55. Thực tế ẩn sau một người dễ dãi
Tháng 10 năm 2020, tôi được chọn phụ trách công tác làm video cùng với chị Vương Lợi, người trước đây từng phối hợp với tôi. Tôi biết chị ấy khá bận tâm về danh tiếng và địa vị, và chị ấy sẽ khó chịu với bất cứ ai làm phật lòng chị ấy. Nhưng chúng tôi đã cộng tác rất hòa thuận, chưa phát sinh qua mâu thuẫn gì lớn cả. Sau đó, tôi phát hiện ra chị ấy có thành kiến với một chị trong nhóm, chị Tân Thành. Khi chị Vương Lợi giới thiệu với tôi về tình hình của mọi người trong nhóm, chị ấy chuyển giọng khinh khi: “Chị Tân Thành không có nhân tính tốt và vô cùng kiêu ngạo. Khi tôi góp ý cho chị ta, chị ta không những không chịu tiếp thu, ngược lại còn nói về vấn đề của tôi nữa. Chị ta không đóng vai trò tích cực trong nhóm. Tôi đã viết thư gửi lên lãnh đạo phản ánh về vấn đề của chị ta và đã thu thập đánh giá của anh chị em khác về chị ta, chuẩn bị để cách chức chị ta”. Tôi đã đọc các bản đánh giá, và đa số các anh chị em đều nói chị Tân Thành có sở trường trong bổn phận và có tố chất tốt, chỉ là tâm tính chị ấy hơi kiêu ngạo. Họ nói đôi lúc chị ấy bám vào quan niệm khi thảo luận công việc, nhưng nếu thông công rõ ràng với chị ấy thì chị ấy có thể tiếp thu. Nói chung, chị ấy vẫn có thể được bồi dưỡng. Tôi nghĩ: “Đánh giá của Vương Lợi về chị ấy không khách quan hay công bằng, chị Tân Thành không nên bị cách chức tùy tiện như vậy. Có phải chị Tân Thành phản bác ý kiến của chị Vương Lợi làm chị ấy mất mặt, nên Vương Lợi đã có thành kiến và muốn cách chức chị ấy không? Nếu là như vậy thì Vương Lợi nên phản tỉnh lại bản thân”. Nghĩ như thế, tôi đã muốn chỉ ra vấn đề này với chị ấy, nhưng rồi tôi lại nghĩ: “Chị ấy rất chú trọng đến việc giữ thể diện – liệu sau khi mình nói xong thì chị ấy có ác cảm với mình không? Nếu mối quan hệ của mình với chị ấy xấu đi, về sau làm sao mà cộng tác hòa hợp đây?”. Vậy nên, tôi khéo léo nói với chị ấy, “Chị Tân Thành tin Đức Chúa Trời chưa lâu, có chút tùy hứng, nhưng vấn đề của chị ấy cũng không nghiêm trọng đến mức bị cách chức. Chúng ta nên thông công nhiều hơn để giúp đỡ chị ấy”. Nghe thấy thế, vẻ mặt của Vương Lợi thay đổi hoàn toàn, và chị ấy khó chịu nói: “Vấn đề của Tân Thành không phải là tùy hứng, mà là có tâm tính không tốt. Tôi cũng từng nghĩ như chị, nhưng giờ tôi đã có thể phân định rõ ràng rồi. Cứ giúp chị ta nếu chị muốn. Từ giờ trở đi, chị có thể phụ trách công tác của chị ta”. Tôi thực sự không biết phải làm gì khi nghe thấy thế. Tôi nghĩ: “Mình vừa mới đến và vẫn còn chưa nắm bắt rõ tình hình màVương Lợi đã đùn đẩy cho mình phụ trách Tân Thành, như thế có thể làm chậm trễ công tác. Làm như thế là quá vô trách nhiệm”. Tôi muốn nói suy nghĩ của mình với chị ấy, nhưng thấy chị ấy lạnh lùng như vậy, tôi sợ mâu thuẫn sẽ phá hỏng hòa khí, nên tôi im lặng không nói gì nữa.
Vài ngày sau, vì nhu cầu công tác, chúng tôi có kế hoạch chuyển đến nơi mới để làm bổn phận. Chị Vương Lợi bỗng dưng nói với tôi, “Lần này đừng để Tân Thành đi cùng. Để chị ấy ở lại đây để phản tỉnh”. Tôi đã rất ngạc nhiên. Để chị ấy ở lại đây một mình có khác gì là cách chức chị ấy chứ? Làm như thế không chỉ gây chậm trễ công tác mà còn bất công với chị ấy. Trong lòng tôi thấy rất sốt ruột khi thấy chị Vương Lợi hành động theo tâm tính bại hoại, và tôi muốn vạch trần chuyện chị ấy làm vậy là lạm dụng chức quyền để tẩy chay và đàn áp chị Tân Thành. Nhưng tôi lại nghĩ lại việc mấy hôm trước tôi và chị ấy đã nói về chuyện của chị Tân Thành, chị ấy một chút cũng không chấp nhận và đã có thái độ không tốt với tôi, nếu tôi lại trực tiếp vạch trần và mổ xẻ thực chất hành vi việc làm của chị ấy, thì liệu chị ấy có thể nói tôi bảo vệ chị Tân Thành và gây khó dễ cho chị ấy hay không? Nếu việc này làm mối quan hệ của chúng tôi xấu đi, nếu chị ấy thù tôi và cạch mặt tôi, vậy sau này làm sao chúng tôi có thể phối hợp với nhau đây? Tôi đã lưỡng lự, rồi kìm lại những lời định nói. Trong lòng nghĩ: “Thôi bỏ đi. Mình không nên thẳng thắn vạch trần chị ấy. Cứ cho qua thôi”. Nghĩ vậy, tôi ấp a ấp úng nói rằng: “Lãnh đạo chưa xác nhận bất cứ thay đổi nào với bổn phận của chị ấy. Chúng ta để chị ấy ở lại đây liệu có phù hợp không? Hay là chúng ta nên đợi lãnh đạo duyệt rồi mới cách chức chị ấy. Cứ để chị ấy đi cùng chúng ta trong chuyến này. Như thế cũng dễ theo sát công tác hơn”. Nghe tôi nói thế, Vương Lợi không phản đối thêm nữa. Kỳ thực trong lòng tôi biết tôi vẫn chưa chỉ rõ vấn đề của chị ấy, cứ như vậy thì chị ấy vẫn sẽ tiếp tục nhắm vào chị Tân Thành. Tôi có chút dằn vặt trong lòng, nhưng rồi lại nghĩ: “Dù sao thì mình và chị ấy cùng phối hợp với nhau, nên mình sẽ theo dõi chị ấy nhiều hơn, không để chị ấy gây ra sai lầm lớn nào là được rồi”. Sau đó, chị ấy vẫn cứ cố ý loại trừ chị Tân Thành. Lần nọ, có một cơ hội học nghiệp vụ, rõ ràng chị Tân Thành là một người học hỏi rất nhanh, khả dĩ nhất là cử chị ấy đi đào tạo, rồi cho chị ấy về dạy lại những người khác. Nhưng Vương Lợi cứ một mực cử một người chị em khác đi, người không hiểu rõ lĩnh vực công tác đó. Tôi nghe được từ anh chị em khác nói thì biết được rằng: chị Tân Thành đã bày tỏ quan điểm trái chiều với Vương Lợi vài lần, và mọi người cảm thấy ý kiến của chị Tân Thành đều hay, nhưng Vương Lợi lại không chịu tiếp thu, và cứ một mực bắt chị Tân Thành phải nghe mình. Khi chị Tân Thành nêu ra vấn đề của Vương Lợi trong buổi nhóm họp, sau đó là chị ấy tức giận và phớt lờ chị Tân Thành. Khi Vương Lợi thấy chị Tân Thành gặp vấn đề trong bổn phận, chị ta nhìn thấy cũng không chịu giúp giải quyết, khiến chị Tân Thành không có đường hướng trong khi làm bổn phận rồi sống trong khó khăn. Tôi rất khó chịu khi biết những chuyện như vậy. Vương Lợi đã luôn có thành kiến, bài xích và đàn áp chị Tân Thành. Vấn đề này khá nghiêm trọng. Việc này đã hình thành nên sự gián đoạn và nhiễu loạn, làm cản trở đến công tác. Đi về tôi phải nói chuyện này rõ ràng với Vương Lợi. Hôm đó, tôi lấy hết can đảm và nói với chị ấy: “Chị vẫn chưa xóa bỏ thành kiến với chị Tân Thành phải không? Chị Tân Thành vốn tiếp thu kỹ thuật mới rất nhanh. Chị không cho chị ấy đi, đây là chị đang dựa vào thành kiến mà đối đãi với người khác”. Nghe tôi nói thế, mặt chị Vương Lợi tối sầm lại và tức giận nói, “Tôi đã xóa bỏ thành kiến với chị ta rồi, nhưng giờ tôi lại có thành kiến với chị đấy. Mục công việc mà chị Tân Thành phụ trách không có hiệu quả, đó là Tân Thành có vấn đề. Tôi đã bảo với chị từ lâu chúng ta nên cách chức chị ta, nhưng chị không đồng ý”. Tôi thấy chị Vương Lợi một chút cũng không biết mình. Là một người phụ trách, chị ấy không phản tỉnh lại mình khi công việc không có hiệu quả, mà còn đùn đẩy trách nhiệm. Tôi rất tức giận, và rất muốn thẳng thắn vạch trần thực chất hành động của chị ấy. Nhưng khi thấy chị ấy không chấp nhận, trong lòng tôi cảm thấy bị kìm kẹp, tự nhủ: “Mình mới nói vài lời chân thật với chị ấy, mà chị ấy đã có quan điểm gay gắt với mình như vậy. Nếu mình thực sự vạch trần hết mọi vấn đề của chị ấy ra, chị ấy chắc chắn sẽ nổi cơn tam bành, như thế chắc chắn sẽ phá hỏng mối quan hệ của mình với chị ấy. Tốt hơn là không nói thêm gì nữa, vả lại mình cũng đã nhắc nhở chị ấy rồi. Chị ấy không chịu tiếp nhận thì thôi vậy, bỏ qua đi”. Sau đó, vì điều chỉnh trong công tác nên tôi chủ yếu phụ trách công tác khác và ít gặp chị Vương Lợi.
Không ngờ, khoảng ba tuần sau, công tác do Vương Lợi phụ trách vẫn không đạt được hiệu quả, các anh chị em trong nhóm cũng cảm thấy yếu đuối và chán nản. Họ phản ánh rằng khi chị ấy thấy họ không thực hiện tốt bổn phận, Vương Lợi chỉ trách mắng họ, mà không thông công hay hướng dẫn họ. Họ đều cảm thấy bị chị ấy kìm kẹp, và tiêu cực đến nỗi không biết phải thực hiện bổn phận thế nào. Họ còn nói suốt mấy tháng trời, chị ấy không hề hướng dẫn công tác của chị Tân Thành. Họ nước mắt lưng tròng mà kể cho tôi những chuyện đó. Tôi không thể bình tĩnh nổi nữa. Thực ra tôi đã thấy vấn đề của Vương Lợi từ rất lâu rồi, nhưng tôi đã không chỉ ra thực chất của những vấn đề này với chị ấy. Chị ấy cũng không có chút hiểu biết gì về tâm tính bại hoại của chính mình, và chị ấy cứ luôn mang theo thành kiến mà bài trừ người không cùng ý kiến với mình, cũng không nghe lời góp ý của người khác, dẫn đến việc công tác gần như bị tê liệt. Nghĩ đến đây, tôi cảm thấy tự trách mình. Khi về đến nhà, tôi đọc một đoạn lời Đức Chúa Trời vạch rõ những kẻ địch lại Đấng Christ: “Bề ngoài, lời nói của những kẻ địch lại Đấng Christ có vẻ đặc biệt tử tế, có văn hóa và có phong độ. Bất kể ai vi phạm nguyên tắc, gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác hội thánh, thì kẻ địch lại Đấng Christ đều không vạch trần hay phê bình; họ chỉ làm ngơ, để mọi người nghĩ rằng chuyện gì họ cũng có thể độ lượng. Bất kể người ta bộc lộ sự bại hoại nào hoặc làm việc ác gì, kẻ địch lại Đấng Christ đều độ lượng và bao dung. Họ không giận dữ hay nổi cơn thịnh nộ, người khác làm sai và gây tổn hại đến lợi ích của hội thánh, họ cũng không nổi giận hay khiển trách. Bất kể ai hành ác và gây nhiễu loạn công tác của nhà Đức Chúa Trời, họ cũng không để ý đến, như thể việc này không liên quan gì đến họ, và họ sẽ không bao giờ đắc tội người ta vì điều đó. Những kẻ địch lại Đấng Christ quan tâm đến điều gì nhất? Quan tâm đến việc bao nhiêu người đánh giá cao về họ, và bao nhiêu người nhìn thấy họ khi họ chịu khổ, và khen ngợi họ vì điều đó. Những kẻ địch lại Đấng Christ tin rằng không bao giờ được chịu khổ nếu không thu được gì cả; bất kể họ phải chịu đựng khó khăn gì, họ phải trả giá như thế nào, họ làm những việc lành gì, họ quan tâm, ân cần và yêu thương người khác như thế nào, tất cả những điều này đều phải được thực hiện trước mặt người khác, càng có nhiều người thấy càng tốt. Và mục đích của họ khi hành động như vậy là gì? Để thu phục lòng người, khiến càng nhiều người trong lòng tán thành và ủng hộ đối với những hành động của họ, đối với cách làm người của họ, đối với phẩm chất nhân tính của họ. Thậm chí có những kẻ địch lại Đấng Christ còn cố gắng thiết lập hình ảnh bản thân là một ‘người tốt’ thông qua những hành xử tốt đẹp bề ngoài này, hầu cho nhiều người đến với họ để tìm kiếm sự giúp đỡ” (Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ. Mục 9 (Phần 10)). Những kẻ địch lại Đấng Christ sẽ không can thiệp khi thấy người khác gây gián đoạn và nhiễu loạn công tác của hội thánh để họ có thể thiết lập hình ảnh tốt đẹp trong lòng người khác – họ rất ích kỷ và hèn hạ. Nghĩ lại hành vi của bản thân, tôi nhận ra mình đã hành xử như một kẻ địch lại Đấng Christ. Hội thánh đã sắp xếp cho tôi phối hợp với Vương Lợi để làm bổn phận, để chúng tôi có thể bù đắp cho nhau, giám sát và hạn chế nhau, cùng nhau bảo vệ công tác của hội thánh. Nhưng để bảo vệ mối quan hệ “hòa thuận” của tôi với Vương Lợi, để giữ hình ảnh “người tốt” với chị ấy, tôi không dám phơi bày cách đối xử tẩy chay, đàn áp của chị ấy với chị Tân Thành. Tôi đã thấy cách chị ấy đối xử với người khác dựa trên tâm tính bại hoại của chị ấy và đang ảnh hưởng đến công tác, nhưng tôi không tuân thủ nguyên tắc lẽ thật để ngăn chặn, càng không dám phản ánh lên cho lãnh đạo. Tôi sợ chị ấy sẽ phật ý với tôi và sẽ tạo khoảng cách giữa chúng tôi. Thậm chí khi tôi đủ can đảm để thông công gì đó với chị ấy, tôi vẫn cứ chần chừ, không thẳng thắn chỉ rõ ra thực chất hành vi của chị ấy. Tôi luôn châm chước cho chị ấy. Tôi chỉ biết trơ mắt nhìn chị ấy bài trừ và đàn áp các anh chị em, cản trở nghiêm trọng công tác của hội thánh, làm tổn hại đến lối vào sự sống của các anh chị em, ấy thế mà tôi chỉ khoanh tay đứng nhìn. Cuối cùng tôi cũng thấy rõ rằng người dễ dãi có thể bề ngoài giống như một người tốt và không làm phật lòng ai, nhưng thực ra họ láu cá và giả dối. Mọi việc họ làm đều là để bảo vệ bản thân, đều là để duy trì danh tiếng và địa vị. Họ dùng sự thân thiện bề ngoài để lấy lòng người khác và lung lạc lòng người. Họ bộc lộ tâm tính tà ác giống hệt như một kẻ địch lại Đấng Christ. Phản tỉnh lại hành động và lối cư xử của mình, tôi cảm thấy rất tội lỗi và căm ghét bản thân. Sao tôi lại quá láu cá, quá giả dối vậy chứ? Tôi đang thực hiện một bổn phận quan trọng như thế, nhưng tôi lại vô trách nhiệm và không tuân thủ nguyên tắc khi thấy vấn đề, phá hoại công tác của hội thánh và cản trở sự sống của các anh chị em. Chẳng phải tôi đang gây hại cho lợi ích của hội thánh khi làm vậy sao? Tôi thực sự vô lương tâm! Tôi đã cầu nguyện và ăn năn với Đức Chúa Trời rằng tôi muốn thôi phản nghịch và làm tổn thương Ngài, và tôi muốn thực hành lẽ thật và bảo vệ công tác của hội thánh.
Hôm sau, ngay khi tôi nói tới tình hình công tác mà chị Tân Thành phụ trách, vẻ mặt của Vương Lợi sầm lại ngay lập tức và chị ta bắt đầu oán trách rằng chị Tân Thành khiến những người khác tiêu cực. Tôi thấy chị ấy không hề tự phản tỉnh bản thân và còn đổ hết mọi trách nhiệm cho chị Tân Thành. Tôi nghĩ: “Mình còn chưa kịp bắt đầu mà chị ấy đã có vẻ cáu gắt rồi. Nếu nói ra vấn đề trong công tác của chị ấy, chắc chắn chị ấy sẽ có ác cảm với mình. Có nên nói ra không đây?”. Tôi cứ lưỡng lự và cảm thấy mình đang bị kìm kẹp, nên tôi thầm cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Tôi nghĩ tới việc Đức Chúa Trời yêu cầu chúng ta phải làm người trung thực và bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Nghĩ như thế, tôi có thêm can đảm để nói ra, bất kể chị ấy có nghĩ gì, tôi cũng phải nói hết ra những suy nghĩ thực sự của mình. Thế nên tôi đã nghiêm khắc và công tâm vạch trần những biểu hiện chị ấy chèn ép và trừng trị chị Tân Thành. Nhưng chị ấy không chịu tiếp thu. Chị ấy cứ tranh cãi ai đúng ai sai. Chị ấy không chịu tiếp nhận bất cứ lẽ thật nào hay biết mình. Tôi thấy được vấn đề của chị ấy đã quá nghiêm trọng, và chị ấy không thể tiếp tục thực hiện bổn phận này được nữa, nên tôi đã phản ánh việc này với lãnh đạo. Lãnh đạo nói đã cố thông công để giúp đỡ Vương Lợi về vấn đề này nhiều lần trước đây, nhưng đến giờ chị ấy vẫn không thay đổi. Dựa vào hành vi của chị ấy cho thấy chị ấy có nhân tính không tốt, không chịu tiếp nhận lẽ thật, và chị ấy không thể làm công tác được nữa. Do đó chị ấy phải bị cách chức càng sớm càng tốt. Ngoài ra, lãnh đạo muốn tôi làm việc đó. Kỳ thực, tôi thấy hơi bối rối, và nghĩ: “Từ khi mình phơi bày vấn đề của chị ấy, thái độ của chị ấy với mình đã không như trước kia nữa. Nếu mình đích thân cách chức chị ấy, sẽ là đắc tội nặng với chị ấy. Liệu sau đó chị ấy có ghét mình không? Liệu chị ấy có nghĩ mình cố nhắm vào chị ấy không?”. Tôi thấy tranh đấu trong lòng và không biết phải đối diện với chị ấy như thế nào. Khi tôi đang buồn phiền vì chuyện này, thì tôi đọc được đoạn lời Đức Chúa Trời này: “Hầu hết mọi người đều muốn mưu cầu và thực hành lẽ thật, nhưng phần lớn thời gian họ chỉ dừng ở một quyết tâm và khao khát làm như vậy; lẽ thật chưa trở thành sự sống của họ. Kết quả là, khi họ gặp phải các thế lực tà ác hay đối mặt với những kẻ ác và người xấu làm những việc ác, hay những lãnh đạo giả và những kẻ địch lại Đấng Christ làm việc theo cách vi phạm các nguyên tắc – do đó làm nhiễu loạn công tác của hội thánh và gây hại cho dân được Đức Chúa Trời chọn – họ mất dũng khí để đứng ra và lên tiếng. Khi ngươi không có dũng khí có nghĩa là gì? Có phải nó có nghĩa là ngươi nhút nhát hay không thể nói nên lời không? Hay có phải là ngươi không hiểu thấu đáo, và do đó không tự tin lên tiếng? Cũng không; đây chủ yếu là hậu quả của việc bị tâm tính bại hoại kìm kẹp. Một trong những tâm tính bại hoại ngươi bộc lộ là tâm tính giả dối; khi có chuyện xảy ra với ngươi, điều đầu tiên ngươi nghĩ đến là tư lợi, điều đầu tiên ngươi cân nhắc là hậu quả, xem liệu điều này có lợi cho mình hay không. Đây là tâm tính giả dối, không phải sao? Một tâm tính khác là sự ích kỷ và đê tiện. Ngươi nghĩ: ‘Thiệt hại về lợi ích của nhà Đức Chúa Trời có ảnh hưởng gì tới tôi? Tôi không phải là lãnh đạo nên sao tôi phải quan tâm? Điều đó không liên quan gì đến tôi cả. Đó không phải là trách nhiệm của tôi’. Những suy nghĩ và lời nói như vậy không phải là điều mà ngươi chủ ý suy nghĩ, mà được tạo ra bởi tiềm thức của ngươi – đó là tâm tính bại hoại bị bộc lộ khi người ta gặp phải một vấn đề. … Ngươi bất lực đối với những gì ngươi nói và làm. Ngay cả khi ngươi muốn, ngươi cũng không thể nói sự thật hoặc nói những gì ngươi thực sự nghĩ; ngay cả khi ngươi muốn, ngươi cũng không thể thực hành lẽ thật; ngay cả khi ngươi muốn, ngươi cũng không thể hoàn thành trách nhiệm của mình. Mọi điều ngươi nói, làm và thực hành đều là dối trá, và ngươi chỉ qua loa chiếu lệ. Ngươi hoàn toàn bị trói buộc và kiểm soát bởi tâm tính Sa-tan của mình. Ngươi có thể muốn chấp nhận và thực hành lẽ thật, nhưng điều đó không phải tùy ý ngươi. Khi tâm tính Sa-tan kiểm soát ngươi, ngươi nói và làm bất cứ điều gì tâm tính Sa-tan của ngươi bảo phải làm. Ngươi chẳng là gì khác ngoài con rối của xác thịt bại hoại, ngươi đã trở thành một công cụ của Sa-tan. Sau đó ngươi còn hối hận, ngươi cảm thấy bản thân lại thuận theo xác thịt bại hoại, tại sao lại không thể thực hành lẽ thật? Ngươi nghĩ: ‘Chỉ dựa vào bản thân thì không thể chiến thắng xác thịt, tôi phải cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Tôi đã không đứng ra ngăn cản người quấy nhiễu công tác của hội thánh, lương tâm tôi bị cắn rứt. Tôi lập quyết tâm rằng khi gặp chuyện tương tự, tôi phải ra mặt, phải thực hiện bổn phận tỉa sửa những người có hành vi xằng bậy gây nhiễu loạn công việc của hội thánh, để họ cư xử đúng mực và không tự ý làm xằng làm bậy nữa’. Khó khăn lắm mới lấy hết can đảm để lên tiếng, kết quả đối phương vừa giận dữ và đập bàn một cái, ngươi liền bị dọa rồi rút lui. Ngươi có khả năng đảm trách không? Quyết tâm và ý chí của ngươi có ích gì? Đều vô dụng cả. Các ngươi chắc chắn đã gặp phải tình huống này nhiều lần. Gặp phải khó khăn thì liền bỏ cuộc, cảm thấy mình không làm được gì, cam chịu, quy định là bản thân không còn hy vọng gì. Lúc đó ngươi đã bị đào thải hoàn toàn rồi. Ngươi thừa nhận mình không mưu cầu lẽ thật, vậy tại sao ngươi không hối cải? Ngươi đã thực hành lẽ thật chưa? Ngươi nghe giảng đạo nhiều năm như vậy, chẳng lẽ nghe không hiểu chút nào sao? Tại sao lại không thực hành một chút lẽ thật nào? Trước giờ ngươi chưa từng tìm kiếm lẽ thật, càng chưa từng thực hành lẽ thật, chỉ là trong lòng liên tục cầu nguyện, hạ quyết tâm, lập ý chí, thề thốt mà thôi. Kết quả như thế nào? Ngươi vẫn là một kẻ chiều lòng người, phát hiện vấn đề cũng không nói, trông thấy kẻ ác cũng không lo. Ngươi không quan tâm có người nào đang làm việc ác, gây nhiễu loạn hay không. Ngươi cảm thấy thờ ơ vì mọi chuyện đều không liên quan đến mình, cho rằng: ‘Miễn là không liên quan đến mình thì mình không nói gì cả. Chỉ cần không tổn hại đến lợi ích của mình, không tổn hại đến thể diện và hư vinh của mình thì mình không cần quan tâm gì cả. Phải hết sức thận trọng, chim ló đầu thì bị bắn. Mình chẳng đời nào làm chuyện ngu ngốc như vậy!’. Ngươi hoàn toàn dưới sự kiểm soát của tâm tính bại hoại của ngươi, tâm tính tà ác, giả dối, cương ngạnh, và chán ghét lẽ thật. Chúng kiểm soát ngươi một cách rất chặt chẽ, thậm chí còn đau khổ hơn là mang vòng kim cô. Sống dưới sự kiểm soát của tâm tính bại hoại là điều rất mệt mỏi và vô cùng đau khổ!” (Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời Đức Chúa Trời như dao sắc cứa vào tâm can tôi. Tôi phản tỉnh lại việc mình luôn sợ làm phật lòng Vương Lợi, không dám thực hành lẽ thật và phơi bày sự thật. Tôi bị kiểm soát bởi tâm tính Sa-tan tà ác, giả dối và chán ghét lẽ thật. Tôi xem những triết lý xử thế của Sa-tan như “Dĩ hòa vi quý”, “Đánh người chớ đánh vào mặt, vạch mặt người chớ vạch khuyết điểm”, “Thấy chuyện không ổn thì chớ nói nhiều”, “Lời bộc trực gây hiềm thù” làm quy tắc sống. Tôi không dám lên tiếng về những vấn đề mình thấy, cũng không tuân thủ nguyên tắc để bảo vệ công tác của hội thánh. Tôi đang sống vô cùng hèn nhát. Khi lãnh đạo muốn tôi cách chức Vương Lợi, tôi đã biết rõ là phải làm ngay nếu không công tác của hội thánh sẽ bị đình trệ. Nhưng tôi không thể mở miệng, sợ làm phật lòng chị ấy. Bề ngoài có vẻ như tôi rất thân thiện với người khác và không muốn làm ai tổn thương, nhưng thực ra tôi đang bán rẻ lợi ích của hội thánh để đổi lấy việc giữ được hình ảnh tốt trong lòng người khác. Lần nào tôi cũng bao che cho Vương Lợi, để chị ấy quấy nhiễu công tác của hội thánh. Tôi giống như tấm khiên chắn cho Sa-tan hoành hành trong hội thánh. Tôi chính là một kẻ giả dối đạo đức giả! Những triết lý xử thế của Sa-tan này chính là những lời ngụy biện mê hoặc và làm hại con người! Xã hội hiện nay tăm tối và tà ác như vậy chính là vì con người sống theo những triết lý này. Họ trở nên hèn nhát, đê hèn và căm ghét sự sáng. Không ai dám đứng lên để bảo vệ sự công chính và phơi bày sự thật. Nhưng những ai nói chuyện hay làm việc biết gió theo chiều nào ngả theo chiều đó, nói chuyện khôn khéo thì lại hanh thông và nắm quyền. Không có chút công bằng hay công chính nào. Người trên thế gian ai ai cũng lừa lọc nhau, chẳng hề có chút tình nghĩa chân thành nào. Đây chính là hậu quả khi bị Sa-tan làm cho bại hoại. Cuối cùng tôi đã thấy rõ được những triết lý Sa-tan này có vẻ phù hợp với quan niệm của con người, nhưng thật ra chúng là những lời ma quỷ của Sa-tan dùng để mê hoặc và làm bại hoại con người. Sống theo chúng khiến chúng ta càng ngày càng ích kỷ, tà ác và giả dối. Thật là một cách sống hèn hạ, bẩn thỉu và không có một chút hình tượng giống con người nào.
Sau đó, tôi đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời: “Nếu ngươi biết mở lòng, nếu ngươi không tỏ vẻ, không giả vờ, không che đậy, nếu ngươi bộc lộ bản thân mình với các anh chị em, không che giấu những ý tưởng và suy nghĩ sâu xa nhất của mình, mà thay vào đó là để cho người khác nhìn thấy thái độ trung thực của ngươi, thì lẽ thật sẽ dần dần bén rễ trong ngươi, nó sẽ đơm hoa kết trái, nó sẽ mang lại kết quả, từng chút một. Nếu lòng ngươi ngày càng trung thực, và ngày càng hướng về Đức Chúa Trời, và nếu ngươi biết bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời khi ngươi thực hiện bổn phận của mình, và lương tâm của ngươi cắn rứt khi ngươi không bảo vệ được những lợi ích này, thì đây là bằng chứng cho thấy lẽ thật đã ảnh hưởng đến ngươi, và đã trở thành sự sống của ngươi. Một khi lẽ thật đã trở thành sự sống trong ngươi, khi ngươi quan sát thấy một người nào đó phạm thượng đối với Đức Chúa Trời, không kính sợ Đức Chúa Trời, qua loa chiếu lệ trong khi thực hiện bổn phận của họ, hoặc người nào đó làm gián đoạn và nhiễu loạn công tác của hội thánh, ngươi sẽ phản ứng theo các nguyên tắc của lẽ thật, sẽ có thể phân định và phơi bày họ khi cần thiết. … Nếu ngươi là người thực sự tin Đức Chúa Trời, thì dù ngươi chưa đạt được lẽ thật và sự sống, chí ít ngươi cũng sẽ nói và hành động từ phía Đức Chúa Trời; chí ít, ngươi cũng sẽ không thừ ra đó khi thấy những lợi ích của nhà Đức Chúa Trời bị tổn hại. Khi ngươi giục lòng nhắm mắt làm ngơ, ngươi sẽ cảm thấy tội lỗi, không thoải mái, và sẽ tự nhủ: ‘Mình không thể ngồi đây và không làm gì, mình phải đứng lên và nói gì đó, mình phải gánh lấy trách nhiệm, mình phải vạch trần hành vi xấu xa này, mình phải ngăn chặn nó, để những lợi ích của nhà Đức Chúa Trời không bị tổn hại, và đời sống hội thánh không bị nhiễu loạn’. Nếu lẽ thật đã trở thành sự sống của ngươi, thì ngươi sẽ không chỉ có dũng khí, quyết tâm này, và sẽ không chỉ có khả năng hiểu vấn đề hoàn toàn, mà ngươi còn thực hiện trách nhiệm mình nên gánh vác vì công tác của Đức Chúa Trời và vì lợi ích của nhà Ngài, và bổn phận của ngươi bởi đó sẽ được thực hiện” (Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Đọc xong lời Đức Chúa Trời, tôi cảm thấy vừa tội lỗi vừa được khích lệ. Sau bao năm tin Đức Chúa Trời, tận hưởng những lẽ thật mà Đức Chúa Trời cung dưỡng, tôi vẫn không thể tuân giữ nguyên tắc để bảo vệ công tác của hội thánh. Tôi thật sự vô lương tâm! Tôi phải gỡ bỏ mặt nạ người dễ dãi. Tôi không thể cứ sống theo tâm tính bại hoại tà ác và giả dối được. Tôi phải đứng lên thực hành lẽ thật và bảo vệ lợi ích của hội thánh. Sau đó, tôi tìm chị Vương Lợi và cách chức chị ấy. Tôi cũng cởi mở thông công với chị ấy, vạch trần từng hành vi không chịu tiếp nhận lẽ thật, chèn ép mọi người, gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của hội thánh của chị ấy. Tôi không còn chọn nói những lời dễ nghe, không gây tổn thương để lừa gạt chị ấy nữa. Tôi thực sự muốn giúp chị ấy, và phơi bày những vấn đề của chị ấy, để chị ấy có thể hiểu tâm tính bại hoại của mình và thực sự ăn năn. Nghe xong, chị ấy buồn đến phát khóc và nói rằng sẵn sàng tiếp nhận sự sắp đặt của hội thánh, quay về và nghiêm túc phản tỉnh bản thân và rút ra bài học. Sau đó, tình trạng của các anh chị em dần dần được khôi phục lại bình thường, công tác cũng bắt đầu có kết quả. Tôi thực sự cảm nhận được sự bình an và thoải mái khi thực hành lẽ thật, cảm thấy rằng chỉ có làm người như vậy thì mới quang minh lỗi lạc.
Sau đó có một vài sự điều chỉnh trong công tác, nên tôi bắt đầu chăm tưới những người mới cùng vài chị em khác. Lúc đó, tôi thấy chị Trần Tư không mang nhiều gánh trọng trách trong bổn phận, chểnh mảng và vô trách nhiệm, ảnh hưởng đến hiệu quả công tác chăm tưới. Tôi sốt ruột về chuyện đó và muốn chỉ ra vấn đề để chị ấy có thể thay đổi càng sớm càng tốt. Nhưng vì chúng tôi chỉ mới biết nhau và chưa hòa đồng lắm, nên tôi tự nhủ nếu nói thẳng về sự vô trách nhiệm trong bổn phận của chị ấy, liệu chị ấy có ác cảm với tôi không? Rồi tôi nhận ra mình đang suy nghĩ như một người dễ dãi, nên vội cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Sau đó, tôi đọc lời Đức Chúa Trời phán: “‘Rồi, Giê-hô-va Ðức Chúa Trời phán dạy rằng; Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn: nhưng về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi ăn chắc sẽ chết’. … Trong những lời ngắn gọn này mà Đức Chúa Trời phán dạy, ngươi có thể thấy điều gì về tâm tính của Đức Chúa Trời không? Những lời này của Đức Chúa Trời có đúng không? Có sự lừa dối nào không? Có bất kỳ giả dối nào không? Có sự đe dọa nào không? (Không có.) Đức Chúa Trời phán dạy con người một cách trung thực, thành thật và chân thành về những gì họ có thể ăn và những gì họ không thể ăn. Đức Chúa Trời phán rõ ràng và thẳng thắn. Có bất kỳ ẩn ý nào trong những lời này không? Những lời không thẳng thắn sao? Có cần phải phỏng đoán không? Không cần phỏng đoán. Ý nghĩa của chúng là rõ ràng trong nháy mắt. Khi đọc chúng, người ta cảm thấy hoàn toàn rõ ràng về ý nghĩa của chúng. Đó là, những gì Đức Chúa Trời muốn nói và những gì Ngài muốn bày tỏ xuất phát từ trái tim Ngài. Những điều Đức Chúa Trời bày tỏ là tinh sạch, thẳng thắn và rõ ràng. Không có động cơ bí mật, cũng không có bất kỳ ẩn ý nào. Ngài trực tiếp phán dạy con người, bảo họ những gì có thể ăn và những gì không thể ăn. Điều đó có nghĩa là, qua những lời này của Đức Chúa Trời, con người có thể thấy rằng tấm lòng của Đức Chúa Trời là minh bạch và chân thực. Không có dấu vết của sự giả dối ở đây; không phải kiểu nói với ngươi rằng ngươi không được ăn những gì có thể ăn được, hoặc nói với ngươi ‘Hãy làm điều đó và xem điều gì sẽ xảy ra’ với những thứ mà ngươi không thể ăn được. Đây không phải là những gì Đức Chúa Trời muốn nói. Bất cứ điều gì Đức Chúa Trời nghĩ trong lòng, thì đó là những gì Ngài phán dạy” (Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất IV, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Tôi thấy những gì Đức Chúa Trời nói với A-đam và Ê-va rất rõ ràng và thẳng thắn. Ngài rất chân thành với con người và không có gì giả dối hay giấu diếm cả. Thực chất của Đức Chúa Trời quá thánh khiết. Vào thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời bày tỏ lẽ thật để phán xét và hành phạt con người. Lời Ngài thẳng thắn phơi bày và mổ xẻ bản tính thực chất của con người, vạch rõ sự xấu xí và bất chính bên trong chúng ta. Lời Ngài rất rõ ràng, không có gì là giấu diếm sự thật. Chúng có thể gay gắt, nhưng đều là sự cứu rỗi của chúng ta. Mục đính của chúng là để làm tinh sạch và thay đổi chúng ta, để chúng ta có thể biết mình và chống lại Sa-tan, và sống thể hiện ra hình tượng giống con người. Sa-tan thì hoàn toàn ngược lại: nó nham hiểm và tà ác, ăn nói vòng vo, không bao giờ nói thẳng ra điều nó muốn làm. Lúc ban đầu, nó nói những lời dễ nghe, những lời như đúng mà lại sai để dụ dỗ và mê hoặc A-đam và Ê-va khiến họ phạm tội và phản bội Đức Chúa Trời. Tôi đã sống theo triết lý Sa-tan, bộc lộ tâm tính tà ác và giả dối như Sa-tan. Để bảo vệ mối quan hệ của tôi với người khác, và để bảo vệ hình tượng của mình trong lòng người, tôi nghĩ một đằng nói một nẻo. Tôi quanh co như rắn, mơ hồ và mập mờ để người khác không thể hiểu được chính xác ý tôi muốn nói là gì. Tôi vô cùng lươn lẹo và giả dối. Tôi sống thể hiện ra là hình tượng của Sa-tan, chứ không phải là hình tượng con người! Tôi ghê tởm bản thân khi nhận ra điều này và tôi không muốn làm một người dễ dãi hay giả dối nữa. Tôi muốn thực hành lẽ thật và làm một người trung thực bảo vệ công tác của hội thánh. Trong buổi nhóm họp hôm sau, tôi mở lòng nói ra những vấn đề tôi thấy ở chị Trần Tư và sau đó chúng tôi cùng nhau thông công, rồi chị ấy đã có thể nhận ra vấn đề của mình. Sau đó, tôi thấy tình trạng của chị ấy dần xoay chuyển, và tôi cảm thấy thanh thản và được giải phóng hơn.
Trải qua những trải nghiệm này cho tôi thấy rằng chúng ta không nên sống theo triết lý Sa-tan và lừa gạt nhau. Chúng ta nên đơn giản, cởi mở và chân thành trong cách đối xử với nhau. Chỉ như vậy mới là tình yêu thương thực sự và có lợi cho mọi người. Tôi cũng thấy rằng để có nhân tính và cảm nhận được sự bình an, vui vẻ, chúng ta phải thực hành làm người trung thực theo yêu cầu của Đức Chúa Trời. Đây là cách duy nhất để sống thể hiện ra hình tượng giống con người. Tạ ơn Đức Chúa Trời!