựng bất kỳ những điều bất hạnh nào khác trong cuộc sống, thì lòng trung thành và tình yêu của ngươi dành cho Ta vẫn tiếp tục không?” (Một vấn đề rất nghiêm trọng: Sự phản bội (2), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Khi đọc lời Đức Chúa Trời, tôi thấy cứ như thể Ngài đang đối mặt chất vấn tôi vậy. Tôi thấy xấu hổ vô cùng. Trước đây, khi được Đức Chúa Trời ban phước, mọi việc đều suôn sẻ, không gặp tai ương hay bất hạnh nào, tôi đã sẵn lòng làm bổn phận để thỏa mãn Ngài. Tôi đã sẵn lòng ăn uống lời Đức Chúa Trời, mưu cầu lẽ thật để vươn lên. Ngay cả khi bị Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt, tôi cũng không lùi bước hay tiêu cực, sau khi được thả vẫn tiếp tục làm bổn phận. Tôi thấy mình có sức lực dùng không hết. Nhưng bây giờ, khi đối mặt với bệnh tật và nguy cơ bại liệt, thấy hy vọng được ban phước của mình tan vỡ, tôi đã mất đức tin nơi Đức Chúa Trời, và mọi sự oán trách, hiểu lầm về Ngài đều trỗi dậy trong tôi. Tôi đã nghĩ, vì mình đã vứt bỏ và dâng mình nhiều như vậy, Đức Chúa Trời không nên để tôi phải chịu bệnh tật hay bất hạnh, mà phải ban phước và cho tôi sức khỏe tốt. Khi những dục vọng không được thỏa mãn, tôi thấy mình chìm trong trạng thái âm thầm chống đối Đức Chúa Trời. Tôi không muốn đọc lời Ngài nữa, cũng chẳng còn tâm trí đâu mà phản tỉnh học bài học. Thay vào đó, tôi trở nên tiêu cực, oán trách, rồi đâm ra buông xuôi tất cả. Trước sự thật được tỏ lộ, cuối cùng tôi mới thấy tình yêu và lòng trung thành trước đây của mình là giả. Đức Chúa Trời cho phép căn bệnh này đến không phải để đào thải tôi, mà là dùng hoàn cảnh này để làm tinh sạch sự bại hoại trong tôi, và tôi không nên hiểu lầm Ngài. Sau khi hiểu được tâm ý của Đức Chúa Trời, tôi cảm thấy vô cùng mắc nợ Ngài. Tôi không thể tiếp tục tiêu cực như vậy nữa, dù bệnh tình có khá hơn hay không, trước hết tôi phải thuận phục và học bài học trong đau khổ.
Một hôm, tôi đọc được lời Đức Chúa Trời phán: “Rất nhiều người tin vào Ta chỉ để Ta có thể chữa lành cho họ. Rất nhiều người tin vào Ta chỉ để Ta có thể dùng quyền năng của Ta mà đuổi những linh hồn ô uế ra khỏi thân xác họ, và rất nhiều người tin vào Ta đơn thuần để nhận sự bình an và niềm vui từ Ta. Rất nhiều người tin vào Ta chỉ để đòi hỏi nhiều của cải vật chất hơn từ Ta. Rất nhiều người tin Ta chỉ để được trải qua cuộc đời này trong sự bình an và để được bình an vô sự trong đời sau. Rất nhiều người tin vào Ta để tránh sự đau khổ của địa ngục và để nhận lãnh những phúc lành của thiên đàng. Rất nhiều người tin vào Ta chỉ vì sự an nhàn tạm thời chứ không tìm kiếm để có được bất cứ điều gì ở đời sau. Khi Ta ban cơn giận dữ cho con người và tước đi mọi niềm vui, bình an mà họ vốn có, con người trở nên hoài nghi. Khi Ta ban cho con người sự đau khổ của địa ngục và lấy lại những phúc lành của thiên đàng, con người thẹn quá mà hóa giận. Khi con người nhờ Ta chữa lành cho họ, Ta đã chẳng đoái hoài và cảm thấy ghê tởm họ; họ liền rời khỏi Ta mà tìm kiếm con đường của y học và phép thuật xấu xa để thay vào đó. Khi Ta lấy đi tất cả những gì con người đã đòi hỏi từ Ta, tất cả họ đều biến mất không chút dấu vết. Do vậy, Ta nói rằng con người có đức tin ở Ta bởi vì ân điển của Ta quá nhiều, và bởi vì có quá nhiều lợi ích để đạt được” (Ngươi biết gì về đức tin? Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Mối quan hệ của con người với Đức Chúa Trời chỉ là quan hệ lợi ích trần trụi. Đó là mối quan hệ giữa người nhận phúc và người ban phúc. Nói thẳng ra, nó là quan hệ giữa người làm công và người chủ. Người làm công chăm chỉ làm việc chỉ để nhận tiền thưởng của người chủ. Trong mối quan hệ lợi ích như thế thì chẳng có tình thân, mà chỉ có giao dịch. Chẳng có yêu mến hay được yêu mến, chỉ có sự bố thí và thương xót. Chẳng có thấu hiểu, chỉ có bất lực bấm bụng nuốt giận và lừa dối. Chẳng có sự thân tình, chỉ có một hố sâu ngăn cách không thể vượt qua. Bây giờ mọi thứ đã đến mức này, ai có thể đảo ngược được chiều hướng như thế? Và mấy ai có khả năng thực sự hiểu rằng mối quan hệ này đã trở nên nguy cấp như thế nào? Ta tin rằng khi người ta chìm đắm trong niềm vui sướng được phước, chẳng ai có thể tưởng tượng mối quan hệ như vậy với Đức Chúa Trời lại ngượng ngùng và khó coi thế nào” (Phụ lục 3: Con người chỉ có thể được cứu rỗi giữa sự quản lý của Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Điều mà Đức Chúa Trời vạch rõ chính là tình trạng của tôi. Tôi tin Đức Chúa Trời, làm bổn phận, chỉ là để được Ngài ban ân điển, tránh khỏi các đại thảm họa, và hưởng phước lành trên thiên đàng. Nhìn lại khi mới tiếp nhận giai đoạn công tác này, tôi từng nghĩ chỉ cần mình làm bổn phận, chịu khổ, trả giá, vứt bỏ và dâng mình cho Đức Chúa Trời thì sẽ có được một đích đến tốt đẹp. Sau đó, để được Đức Chúa Trời ban phước, tôi đã vứt bỏ, dâng mình, làm bổn phận; dù người đời phỉ báng, gia đình ruồng bỏ, cũng không gì cản nổi tôi. Ngay cả khi bị cảnh sát bắt, tôi cũng không từ bỏ bổn phận. Tôi từng nghĩ, mình đã trả giá như vậy, chắc chắn sẽ được Đức Chúa Trời ban phước và sống sót qua các đại thảm họa. Nhưng khi bệnh tật ập đến, đứng trước nguy cơ bại liệt và không thể làm bổn phận, tôi cảm thấy như mất hết hy vọng được cứu rỗi. Tôi không ngừng oán trách và lý luận với Đức Chúa Trời trong lòng, cho rằng mình đã hy sinh cho Ngài nhiều như vậy thì Ngài phải gìn giữ, không để tôi phải chịu dày vò vì bệnh tật. Khi dục vọng được ban phước tan vỡ, tôi bắt đầu chống đối lại hoàn cảnh Đức Chúa Trời sắp đặt, trở nên tiêu cực, đối đầu, thậm chí còn hối hận về những gì mình đã hy sinh trước đây. Mãi đến bây giờ tôi mới thấy mình đã coi đức tin nơi Đức Chúa Trời như một cuộc giao dịch, muốn lợi dụng những sự vứt bỏ và dâng mình bề ngoài để mặc cả với Ngài đổi lấy phước lành. Tôi hành động y hệt một người làm thuê, nghĩ rằng mình làm việc vất vả thì nên nhận được phần thưởng xứng đáng từ Đức Chúa Trời. Tôi không hề có chút chân thành nào với Ngài, mà chỉ đang cố lừa dối và lợi dụng Ngài. Tôi nghĩ đến những lời này của Đức Chúa Trời: “Nếu lòng trung thành của ngươi đi kèm với những ý định và điều kiện, thì Ta thà không có cái gọi là lòng trung thành của ngươi, bởi vì Ta ghê tởm những kẻ lừa dối Ta thông qua những ý định của họ và o ép ta bằng những điều kiện. Ta chỉ mong muốn con người tuyệt đối trung thành với Ta, và làm hết thảy mọi chuyện vì lợi ích của – và cũng để chứng minh – một từ: đức tin” (Ngươi có phải là tín đồ thật sự của Đức Chúa Trời? Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Tâm tính của Đức Chúa Trời là công chính và thánh khiết. Ngài luôn chân thành với con người và không đòi hỏi gì đáp lại. Ngài cũng hy vọng con người có thể một lòng một dạ với Ngài, và không muốn bất cứ ai tin Ngài với sự giả dối hay uế tạp. Nhưng tôi lại cố giao dịch với Đức Chúa Trời trong việc trả giá và dâng mình, để đổi lấy ân điển và phước lành. Tôi đã muốn lợi dụng Ngài để đạt được mục đích riêng, và khi không được ban phước thì lại oán trách Ngài. Một kẻ ích kỷ như tôi, sao không bị Đức Chúa Trời ghê tởm và căm ghét cho được? Nếu không nhờ sự tỏ lộ của Ngài, tôi đã không biết những ý định đê tiện đằng sau đức tin của mình. Tôi hẳn đã tiếp tục đi sai đường, để rồi cuối cùng bị Đức Chúa Trời đào thải. Nhận ra điều này, tôi thấy mình vô cùng mắc nợ Đức Chúa Trời, và đã cầu nguyện với Ngài: “Lạy Đức Chúa Trời, con tin Ngài bao năm mà không hề có chút chân thành. Con đã cố giao dịch với Ngài và lừa dối Ngài. Đức tin như vậy của con thật khiến Ngài phải ghê tởm, chán ghét. Lạy Đức Chúa Trời, con sẵn lòng ăn năn trước Ngài. Xin Ngài khai sáng, soi sáng và dẫn dắt con ra khỏi tình trạng sai trái này”.
Sau đó, tôi suy ngẫm: Mình đã nghĩ rằng khi tin Đức Chúa Trời, khi vứt bỏ và dâng mình cho Ngài, thì mình đương nhiên phải nhận được sự gìn giữ và phước lành, không lý nào lại phải đối mặt với bệnh tật, bất hạnh. Rốt cuộc, quan điểm này của mình sai ở đâu? Tôi nghĩ đến một vài đoạn lời của Đức Chúa Trời: “Gióp đã phải chịu đựng những sự tàn phá của Sa-tan, nhưng ông vẫn không từ bỏ danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời. Vợ ông là người đầu tiên bước ra và đóng vai trò của Sa-tan dưới hình thức mà mắt người có thể thấy được, và tấn công Gióp. Văn bản gốc miêu tả thế này: ‘Vợ Gióp nói với người rằng: Ủa? Ông hãy còn bền đỗ trong sự hoàn toàn mình sao? Hãy phỉ báng Ðức Chúa Trời, và chết đi’ (Gióp 2:9)”. “Đối mặt với lời khuyên của vợ, Gióp không chỉ không từ bỏ sự chính trực của mình hay chối bỏ Đức Chúa Trời, mà ông cũng nói với vợ: ‘Sự phước mà tay Ðức Chúa Trời ban cho chúng ta, chúng ta lãnh lấy, còn sự tai họa mà tay Ngài giáng trên chúng ta, lại chẳng lãnh lấy sao?’. Những lời này rất có trọng lượng phải không? Ở đây, chỉ có một sự thật có thể chứng minh trọng lượng của những lời này. Trọng lượng của những lời này là ở chỗ chúng được Đức Chúa Trời khen ngợi trong lòng Ngài, chúng là những gì Đức Chúa Trời mong muốn, chúng là những gì Đức Chúa Trời muốn nghe, và chúng là kết quả mà Đức Chúa Trời khao khát nhìn thấy; những lời này cũng là cốt lõi trong lời chứng của Gióp” (Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời II, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Sau khi Gióp mất hết con cái và tài sản, lại bị ung độc khắp người, ông không những không oán trách Đức Chúa Trời, mà còn nói với vợ rằng nên tiếp nhận cả phước lành lẫn tai họa từ Ngài. Gióp biết rằng con cái và tài sản đều do Đức Chúa Trời ban cho, nên việc Ngài lấy lại là phải lẽ. Dù Đức Chúa Trời đối xử với ông thế nào, ông cũng không hề oán trách, không đòi hỏi hay tìm cách mặc cả. Qua trải nghiệm của Gióp, tôi ngộ ra một điều: Đức tin nơi Đức Chúa Trời không chỉ là để hưởng thụ ân điển và phước lành của Ngài, mà còn là tiếp nhận những sự thử luyện và hoạn nạn đến từ Ngài. Dù chúng ta nhận được phước lành hay tai họa, tất cả đều nằm trong sự tể trị của Đức Chúa Trời; chúng ta phải chấp nhận và thuận phục, không được đòi hỏi Ngài. Tôi cũng nhận ra, sở dĩ mình oán trách khi bị bệnh là vì không hiểu tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Tôi đọc được lời Đức Chúa Trời phán: “Công chính không có nghĩa là công bằng hoặc hợp lý; đó không phải là chủ nghĩa quân bình, hay vấn đề phân bổ cho ngươi những gì ngươi xứng đáng tương ứng với lượng công việc ngươi đã hoàn thành, hoặc trả cho ngươi vì bất cứ công việc nào ngươi đã làm, hoặc ghi nhận về những nỗ lực ngươi bỏ ra. Đây không phải là sự công chính, nó chỉ đơn thuần là công bằng và hợp lý. Rất ít người có khả năng biết được tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Giả sử Đức Chúa Trời đã hủy diệt Gióp sau khi Gióp làm chứng cho Ngài: Việc đó có công chính không? Thực ra là có. Tại sao gọi đây là sự công chính? Con người nhìn nhận sự công chính như thế nào? Nếu điều gì đó phù hợp với quan niệm của mọi người, thì rất dễ dàng để họ nói rằng Đức Chúa Trời là công chính; tuy nhiên, nếu họ không thấy điều đó phù hợp với quan niệm của họ – nếu đó là điều mà họ không thể hiểu được – thì sẽ khó để họ nói rằng Đức Chúa Trời là công chính. Nếu Đức Chúa Trời hủy diệt Gióp vào lúc ấy, con người sẽ không nói Ngài công chính. Tuy nhiên, thật ra thì dù con người có bị bại hoại hay không, và dù họ có bị bại hoại sâu sắc hay không thì Đức Chúa Trời có phải biện minh cho Ngài khi Ngài hủy diệt họ không? Ngài có phải giải thích cho con người là Ngài làm như vậy dựa trên cơ sở nào không? Đức Chúa Trời có phải nói cho con người biết những quy luật Ngài ấn định không? Không cần. Trong mắt Đức Chúa Trời, ai đó bại hoại và ai đó có thể chống đối Đức Chúa Trời thì đều không có giá trị; dù Đức Chúa Trời có xử lý họ như thế nào thì cũng sẽ là thích hợp, và tất cả đều là những sự an bài của Đức Chúa Trời. Nếu ngươi chướng mắt đối với Đức Chúa Trời, và nếu Ngài nói rằng Ngài không cần tới ngươi sau chứng ngôn của ngươi và do đó hủy diệt ngươi thì điều này cũng là sự công chính của Ngài chứ? Đúng vậy. Có lẽ ngươi không thể nhận ra điều này ngay bây giờ từ thực tế, nhưng ngươi phải hiểu đạo lý. Các ngươi nói xem – việc Đức Chúa Trời hủy diệt Sa-tan có phải là biểu hiện của sự công chính của Ngài không? (Phải.) Sẽ thế nào nếu Ngài cho phép Sa-tan tồn tại? Ngươi không dám nói phải không? Thực chất của Đức Chúa Trời là sự công chính. Mặc dù không dễ dàng hiểu được những gì Ngài làm, nhưng tất thảy những gì Ngài làm là công chính; chỉ đơn giản là mọi người không hiểu. Khi Đức Chúa Trời giao Phi-e-rơ cho Sa-tan, Phi-e-rơ đã đáp lại thế nào? ‘Nhân loại không thể hiểu được những gì Ngài làm, nhưng tất thảy những gì Ngài làm đều chứa đựng ý tốt của Ngài; tất thảy đều có sự công chính trong đó. Làm sao tôi có thể không thốt lên lời khen ngợi sự khôn ngoan và những việc làm của Ngài?’” (Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Sau khi đọc lời Đức Chúa Trời, tôi mới nhận ra quan điểm của mình đã bị lệch lạc. Tôi từng nghĩ, sự công chính thì phải là công bằng và hợp lý, là chủ nghĩa bình quân, làm bao nhiêu việc thì phải nhận lại tiền công bấy nhiêu. Suốt những năm tin Đức Chúa Trời, tôi đã hy sinh rất nhiều, từ bỏ cả gia đình và sự nghiệp, nên tôi cho rằng Đức Chúa Trời phải ban phước cho mình, phải giữ cho tôi khỏi bệnh tật tai ương, mọi việc phải suôn sẻ, và cuối cùng, tôi phải được vào vương quốc. Tôi thấy thế mới là công bằng và hợp lý, như vậy thì Đức Chúa Trời mới là công chính. Khi thấy các anh chị em khác bình an vô sự, còn mình lại phải chịu một căn bệnh hiểm nghèo, tôi đã oán trách Đức Chúa Trời không công chính. Tôi đã dùng quan điểm và logic trong buôn bán và giao dịch của loài người bại hoại để phán xét sự công chính của Ngài. Quan điểm này đã lệch lạc và không hề hợp với lẽ thật. Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa, mọi thứ tôi có đều từ Ngài mà đến, tôi không nên đưa ra những đòi hỏi vô lý như vậy. Tôi đã quá thiếu lý trí! Bất kể Đức Chúa Trời đối xử với con người thế nào, dù Ngài ban phước hay giáng họa, tất cả đều chứa đựng những ý tốt của Ngài. Con người nên tiếp nhận, thuận phục, không được đòi hỏi Đức Chúa Trời. Đây mới là lương tâm và lý trí mà con người nên có. Nhận ra điều này, lòng tôi sáng tỏ hơn nhiều. Từ đó, tôi bắt đầu điều chỉnh lại tình trạng của mình bằng cách ăn uống lời Đức Chúa Trời mỗi ngày. Một thời gian sau, bệnh tôi cải thiện đáng kể, và hội thánh lại sắp xếp cho tôi làm bổn phận. Tôi vừa vui mừng vừa biết ơn, không ngừng cảm tạ Đức Chúa Trời. Tôi nguyện trân quý bổn phận, không còn dâng mình và làm bổn phận vì phước lành như trước nữa, mà chỉ mong hoàn thành bổn phận của một loài thọ tạo để làm thỏa mãn Đức Chúa Trời.
Sáu tháng sau, bệnh tôi tái phát, lưng còn đau hơn trước. Tôi phải chống gậy đi vệ sinh, mỗi bước đi đều nặng nhọc. Việc điều trị chẳng có kết quả. Bác sĩ của tôi thở dài ngao ngán, nói rằng bệnh của tôi rất khó chữa. Nghe bác sĩ nói vậy, lòng tôi đau thắt lại. Tôi thầm nghĩ: “Bệnh của mình thật sự không chữa được sao? Chẳng lẽ mình sẽ bị liệt ư? Cứ thế này, chẳng phải mình sẽ thành đồ vô dụng sao?”. Rồi tôi lại nghĩ: “Mình đã không trì hoãn bổn phận, đã dốc hết sức rồi. Lẽ ra bệnh tình phải đỡ hơn chứ, sao lại nặng thêm? Chẳng lẽ Đức Chúa Trời định đào thải mình?”. Càng nghĩ, tôi càng tiêu cực, rồi trong lòng bắt đầu đòi Đức Chúa Trời phải cất bệnh của tôi đi. Lúc đó, tôi chỉ chăm chăm mong bệnh tình khá hơn, tâm trạng cũng lên xuống thất thường theo bệnh. Bệnh có đỡ hơn một chút thì tôi vui, nhưng hễ thấy bệnh trở nặng, lòng tôi lại chùng xuống. Một hôm, tôi chợt nghĩ đến một câu trong lời Đức Chúa Trời: “Trong mọi sự xảy ra trong vũ trụ, chẳng có sự gì mà Ta không có tiếng nói định đoạt. Có sự gì mà không nằm trong tay Ta?” (Những lời của Đức Chúa Trời với toàn vũ trụ – Chương 1, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời khiến lòng tôi bừng sáng. Mọi sự trong vũ trụ đều do Đức Chúa Trời định đoạt, bệnh tình của tôi ra sao cũng đều nằm trong tay Ngài. Việc đòi hỏi Đức Chúa Trời cất đi bệnh tật của mình là hoàn toàn không có lý trí, điều tôi nên làm là phải thuận phục.
Sau đó, tôi đọc được những lời này của Đức Chúa Trời: “Đối với tất cả mọi người, sự tinh luyện rất đau đớn và rất khó tiếp nhận – tuy nhiên, chính trong quá trình tinh luyện mà Đức Chúa Trời mới tỏ lộ tâm tính công chính của Ngài với con người, Ngài công khai các yêu cầu của Ngài đối với con người, hơn nữa ban cho họ nhiều sự khai sáng hơn cùng nhiều sự tỉa sửa thực tế hơn. Thông qua việc so sánh giữa thực tế và lẽ thật, con người đạt được sự hiểu biết lớn lao hơn về chính bản thân và lẽ thật, cùng sự thông hiểu lớn lao hơn về tâm ý của Đức Chúa Trời, từ đó cho phép con người có một tình yêu thật hơn và thuần khiết hơn đối với Đức Chúa Trời. Đây là những mục đích của Đức Chúa Trời trong việc thực hiện công tác tinh luyện. Tất cả những công tác Đức Chúa Trời làm trong con người đều có mục đích và ý nghĩa riêng; Đức Chúa Trời không làm công việc vô nghĩa, Ngài cũng không làm công việc nào không mang lại lợi ích cho con người. Sự tinh luyện không có nghĩa là loại bỏ con người ra khuất mắt Ngài, và cũng không có nghĩa là hủy diệt họ nơi địa ngục. Thay vào đó, nó có nghĩa là làm thay đổi tâm tính của con người trong quá trình tinh luyện, thay đổi những ý định, quan điểm cũ của con người, thay đổi tình yêu của con người dành cho Đức Chúa Trời và thay đổi toàn bộ cuộc sống con người. Tinh luyện là sự thử thách thực tế của con người, là một hình thức rèn tập thực tế và chỉ trong quá trình tinh luyện thì tình yêu của con người mới có thể phát huy chức năng vốn có của nó” (Chỉ bằng cách trải qua sự tinh luyện con người mới có thể sở hữu tình yêu thật sự, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Sau khi đọc lời Đức Chúa Trời, lòng tôi chợt sáng bừng lên. Hóa ra bệnh tật ập đến không phải vì Đức Chúa Trời muốn đào thải tôi, mà vì dục vọng được ban phước của tôi quá lớn, và Ngài phải dùng đến hoàn cảnh như vậy để giải quyết nó. Đây chính là tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho tôi. Dù trước đó tôi đã có chút hiểu biết về những ý định và quan điểm của mình trong việc mưu cầu phước lành, nhưng chúng vẫn chưa được giải quyết triệt để. Thế nên, khi bệnh tái phát, tôi lại bắt đầu oán trách và hiểu lầm Ngài. Tôi thấy rằng ý định được ban phước của mình đã ăn sâu bén rễ, và tôi cần phải trải qua nhiều đau đớn, thử luyện hơn nữa mới được làm cho tinh sạch. Tâm tính của Đức Chúa Trời là công chính và thánh khiết, làm sao Ngài có thể cho phép một kẻ ô uế, bại hoại, thậm chí còn oán trách và chống đối Ngài, được vào vương quốc của Ngài chứ? Suốt những năm tin Đức Chúa Trời, tôi chỉ một lòng một dạ mưu cầu phước lành, chỉ tập trung vào sự vứt bỏ và dâng mình bề ngoài, chứ không hề mưu cầu lẽ thật. Tâm tính tôi không thay đổi chút nào, vậy mà vẫn muốn vào vương quốc và nhận phước lành của Đức Chúa Trời. Đây chẳng phải là mơ mộng hão huyền sao? Nếu cứ tiếp tục mưu cầu như vậy, tôi không những không được Đức Chúa Trời cứu rỗi, mà còn bị Ngài trừng phạt. Đến lúc này, tôi mới nhận ra, dù bề ngoài căn bệnh này có vẻ là điều tồi tệ, nhưng thực chất, Đức Chúa Trời đang làm tinh sạch sự bại hoại của tôi, đang cứu rỗi tôi, và đằng sau đó là cả sự lao tâm khổ tứ của Ngài. Nhận ra điều này, tôi vô cùng cảm động, lòng tràn đầy hối hận, và cảm thấy mình hoàn toàn không xứng đáng với sự cứu rỗi như vậy từ Đức Chúa Trời. Tôi đã không hiểu tấm lòng của Ngài, lại còn nhiều lần hiểu lầm và oán trách Ngài. Tôi thật quá thiếu lương tâm và lý trí!
Sau đó tôi đọc thêm lời của Đức Chúa Trời: “Tiêu chuẩn đánh giá những hành động và hành vi của một người là thiện hay ác là gì? Đó là liệu mọi suy nghĩ trong tâm tư, mọi sự tỏ lộ và hành động ra ngoài của người ta có chứng ngôn về việc đưa lẽ thật vào thực hành và sống thể hiện ra thực tế lẽ thật hay không. Nếu ngươi không có sự thực tế này hoặc sống thể hiện ra điều này, thì không còn nghi ngờ gì nữa, ngươi là một kẻ hành ác. Đức Chúa Trời nhìn nhận những kẻ hành ác như thế nào? Đối với Đức Chúa Trời, những suy nghĩ và những hành động bên ngoài của ngươi không làm chứng cho Ngài, hay chúng cũng không làm nhục hoặc đánh bại Sa-tan; thay vào đó, chúng làm ô danh Ngài, và đâu đâu cũng là dấu hiệu làm ô uế Ngài. Ngươi đang không làm chứng cho Đức Chúa Trời, ngươi đang không dâng mình cho Đức Chúa Trời, ngươi cũng đang không thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của mình vì Đức Chúa Trời; thay vào đó, ngươi đang hành động vì lợi ích của chính mình. ‘Vì lợi ích của chính mình’ có nghĩa là gì? Chính xác thì, nó có nghĩa là vì lợi ích của Sa-tan. Do đó, cuối cùng, Đức Chúa Trời sẽ phán: ‘Hỡi kẻ làm gian ác… hãy lui ra khỏi ta!’. Trong mắt Đức Chúa Trời, những hành động của ngươi sẽ không được coi là việc lành mà sẽ bị coi là việc ác. Chúng không những không được Đức Chúa Trời chấp thuận mà còn bị lên án. Một người hy vọng đạt được gì từ niềm tin như vậy nơi Đức Chúa Trời? Tin đến cuối cùng chẳng phải vẫn là vô ích sao?” (Chỉ có thể có được sự tự do và giải phóng bằng cách loại bỏ tâm tính bại hoại, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi mới hiểu thế nào là việc lành thật sự. Nếu một người làm tròn bổn phận của một loài thọ tạo để yêu kính và làm thỏa mãn Đức Chúa Trời, không vì ý định hay mục đích riêng, không vì lợi ích hay ham muốn ích kỷ của bản thân, thì sự thực hành như vậy được Đức Chúa Trời khen ngợi, và đó mới là một việc lành thật sự. Trước đây, tôi cứ nghĩ chỉ cần mình vứt bỏ và dâng mình, làm thật nhiều bổn phận, chịu khổ nhiều hơn, thì đó chính là chuẩn bị việc lành, và chắc chắn mình sẽ có một đích đến tốt đẹp. Bây giờ, dựa trên lời Đức Chúa Trời, tôi nhận ra quan điểm của mình về việc đo lường việc lành là sai lầm. Thực hiện bổn phận và chuẩn bị việc lành là hợp với tâm ý của Đức Chúa Trời. Nhưng nếu làm vậy mà mang theo ý định uế tạp, muốn lợi dụng Đức Chúa Trời để đạt mục đích riêng, thì đó lại là một việc ác. Dù người đó có trả giá lớn đến đâu, Đức Chúa Trời cũng không khen ngợi, mà còn xem họ là kẻ hành ác. Nếu người này không ăn năn mà cứ mưu cầu theo cách đó, họ chắc chắn sẽ bị Đức Chúa Trời đào thải, vì Ngài đã phán: “Ngươi phải biết Ta mong muốn loại người nào; những kẻ bất khiết không được phép bước vào vương quốc, những kẻ bất khiết không được phép làm ô uế vùng đất thánh. Mặc dù ngươi có thể đã làm rất nhiều việc và đã làm việc trong nhiều năm, nhưng cuối cùng nếu ngươi vẫn còn ô uế cùng cực, mà ngươi lại muốn bước vào vương quốc của Ta, thì đó là chuyện luật Trời không thể dung tha! Từ khi sáng thế cho đến nay, Ta chưa bao giờ cho những kẻ nịnh hót Ta dễ dàng vào vương quốc của Ta. Đây là luật Trời, và không ai có thể phá vỡ nó!” (Thành công hay thất bại phụ thuộc vào con đường mà con người đi, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Nhờ sự vạch rõ trong lời Đức Chúa Trời, quan điểm sai lầm của tôi về mọi việc đã có chút xoay chuyển. Tôi đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời rằng: “Từ nay về sau, con nguyện làm bổn phận với một ý định ngay thẳng, không bao giờ giao dịch với Ngài nữa. Dù nhận được phước lành hay bất hạnh, con cũng sẵn lòng làm tròn bổn phận của một loài thọ tạo để báo đáp tình yêu của Ngài”.
Sau đó, tôi lại đọc được một đoạn lời khác của Đức Chúa Trời: “Làm một loài thọ tạo thì phải làm bổn phận của mình mới có thể được Đấng Tạo Hóa khen ngợi. Loài thọ tạo sống dưới sự thống trị của Đấng Tạo Hóa, và họ tiếp nhận tất cả những gì Đức Chúa Trời chu cấp và mọi thứ đến từ Đức Chúa Trời, do đó họ nên hoàn thành trách nhiệm và nghĩa vụ của mình. Đây là chuyện thiên kinh địa nghĩa, cũng là điều mà Đức Chúa Trời đã tiền định. Từ đó có thể thấy rằng, đối với con người thì việc thực hiện bổn phận của một loài thọ tạo là chính nghĩa, đẹp đẽ và cao thượng hơn bất cứ điều gì khác được thực hiện trong khi còn sống trong thế gian; không có gì trong nhân loại có ý nghĩa hơn hoặc xứng đáng hơn và không có gì mang lại ý nghĩa và giá trị lớn lao hơn cho cuộc sống của một loài thọ tạo hơn là việc thực hiện bổn phận của một con người thọ tạo. Trên đất, chỉ có nhóm người thật lòng thật dạ thực hiện bổn phận của loài thọ tạo mới là những người thuận phục Đấng Tạo Hóa. Nhóm này không chạy theo trào lưu của thế giới bên ngoài; họ thuận phục sự dẫn dắt và chỉ dẫn của Đức Chúa Trời, chỉ nghe lời của Đấng Tạo Hóa, tiếp nhận những lẽ thật mà Đấng Tạo Hóa bày tỏ, và sống theo lời Đấng Tạo Hóa. Đây là lời chứng chân thực nhất, vang dội nhất, và là lời chứng tốt nhất về việc tin Đức Chúa Trời. Đối với một loài thọ tạo, việc có thể thực hiện bổn phận của loài thọ tạo, có thể làm hài lòng Đấng Tạo Hóa là điều tốt đẹp nhất giữa nhân loại và nên trở thành giai thoại được lưu truyền trong nhân loại. Bất cứ điều gì được Đấng Tạo Hóa giao phó cho các loài thọ tạo thì họ cũng nên tiếp nhận vô điều kiện; đối với nhân loại, đây là chuyện hạnh phúc và vinh hạnh, và đối với những người thực hiện bổn phận của một loài thọ tạo, thì không gì tốt đẹp hơn hoặc đáng ghi nhớ hơn – đó là điều tích cực. Còn về cách Đấng Tạo Hóa đối đãi với những người thực hiện bổn phận của một loài thọ tạo và những gì Ngài hứa với họ, thì đây là vấn đề của Đấng Tạo Hóa chứ không liên quan gì đến con người thọ tạo. Nói rõ ra và đơn giản hơn một chút thì Đức Chúa Trời có tiếng nói quyết định trong chuyện này, và con người không có quyền can thiệp. Ngươi sẽ nhận được bất cứ điều gì Đức Chúa Trời ban cho ngươi và nếu Ngài không ban cho ngươi điều gì, thì ngươi miễn bàn về điều đó. Khi một loài thọ tạo tiếp nhận sự ủy thác của Đức Chúa Trời và hợp tác với Đấng Tạo Hóa để thực hiện bổn phận của mình cũng như làm những gì họ có thể làm, thì đây không phải là một cuộc giao dịch hay trao đổi; con người không nên dùng cách biểu đạt thái độ hay dùng hành vi, cách làm nào để đổi lại bất kỳ phúc lành và lời hứa nào từ Đức Chúa Trời” (Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ. Mục 9 (Phần 7)). Đọc xong lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu ra rằng, Đức Chúa Trời đã tạo ra con người, ban cho hơi thở sự sống, giờ lại cho tôi cơ hội làm tròn bổn phận của một loài thọ tạo, đây đã là ân điển và là sự đề cao phá lệ của Ngài. Tôi không nên đòi hỏi gì ở Ngài. Là một loài thọ tạo, tôi nên làm tròn bổn phận của mình mọi lúc, một cách vô điều kiện, không giao dịch hay đòi hỏi. Đây mới là lý trí tôi nên có. Hơn nữa, tâm ý của Đức Chúa Trời không phải để chúng ta vứt bỏ, dâng mình bề ngoài để nhận được ân điển, phước lành, mà là để chúng ta đạt được lẽ thật qua việc làm bổn phận, để giải quyết sự bại hoại, uế tạp và tâm tính Sa-tan của mình, hầu cho cuối cùng được làm cho tinh sạch và được cứu rỗi. Đây là điều Đức Chúa Trời hy vọng nhìn thấy được, và là mục tiêu tôi nên mưu cầu trong bổn phận. Hiểu được tâm ý của Đức Chúa Trời, lòng tôi thanh thản hơn nhiều. Dù bệnh chưa cải thiện, tôi không còn cảm thấy bị kìm kẹp nữa. Sau đó, tôi vừa chữa trị vừa phản tỉnh, lòng quyết tâm rằng dù bệnh tình có ra sao, kết cục thế nào, tôi cũng sẽ giao phó mọi sự cho Đức Chúa Trời, không đòi hỏi gì nữa. Một thời gian sau, tình trạng của tôi bắt đầu tốt lên, tôi có thể đi lại bình thường. Chẳng bao lâu, tôi lại có thể làm bổn phận trong hội thánh.
Qua trải nghiệm này, tôi thật sự nhận ra sự tinh luyện đau đớn là cần thiết cho sự sống của mình. Nếu không có sự tinh luyện như vậy, hẳn tôi đã vẫn sống trong quan niệm và tưởng tượng của riêng mình, vẫn tin Đức Chúa Trời và làm bổn phận chỉ với ý định được ban phước. Nếu cứ mưu cầu như vậy, cuối cùng tôi chỉ có thể bị Đức Chúa Trời tỏ lộ và đào thải. Tôi tạ ơn Đức Chúa Trời đã sắp đặt những hoàn cảnh thực tế này để tỏ lộ, thay đổi và làm tinh sạch tôi. Với tôi, đây chính là sự cứu rỗi của Ngài!
Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?
Bởi Mộng Phàm, Trung QuốcTháng 12 năm 2022, tôi mắc chứng đau dây thần kinh tam thoa. Sau phẫu thuật, nửa bên đầu phải của tôi vẫn còn tê...
Bởi Ezechie, Bờ Biển Ngà Tháng Hai năm 2019, tôi đã tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng trong thời kỳ sau rốt. Lúc đầu, tôi...
Bởi Hiệu Thần, Trung Quốc Tôi vốn hay dễ mắc bệnh. Năm 11 tuổi, tôi được chẩn đoán mắc bệnh thiếu máu bất sản, nên hệ miễn dịch của tôi rất...
Bởi Lý Dũng, Trung Quốc Sau khi trở thành một Cơ Đốc nhân, tôi đã từng bị Đảng Cộng Sản Trung Quốc bắt giữ vài lần, nhưng tôi không bao giờ...