Tôi không còn hạn định Đức Chúa Trời

02/12/2022

Bởi Thi Kỳ, Đài Loan

Từ thời thơ ấu, em đã theo mẹ tin vào Đức Chúa Jêsus và hưởng ân điển dồi dào của Ngài. Từ đó, em cảm nhận sâu sắc được lòng thương xót và tình yêu vô bờ của Đức Chúa Jêsus dành cho nhân loại. Em đã quen kêu cầu Ngài để xin ân điển. Mỗi khi gặp chuyện là em cầu nguyện với Chúa, mỗi khi phạm tội là em tìm đến xưng tội với Ngài. Vì Chúa giàu lòng thương xót và yêu thương, Ngài sẽ luôn tha tội cho em.

Rồi vào một ngày tháng 5 năm 2019, em gặp chị Trương và chị Lý trên Facebook. Chúng em cùng tham gia một nhóm tìm hiểu Kinh Thánh, và em thấy mối thông công của chị Lý về Kinh Thánh đầy thấu suốt. Một hôm nọ, trong buổi hội họp, chị Lý bảo: “Chúa nói Ngài sẽ trở lại trong thời kỳ sau rốt, vậy khi nào chúng ta có thể nghênh tiếp Ngài? Đức Chúa Jêsus phán: ‘Chiên ta nghe tiếng ta(Giăng 10:27). ‘Nầy, ta đứng ngoài cửa mà gõ; nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì ta sẽ vào cùng người ấy, ăn bữa tối với người, và người với ta(Khải Huyền 3:20). Còn nữa, ‘Ai có tai, hãy nghe lời Ðức Thánh Linh phán cùng các Hội thánh(Khải Huyền 2:7). Từ những câu này, chúng ta có thể thấy rằng khi Chúa đến trong thời kỳ sau rốt, Ngài sẽ bày tỏ lời Ngài. Điều mấu chốt để nghênh tiếp Chúa trong thời kỳ sau rốt là lắng nghe cho kỹ để tìm tiếng Đức Chúa Trời. Khi nghe tiếng Đức Chúa Trời, chúng ta có thể nghênh tiếp Chúa như các trinh nữ khôn ngoan”. Em quá ngạc nhiên khi nghe mối thông công của chị Lý. Trước giờ em chưa nghe lời nào sâu sắc đến vậy. Chị ấy đã xác định được điểm mấu chốt để nghênh tiếp Chúa. Trước giờ, em chưa hề nhận ra điều này. Sau đó, chị Lý cho em xem một video thánh ca rất sống động. Cuối video, em thấy có dòng chữ: “Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng”, làm em cảm thấy tò mò. Khi hết buổi tìm hiểu Kinh Thánh, em liền lên mạng tìm kiếm và thấy rất nhiều thông tin tiêu cực, thế là em liền liên lạc chị Trương để tìm hiểu thêm. Chị Trương nói rằng việc nghênh tiếp Chúa là chuyện lớn và khuyến khích em đừng bị dao động bởi dao ngôn. Em phải gạt bỏ những bận tâm và khiêm nhượng tìm kiếm để xem đây có phải là con đường thật hay không. Vài ngày sau, chị Trương mời em đến dự một buổi hội họp. Trong lòng em thấy mâu thuẫn lắm, không biết có nên đi hay không. Mối thông công của chị Lý dựa trên Kinh Thánh đầy thấu suốt và em muốn được nghe thêm, nhưng em cũng lo điều chị ấy rao giảng không phải là con đường thật. Khi đang chần chừ như vậy, em bèn cầu nguyện với Chúa, xin Ngài dẫn dắt em. Sau đó, em đi dự buổi hội họp.

Trong buổi hội họp, chị Lý háo hức nói với em: “Đức Chúa Jêsus đã trở lại, là Đức Chúa Trời Toàn Năng nhập thể. Đức Chúa Trời Toàn Năng đã bế mạc Thời đại Ân điển và thiết lập Thời đại Vương quốc, đã bày tỏ hàng triệu lời, và dựa trên nền tảng công tác cứu chuộc của Đức Chúa Jêsus, Ngài đang thực hiện công tác phán xét khởi từ nhà Đức Chúa Trời, để làm tinh sạch và cứu rỗi nhân loại triệt để. Những lời Đức Chúa Trời Toàn Năng bày tỏ đều là lẽ thật và chúng tiết lộ lẽ nhiệm mầu về sự nhập thể của Đức Chúa Trời, ba giai đoạn công tác của Ngài, nội tình của Kinh Thánh. Lời Ngài cũng cho biết căn nguyên sự tội của nhân loại, cách Sa-tan làm bại hoại nhân loại, cách Đức Chúa Trời cứu rỗi nhân loại trong những giai đoạn lũy tiến, ý nghĩa công tác phán xét của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt. Đức Chúa Trời cũng bày tỏ những con đường để các tín hữu đạt được sự cứu rỗi. Ví dụ như, Đức Chúa Trời nói chi tiết cách trải nghiệm sự phán xét của lời Ngài hầu loại bỏ sự bại hoại của chúng ta, cách để thực hành lẽ thật và làm người trung thực, cách để kính sợ Ngài và tránh xa sự ác để trở nên người thực thi ý muốn của Ngài, vân vân. Lời và công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng đã ứng nghiệm lời tiên tri của Đức Chúa Jêsus: ‘Ta còn có nhiều chuyện nói với các ngươi nữa; nhưng bây giờ những điều đó cao quá sức các ngươi. Lúc nào Thần lẽ thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật; vì Ngài không nói tự mình, nhưng nói mọi điều mình đã nghe, và tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến(Giăng 16:12-13). ‘Người nào bỏ Ta ra và không nhận lãnh lời Ta, đã có kẻ xét đoán rồi; lời Ta đã rao giảng, chính lời đó sẽ xét đoán họ nơi ngày sau cùng(Giăng 12:48). ‘Vì thời kỳ đã đến, là khi sự phán xét sẽ khởi từ nhà Ðức Chúa Trời(1 Phi-e-rơ 4:17)”. Khi tôi nghe chị ấy nói rằng Đức Chúa Jêsus đã trở lại làm Đức Chúa Trời Toàn Năng nhập thể. Em không dám tin, nên đã thầm cầu nguyện với Đức Chúa Trời, và nghĩ đến chuyện Đức Chúa Trời đã phán: “Phước cho những kẻ có lòng khó khăn, vì nước thiên đàng là của những kẻ ấy!(Ma-thi-ơ 5:3). Em nghĩ: “Sự tái lâm của Đức Chúa Trời là chuyện trọng đại, mình không thể mù quáng kết luận được. Mình phải khiêm nhượng tìm kiếm và tiếp tục lắng nghe”.

Sau đó, chị Lý cho em đọc một đoạn lời Đức Chúa Trời Toàn Năng. “Đấng Christ của thời kỳ sau rốt mang đến sự sống, và mang đến con đường lẽ thật bền vững và vĩnh cửu. Lẽ thật này là con đường mà thông qua đó con người đạt được sự sống, và đây là con đường duy nhất mà qua đó con người mới biết đến Đức Chúa Trời và được Đức Chúa Trời chấp thuận. Nếu ngươi không kiếm tìm con đường sự sống được Đấng Christ của thời kỳ sau rốt cung cấp, thì ngươi sẽ không bao giờ có được sự chấp thuận của Jêsus, và sẽ không bao giờ đủ tư cách để bước vào cánh cổng của vương quốc thiên đàng, bởi ngươi vừa là con rối, vừa là tù nhân của lịch sử. Những ai bị chi phối bởi phép tắc, bởi câu chữ, và bị trói buộc bởi lịch sử sẽ không bao giờ có thể có được sự sống, cũng như không thể đạt được con đường sự sống đời đời. Đó là bởi vì tất cả những gì họ có được chỉ là nước đục mà họ đã bám vào hàng ngàn năm nay, thay vì nước sự sống tuôn chảy từ ngôi. Những ai không được cung cấp nước sự sống thì sẽ vẫn mãi là những xác chết, là những món đồ chơi của Sa-tan, và là con cái của địa ngục. Vậy thì làm sao họ có thể nhìn thấy Đức Chúa Trời? Nếu ngươi chỉ cố bám víu vào quá khứ, chỉ cố giữ mọi thứ nguyên trạng bằng cách đứng yên, và không thử thay đổi hiện trạng cũng như buông bỏ lịch sử, thì chẳng phải ngươi sẽ luôn luôn chống lại Đức Chúa Trời sao? Các bước trong công tác của Đức Chúa Trời lớn lao và vĩ đại, như sóng trào và sấm dội – mà ngươi thì ngồi thụ động chờ đợi sự hủy diệt, bám lấy sự dại dột của mình và chẳng làm gì cả. Bằng cách này, làm sao ngươi có thể được xem là một người đang theo bước chân của Chiên Con? Làm sao ngươi có thể biện hộ rằng Đức Chúa Trời mà ngươi đang bám víu vào là một Đức Chúa Trời luôn mới mẻ và không bao giờ cũ? Và làm sao những câu chữ trong những trang sách ố vàng của ngươi có thể đưa ngươi sang một thời đại mới? Làm sao chúng có thể dẫn dắt ngươi tìm kiếm các bước trong công tác của Đức Chúa Trời? Và làm sao chúng có thể dẫn ngươi lên được thiên đàng? Thứ ngươi đang giữ trong tay là những câu chữ có thể đem lại chút khuây khỏa tạm bợ, chứ không phải là lẽ thật có thể ban sự sống. Thánh kinh mà ngươi đọc chỉ có thể làm phong phú cho miệng lưỡi của ngươi và không phải là những lời triết lý có thể giúp ngươi biết được sự sống của con người, càng không phải là những con đường có thể dẫn dắt ngươi đến sự hoàn thiện. Sự khác biệt này không cho ngươi lý do để suy ngẫm sao? Nó không khiến ngươi nhận ra được những mầu nhiệm ẩn chứa trong đó sao? Ngươi có khả năng tự mình lên thiên đàng để gặp Đức Chúa Trời không? Không có sự hiện đến của Đức Chúa Trời, ngươi có thể tự mình vào thiên đàng để tận hưởng niềm vui gia đình với Đức Chúa Trời không? Giờ ngươi vẫn đang mơ hay sao? Vậy thì ta đề nghị ngươi hãy thôi mơ mộng, và hãy nhìn xem ai đang làm việc lúc này – nhìn để thấy ai đang thực hiện công tác cứu rỗi con người trong thời kỳ sau rốt. Nếu không làm thế, ngươi sẽ không bao giờ có được lẽ thật, và sẽ không bao giờ có được sự sống(Chỉ Đấng Christ của thời kỳ sau rốt mới có thể ban cho con người con đường sự sống vĩnh cửu, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Khi đọc, em bắt đầu cảm thấy những lời này có gì đó khác biệt và em không khỏi nảy sinh lòng tôn kính. Những lời này có vẻ quá nghiêm khắc, gây đau lòng… mỗi câu từ đều đầy uy quyền và thẩm quyền, chẳng hề giống những lời lẽ của con người. Chỉ có Đức Chúa Trời mới phán được như thế này. Nhưng rồi em cũng nghĩ: “Thế này không đúng rồi. Đức Chúa Trời đầy nhân từ và yêu thương… Lời Ngài đầy an ủi và ân cần, Còn những lời này quá khắc nghiệt, như lời rủa sả hoặc lên án nhân loại vậy”. Trong lòng em thấy mâu thuẫn lắm: “Đây có thật sự là lời của Đức Chúa Trời không? Đầy thẩm quyền như thế, hẳn đây là lời của Đức Chúa Trời. Nhưng nếu Đức Chúa Trời Toàn Năng thật sự là Đức Chúa Jêsus tái lâm, Ngài phải phán giống kiểu của Đức Chúa Jêsus chứ. Ngài phải nhân từ và yêu thương, lời Ngài phải ân cần và quan tâm. Nhưng lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng lại quá nghiêm khắc, Ngài thật sự có thể là Đức Chúa Jêsus tái lâm sao?”. Em thấy hoang mang quá.

Sau đó, em đã kể cho chị Lý về những nghi vấn của mình, và và chị ấy đã kiên nhẫn thông công cho em rằng: “Chúng ta luôn tin rằng Đức Chúa Trời nhân và yêu thương, rằng Ngài phán với ta một cách ân cần và quan tâm, cho nên nếu lời Ngài nghiêm khắc thì không phải là lời của Đức Chúa Trời. Nhưng ý niệm này có thực sự tương hợp với sự thật và lẽ thật không? Thật ra, trong mọi thời đại, Đức Chúa Trời không chỉ phán những lời quan tâm và khích lệ, mà Ngài còn phán những lời khiển trách, phán xét và rủa sả con người. Chỉ là chúng ta không để ý mà thôi. Hãy xem những lời đó được ghi lại trong Kinh Thánh thế nào nhé: Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán: ‘Những kẻ canh giữ của Y-sơ-ra-ên đều là đui mù, không biết chi hết. Chúng nó thảy đều là chó câm, chẳng biết sủa, đều chiêm bao, nằm sóng sượt, và ham ngủ; lại là chó mê ăn, không biết no. Ấy là những kẻ chăn chiên chẳng khôn sáng; mọi người theo đường riêng mình, mỗi người tìm tư lợi mình, người nào cũng vậy(I-sai-a 56:10-11). Chính Đức Chúa Jêsus đã phán: ‘Hỡi loài rắn, dữ dội rắn lục kia, thế nào mà tránh khỏi sự đoán phạt nơi địa ngục được?(Ma-thi-ơ 23:33). ‘Ðừng cho chó những đồ thánh, và đừng quăng hột trai mình trước mặt heo, kẻo nó đạp dưới chơn, và quay lại cắn xé các ngươi(Ma-thi-ơ 7:6). Còn nhiều câu khác như thế nữa. Từ những câu này, chúng ta có thể thấy rằng trong Thời đại Luật pháp và Thời đại Ân điển, Đức Chúa Trời đã khiển trách, lên án và rủa sả con người. Dù lời Ngài có vẻ nghiêm khắc và gây đau lòng, nhưng đều chân thực và đều phơi bày bản chất chống và phản nghịch Đức Chúa Trời của con người. Trong thực tế, dù lời Đức Chúa Trời ân cần hay nghiêm khắc, tất cả đều là sự bày tỏ của tâm tính Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta không hiểu tâm tính của Đức Chúa Trời và hạn định Ngài là nhân từ và ân cần, thì khi Ngài phán một cách nghiêm khắc, chúng ta sẽ có ý kiến, nghĩ rằng Đức Chúa Trời chỉ phán một cách ân cần, không được phán với giọng gay gắt như vậy, nên những lời này không thể là lời Đức Chúa Trời. Xác định dựa trên việc những lời này ân cần hay nghiêm khắc là sai lầm, là hậu quả từ quan niệm và niềm tin riêng của chúng ta. Ví dụ như, nếu chúng ta chỉ công nhận ba mẹ mình khi họ nói năng ân cần với ta, còn khi họ nói nghiêm khác hoặc trách mắng vì chúng ta làm sai, thì chúng ta lại không công nhận họ là ba mẹ mình, thế chẳng phải ngớ ngẩn quá sao?”. Sau khi nghe chị ấy thông công, em đã rõ hơn nhiều về vấn đề này. Em nghĩ: “Phải đấy, dù ba mẹ mình nói năng ân cần hay nghiêm khắc, chẳng phải họ luôn là ba mẹ của mình sao? Giê-hô-va Đức Chúa Trời và Đức Chúa Jêsus trước đây cũng đều phán rất nghiêm khắc, tại sao lâu giờ mình không để ý thấy nhỉ? Có lẽ việc xác định lời Đức Chúa Trời dựa trên chuyện ân cần hay nghiêm khắc là thật sự sai rồi”. Nhận ra thế rồi, em không còn thấy phản đối nữa. Nhưng mỗi khi đọc những đoạn lời Đức Chúa Trời phơi bày và phán xét nhân loại, em lại thấy đau buồn, như thể mình bị lên án. Em cứ nghĩ lui cứ tới: Đức Chúa Jêsus nhân từ và yêu thương, vậy tại sao Đức Chúa Trời Toàn Năng quá nghiêm khắc và luôn thịnh nộ với con người? Một hôm nọ, trong buổi hội họp, em đã hỏi một chị: “Em chẳng thấy Đức Chúa Trời Toàn Năng và Đức Chúa Jêsus là cùng một Đức Chúa Trời… tâm tính hai Ngài quá khác biệt. Khi hình dung Đức Chúa Jêsus, em nghĩ Đức Chúa Trời quá đỗi nhân từ và yêu thương, nhưng Đức Chúa Trời Toàn Năng lại có vẻ quá nghiêm khắc, và nhiều lời Ngài nói phơi bày và mổ xẻ con người. Tại sao Đức Chúa Trời Toàn Năng và Đức Chúa Jêsus quá khác biệt đến vậy?”.

Chị ấy đã thông công với em rằng: “Con người thường mơ hồ về chuyện này và chủ yếu là vì họ không hiểu tâm tính của Đức Chúa Trời. Hãy nhìn lại công tác trước đây của Đức Chúa Trời nhé. Khi chúng ta có nhận thức về tâm tính công chính của Đức Chúa Trời, vấn đề này sẽ tự hóa giải. Chúng ta đều biết rằng khi Đức Chúa Trời thấy việc ác của cư dân thành Sô-đôm và Ni-ni-ve, tâm tính Ngài bị chọc giận và Ngài quyết định hủy diệt hai thành ấy. Trước khi hủy diệt họ, Đức Chúa Trời cử hai thiên sứ đến Sô-đôm và chỉ có ông Lót tiếp đón họ. Các dân thành khác không những không tiếp đón mà còn muốn giết họ. Đức Chúa Trời thấy việc hành ác của họ và nổi cơn thịnh nộ. Sau khi các thiên sứ cứu Lót và gia đình ông, Đức Chúa Trời cho mưa lửa từ trời xuống, tiêu diệt hết mọi người, súc vật và cây cối trong thành. Còn về phần thành Ni-ni-ve. Đức Chúa Trời cũng dự định hủy diệt thành này và Ngài đã sai Giôna truyền thông điệp của Ngài rằng: ‘Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-ve sẽ bị đổ xuống!(Giô-na 3:4). Khi vua thành Ni-ni-ve nghe tin này, ông đã chỉ đạo dân trong thành mặc áo vải gai, ngồi trong tro, ăn chay và cầu nguyện, rũ bỏ việc xấu họ đã làm, và ăn năn với Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Trời thấy thế, Ngài nguôi cơn thạnh nộ, và nhân từ miễn cho họ khỏi bị hủy diệt. Từ thái độ khác nhau của Đức Chúa Trời với thành Ni-ni-ve và Sô-đôm, chúng ta có thể thấy tâm tính của Đức Chúa Trời là thật và sống động. Ngài không chỉ nhân từ và yêu thương, mà còn oai nghi và thịnh nộ. Khi người ta phạm tội, Đức Chúa Trời cho họ cơ hội ăn năn, cho họ thấy tâm tính nhân từ và yêu thương của Ngài. Còn khi người ta ngoan cố và không muốn ăn năn, thậm chí còn cứng đầu chống đối và khiêu khích Ngài, thì Đức Chúa Trời trút cơn thịnh nộ xuống họ, cho họ thấy tâm tính oai nghi và công chính của Ngài. Điều này cho chúng ta thấy rằng tâm tính công chính của Đức Chúa Trời không chỉ là nhân từ và yêu thương mà còn là oai nghi và thịnh nộ. Cả hai khía cạnh này đều có trong tâm tính vốn có của Đức Chúa Trời.

Giờ hãy xem Thời đại Ân điển, khi Đức Chúa Jêsus thực hiện công tác của Ngài. Khi người ta phạm tội và đến trước Chúa để thú tội và ăn năn, Ngài sẽ tha tội cho họ và ban cho họ ân điển dồi dào, do đó nhiều người tin rằng tâm tính của Chúa chỉ là yêu thương và nhân từ chứ không phải là thịnh nộ và rủa sả. Trong thực tế, đây chỉ là quan niệm và tưởng tượng của con người. Về những người Pha-ri-si lên án và chống đối Chúa, thậm chí còn công khai đối địch Ngài, thì Đức Chúa Jêsus đầy thịnh nộ với họ. Ngài đã lên án và rủa sả họ, phán bảy điều khốn thay cho họ. Ngài không có chút nhân từ nào với họ. Từ điều này, chúng ta có thể thấy rằng từ thuở tạo dựng cho đến hiện tại, Đức Chúa Trời luôn bày tỏ tâm tính công chính của Ngài với nhân loại. Đức Chúa Trời nhân từ và yêu thương, nhưng cũng oai nghi, thịnh nộ, rủa sả và trừng phạt. Đúng như Đức Chúa Trời Toàn Năng phán, ‘Lòng thương xót và khoan dung của Đức Chúa Trời quả thật có hiện hữu, nhưng sự thánh khiết và công chính của Đức Chúa Trời khi Ngài xả cơn thịnh nộ của Ngài cũng cho con người thấy phương diện không cho phép sự xúc phạm nào của Đức Chúa Trời. Khi con người hoàn toàn có khả năng vâng phục những sự phán dạy của Đức Chúa Trời và hành động theo những yêu cầu của Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời đầy lòng thương xót đối với con người; khi con người đã đầy bại hoại, căm hờn và thù địch đối với Ngài, thì Đức Chúa Trời vô cùng giận dữ. Ngài vô cùng giận dữ đến mức độ nào? Cơn thịnh nộ của Ngài sẽ kéo dài cho đến khi Đức Chúa Trời không còn thấy sự chống đối và những việc ác của con người nữa, cho đến khi chúng không còn ở trước mắt Ngài nữa. Chỉ khi đó cơn giận của Đức Chúa Trời mới biến mất. … Ngài khoan dung và thương xót những điều tử tế, xinh đẹp và tốt lành; còn đối với những thứ ác, tội lỗi, và những thứ tà ác, thì Ngài vô cùng thịnh nộ, đến mức Ngài không nguôi cơn thịnh nộ của Ngài. Đây là hai phương diện chính và nổi bật nhất của tâm tính Đức Chúa Trời, và hơn nữa, chúng được tỏ lộ bởi Đức Chúa Trời từ đầu đến cuối: đầy thương xót và vô cùng thịnh nộ(Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời II, Lời, Quyển 3 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Qua lời Đức Chúa Trời, chúng ta có thể thấy rằng ‘đầy thương xót và vô cùng thịnh nộ’ là hai khía cạnh của tâm tính Đức Chúa Trời mà Ngài liên tục biểu lộ với nhân loại. Hai khía cạnh này của tâm tính Ngài không mâu thuẫn. Chúng đều là một phần tâm tính vốn có của Ngài. Chúng ta không được dựa trên việc trước đây mình hưởng dùng ân điển của Ngài mà hạn định Đức Chúa Trời là chỉ có thể ban lòng nhân từ mà không trút cơn thịnh nộ. Nhận thức như thế là phiến diện”. Nghe thấy thế, em nhận ra rằng Đức Chúa Trời không chỉ nhân từ và yêu thương, mà còn oai nghi, thịnh nộ và rủa sả. Đây đều là những khía cạnh trong tâm tính vốn có của Đức Chúa Trời. Vì hiểu quá ít về tâm tính của Đức Chúa Trời, nên em đã nuôi niềm tin phiến diện rằng Đức Chúa Trời chỉ có thể nhân từ và yêu thương. Đây đều là quan niệm và tưởng tượng của em, không phù hợp với thực tế. Em nhận ra mình phải nghe thêm thông công để đào sâu nhận thức của mình.

Người chị em ấy tiếp tục thông công với em rằng: “Tâm tính mà Đức Chúa Trời bày tỏ qua mỗi thời đại đều dựa trên yêu cầu của công tác cứu rỗi của Ngài, cũng như nhu cầu của nhân loại bại hoại. Hai đoạn lời Đức Chúa Trời Toàn Năng này có thể giúp chúng ta hiểu rõ: ‘Công tác Jêsus đã thực hiện phù hợp với nhu cầu của con người trong thời đại đó. Nhiệm vụ của Ngài là cứu chuộc nhân loại, tha thứ cho những tội lỗi của họ, và vì vậy, tâm tính của Ngài hoàn toàn khiêm nhường, kiên nhẫn, yêu thương, mộ đạo, nhẫn nhịn, nhân từ, và nhân ái. Ngài mang đến cho nhân loại ân điển và ơn phước dồi dào, và mọi thứ mà con người có thể hưởng thụ, Ngài đều ban cho họ để họ thụ hưởng: sự bình an và hạnh phúc, sự bao dung và tình yêu thương của Ngài, lòng nhân từ và nhân ái của Ngài. Thời kỳ đó, vô vàn những thứ để thụ hưởng mà con người được tiếp xúc – cảm giác bình an và yên ổn trong lòng họ, cảm giác yên tâm trong tinh thần họ, và sự nương tựa của họ vào Jêsus Đấng Cứu Thế – tất cả đều ở thời đại mà họ đã sống(Câu chuyện thật đằng sau công tác của Thời đại Cứu chuộc, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). ‘Trong công tác cuối cùng kết thúc thời đại của Đức Chúa Trời, tâm tính của Ngài là một tâm tính hành phạt và phán xét, mà qua đó, Ngài vạch trần tất cả mọi điều bất chính, để công khai phán xét tất cả mọi người, và hoàn thiện những ai yêu mến Ngài với một tấm lòng chân thành. Chỉ một tâm tính như vậy mới có thể kết thúc thời đại. Thời kỳ sau rốt đã đến rồi. Mọi thứ trong tạo vật sẽ được phân chia theo loại của chúng, và được chia thành các loại khác nhau dựa trên bản tính của chúng. Đây là thời điểm Đức Chúa Trời tiết lộ kết cục của loài người và đích đến của họ. Nếu mọi người không trải qua hình phạt và phán xét, thì sẽ không có cách nào phơi bày sự bất tuân và bất chính của họ. Chỉ thông qua hình phạt và phán xét, kết cục của muôn loài thọ tạo mới có thể được tiết lộ. Con người chỉ thể hiện bản chất thật của mình khi bị hành phạt và phán xét. Ác sẽ được xếp với ác, thiện với thiện, và toàn thể nhân loại sẽ được phân chia theo loại của họ. Thông qua hình phạt và phán xét, kết cục của muôn loài thọ tạo sẽ được tiết lộ, hầu cho kẻ ác có thể bị trừng phạt và người thiện có thể được ban thưởng, và tất cả mọi người đều trở nên khuất phục sự thống trị của Đức Chúa Trời. Toàn bộ công tác này phải đạt được thông qua hình phạt và phán xét công chính. Bởi vì sự bại hoại của con người đã lên đến đỉnh điểm và sự bất tuân của họ trở nên cực kỳ nghiêm trọng, chỉ có tâm tính công chính của Đức Chúa Trời, tâm tính chủ yếu được kết hợp bởi hình phạt và phán xét và được tỏ lộ trong thời kỳ sau rốt, mới có thể chuyển hóa hoàn toàn và làm cho con người trọn vẹn. Chỉ có tâm tính này mới có thể vạch trần cái ác và qua đó trừng phạt nghiêm khắc tất cả những kẻ bất chính. Do đó, một tâm tính như vậy thấm nhuần ý nghĩa thời đại, và sự tỏ lộ, biểu lộ tâm tính của Ngài được thể hiện rõ vì công tác của mỗi thời đại mới. Không phải là Đức Chúa Trời tỏ lộ tâm tính của Ngài một cách tùy tiện và vô nghĩa. Giả sử, khi tiết lộ kết cục của con người trong thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời vẫn ban cho con người lòng nhân từ cùng tình yêu vô hạn và tiếp tục yêu thương họ, không bắt con người phải chịu sự phán xét công chính mà cho họ thấy sự khoan dung, kiên nhẫn, tha thứ, và tha tội cho con người dù tội lỗi của họ nghiêm trọng đến mức nào, mà không có bất kỳ sự phán xét công chính nào: vậy thì bao giờ mọi sự quản lý của Đức Chúa Trời mới kết thúc được? Khi nào thì một tâm tính như vậy có thể dẫn mọi người tới đích đến thích hợp của loài người? Lấy ví dụ, một quan tòa luôn yêu thương, một quan tòa với khuôn mặt nhân hậu và một tấm lòng nhu mì. Người yêu mến mọi người bất kể những tội ác mà họ có thể đã gây ra, và người yêu thương, nhẫn nại với họ bất kể họ là ai. Trong trường hợp đó, bao giờ người mới có thể đạt được một phán quyết công bình? Trong thời kỳ sau rốt, chỉ có sự phán xét công chính mới có thể phân chia con người theo loại của họ và đưa con người vào một cõi mới. Theo cách này, toàn bộ thời đại được kết thúc thông qua tâm tính phán xét và hành phạt công chính của Đức Chúa Trời’” (Khải tượng về công tác của Đức Chúa Trời (3), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời).

Chị ấy tiếp tục thông công rằng: “Trong Thời đại Luật pháp, Giê-hô-va Đức Chúa Trời bày tỏ bản thân với những tâm tính chủ yếu là rủa sả, thiêu đốt và thịnh nộ. Trong thời đó, con người thiếu nhận thức. Họ không biết tội là gì, phải sống thế nào, phải thờ phượng Đức Chúa Trời ra sao, nên dựa trên nhu cầu của họ vào thời đó, Đức Chúa Trời ban hành luật pháp và các giới răn để hướng dẫn con người trong đời sống. Những ai tuân phục luật pháp của Đức Chúa Trời thì được Ngài thương xót, nhưng những ai vi phạm luật pháp thì bị lửa trời của Đức Chúa Trời thiêu đốt hoặc bị ném đá đến chết. Tuy nhiên, vào cuối Thời đại Luật pháp, khi người ta ngày càng bị làm cho bại hoại, bất tri bất giác phạm tội và vi phạm luật pháp, thì nếu bị phán xét theo luật pháp của thời đó, tất cả họ đều phải lãnh án tử. Vậy nên, trong Thời đại Ân điển, Đức Chúa Trời đã đích thân trở nên xác thịt để cứu chuộc nhân loại theo nhu cầu của họ, thể hiện tâm tính nhân từ và yêu thương của Ngài và ban cho con người ân điển dư dật. Ngài đối xử với họ bằng lòng nhân từ và yêu thương vô biên, khoan dung và tha thứ cho tội lỗi của họ, và cuối cùng là chịu đóng đinh để cứu chuộc toàn thể nhân loại khỏi tội lỗi của họ. Ngài đã ân xá cho họ và cho họ tiếp tục sống. Trong Thời đại Ân điển, nếu Đức Chúa Trời tiếp tục biểu lộ tâm tính của Ngài dưới dạng rủa sả, thiêu đốt và thịnh nộ, thì tội lỗi của người ta sẽ không bao giờ được tha, con người theo luật pháp sẽ không bao giờ được cứu chuộc, và nhân loại sẽ bị hủy diệt, không còn tồn tại đến ngày nay. Vậy nên Đức Chúa Trời đã biểu lộ tâm tính nhân từ và yêu thương của Ngài trong Thời đại Ân điển. Miễn là con người đến trước Ngài và tiếp nhận sự cứu chuộc của Ngài, thì Ngài sẽ tha tội cho họ. Trong thời kỳ sau rốt, con người đã trở nên bại hoại hơn nữa. Bất chấp đã được Đức Chúa Jêsus cứu chuộc và được tha tội, nhưng bản tính tội lỗi của chúng ta, như kiêu ngạo, gian xảo, tà ác, ương ngạnh, hung ác, vẫn thâm căn cố đế trong chúng ta. Tâm tính Sa-tan của chúng ta vẫn chưa được diệt tận gốc rễ, nên chúng ta vẫn không ngừng dối trá, phạm tội, phản nghịch và chống đối Đức Chúa Trời. Chúng ta vẫn không đủ tư cách để vào vương quốc Đức Chúa Trời. Để cứu rỗi nhân loại và triệt để loại bỏ tội lỗi nơi chúng ta, Đức Chúa Trời đã nhập thể lần nữa, thực hiện công tác phán xét và làm tinh sạch dựa trên nền tảng công tác của Đức Chúa Jêsus để diệt tận gốc rễ những tâm tính Sa-tan của chúng ta, làm tinh sạch chúng ta khỏi tội lỗi, cho chúng ta thực sự tuân phục và tôn kính Đức Chúa Trời, và cuối cùng là đưa chúng ta vào vương quốc của Ngài. Do yêu cầu của công tác Ngài, Đức Chúa Trời không còn biểu lộ tâm tính nhân từ và yêu thương của Ngài nữa, thay vào đó là biểu lộ tâm tính công chính, oai nghi và thịnh nộ của Ngài để phán xét và phơi bày những tâm tính bại hoại của con người. Chỉ như thế, Ngài mới có thể biến đổi và làm tinh sạch nhân loại. Dù tâm tính mà Đức Chúa Trời thể hiện qua mỗi thời đại mỗi khác nhau, nhưng thực chất của Ngài không hề thay đổi. Đức Chúa Trời thực hiện công tác và bày tỏ tâm tính của Ngài theo nhu cầu của nhân loại bại hoại, cho phép con người hiểu và biết Đức Chúa Trời hơn, để họ không hạn định Ngài và tâm tính Ngài. Chúng ta không được nghĩ rằng Đức Chúa Trời Toàn Năng và Đức Chúa Jêsus không phải cùng một Đức Chúa Trời chỉ vì các Ngài bày tỏ những tâm tính khác nhau”.

Chỉ sau khi nghe chị ấy thông công, em mới nhận ra rằng Đức Chúa Trời quyết định dạng tâm tính nào Ngài bày tỏ trong mỗi thời đại dựa trên những yêu cầu của công tác cứu rỗi của Ngài và nhu cầu của nhân loại bại hoại. Trong công tác phán xét vào thời kỳ sau rốt của Ngài, Đức Chúa Trời Toàn Năng bày tỏ tâm tính công chính và oai nghi của Ngài để làm tinh sạch và cứu rỗi nhân loại… dù cho tâm tính mà Ngài bày tỏ khác với tâm tính của Đức Chúa Jêsus, nhưng mục đích bày tỏ vẫn là vì nhu cầu của nhân loại bại hoại. Đức Chúa Trời Toàn Năng và Đức Chúa Jêsus là cùng một Đức Chúa Trời. Thông công của chị ấy rất rõ ràng và đã hóa giải mọi mơ hồ của em.

Trong buổi họp tiếp theo, chị Lý đọc cho em một đoạn lời Đức Chúa Trời Toàn Năng khác: “Việc Đức Chúa Trời hoàn thiện con người được hoàn thành bằng cách nào? Điều đó được hoàn thành bằng tâm tính công chính của Ngài. Tâm tính của Đức Chúa Trời chủ yếu bao gồm sự công chính, cơn thạnh nộ, sự oai nghi, sự phán xét, sự rủa sả, và Ngài hoàn thiện con người chủ yếu bằng sự phán xét. Một số người không hiểu, và hỏi vì sao Đức Chúa Trời chỉ có thể làm cho con người hoàn thiện thông qua sự phán xét và rủa sả. Họ nói rằng: ‘Nếu Đức Chúa Trời rủa sả con người, chẳng phải con người sẽ chết sao? Nếu Đức Chúa Trời phán xét con người, chẳng phải con người sẽ bị kết án sao? Vậy thì làm sao con người vẫn có thể được làm cho hoàn thiện?’. Đó là những lời nói của những người không biết đến công tác của Đức Chúa Trời. Điều Đức Chúa Trời rủa sả là sự bất tuân của con người, và điều Ngài phán xét là những tội lỗi của con người. Mặc dù Ngài phán gay gắt và tàn nhẫn, nhưng Ngài vạch trần mọi điều bên trong con người, và vạch trần thông qua những lời nghiêm khắc này, những gì thuộc về bản chất bên trong con người, nhưng qua sự phán xét như thế, Ngài cho con người kiến thức sâu sắc về bản chất của xác thịt, và do đó con người đầu phục trước Đức Chúa Trời. Xác thịt con người thuộc về tội lỗi và thuộc về Sa-tan, nó bất tuân, và nó là đối tượng cho hình phạt của Đức Chúa Trời. Vì vậy, để cho con người biết về bản thân mình, những lời phán xét của Đức Chúa Trời phải xảy đến cho họ và phải sử dụng mọi hình thức tinh luyện; chỉ khi đó công tác của Đức Chúa Trời mới có thể đạt được hiệu quả(Chỉ bằng cách trải qua những sự thử luyện đau đớn, ngươi mới có thể biết được sự đáng mến của Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Chị Lý cũng nói vậy khi thông công. Chị ấy nói: “Trong thời kỳ sau rốt, công tác phán xét của Đức Chúa Trời là bước cuối cùng trong việc cứu rỗi nhân loại của Ngài và nó là kết thúc kế hoạch quản lý 6.000 năm của Ngài. Khi bày tỏ tâm tính công chính và oai nghi của mình là Ngài đang bế mạc toàn bộ thời đại, và phân ai theo loại nấy, người thiện kẻ ác phân rõ ràng. Nếu Đức Chúa Trời chỉ biểu lộ tâm tính nhân từ và yêu thương, luôn khoan dung, nhẫn nại và tha thứ cho chúng ta bất chấp chúng ta phạm bao nhiêu tội, thì chúng ta sẽ không bao giờ rũ bỏ được tội lỗi, và sẽ muôn đời bị Sa-tan thống trị và tàn hại. Còn nữa, nếu thế, công tác cứu rỗi của Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ hoàn tất và người thiện kẻ ác sẽ không bao giờ được phân tách cho đúng. Vậy nên, trong thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời bày tỏ tâm tính công chính và oai nghi và thịnh nộ trong công tác của Ngài, phơi bày những tâm tính Sa-tan của con người bằng lời lẽ nghiêm khắc của Ngài. Những ai yêu mến lẽ thật thì biết mình và tiếp nhận sự phán xét của lời Đức Chúa Trời, hiểu được tâm tính công chính của Ngài không dung thứ sự xúc phạm, do đó, nảy sinh lòng tôn kính Đức Chúa Trời và lánh xa sự ác, cuối cùng đạt được sự thay đổi tâm tính. Còn những người chán ghét lẽ thật và chối bỏ sự phán xét, làm tinh sạch của Đức Chúa Trời, thì bị Đức Chúa Trời vạch trần và thải loại. Như thế, mọi người được phân ai theo loại nấy”.

Em nhận ra rằng nếu Đức Chúa Trời Toàn Năng thực hiện công tác phán xét trong thời kỳ sau rốt theo cách như Đức Chúa Jêsus thực hiện công tác cứu chuộc, nghĩa là chỉ thể hiện lòng nhân từ và yêu thương với con người, không nghiêm khắc và phán xét họ, thì Ngài đâu thể phân loại con người theo loại, và bản tính tội lỗi chống đối Đức Chúa Trời của chúng ta sẽ không được hóa giải, rồi chúng ta chẳng bao giờ được cứu rỗi hay được vào vương quốc của Đức Chúa Trời. Vậy nên, việc Đức Chúa Trời bày tỏ tâm tính với đặc nét công chính, oai nghi, phán xét và hành phạt trong thời kỳ sau rốt có một ý nghĩa sâu sắc!

Sau đó, chúng em đọc hai đoạn lời Đức Chúa Trời Toàn Năng, nhờ đó em hiểu rõ hơn về công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng và tâm tính Ngài bày tỏ trong thời kỳ sau rốt. “Ngày nay, Đức Chúa Trời phán xét các ngươi, hành phạt các ngươi, và kết án các ngươi, nhưng ngươi phải biết rằng mục đích của việc kết án ngươi là để ngươi biết được chính mình. Ngài kết án, rủa sả, phán xét và hành phạt để ngươi có thể biết được chính mình, để tâm tính của ngươi có thể thay đổi, và hơn thế nữa, để ngươi có thể biết được giá trị của mình, và thấy rằng tất cả hành động của Đức Chúa Trời đều công chính và phù hợp với tâm tính của Ngài và những yêu cầu trong công tác của Ngài, rằng Ngài làm việc phù hợp với kế hoạch cứu rỗi nhân loại của Ngài, và rằng Ngài là Đức Chúa Trời công chính, Đấng yêu thương, cứu rỗi, phán xét, và hành phạt con người. … Đức Chúa Trời đã không đến để giết chóc hoặc hủy diệt, mà để phán xét, rủa sả, hành phạt, và cứu rỗi(Ngươi nên đặt các phước lành về địa vị sang một bên và hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời để mang sự cứu rỗi đến cho con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Mặc dù những lời của Ta có thể khắt khe, nhưng tất cả chúng đều được phán ra vì sự cứu rỗi của con người, vì Ta chỉ đang cất tiếng phán và không trừng phạt xác thịt của con người. Những lời này khiến con người sống trong sự sáng, biết được rằng sự sáng có tồn tại, biết được rằng sự sáng là quý giá, và thậm chí còn hơn thế nữa, biết được những lời này có lợi cho họ thế nào, cũng như biết được rằng Đức Chúa Trời là sự cứu rỗi. Mặc dù Ta đã phán nhiều về sự trừng phạt và phán xét, nhưng sự thật chưa được thực hiện trên các ngươi. Ta đã đến để làm công tác của Ta và phán những lời của Ta, và dù những lời của Ta có nghiêm khắc, nhưng chúng được phán ra để phán xét về sự bại hoại và dấy nghịch của các ngươi. Mục đích Ta làm việc này vẫn là để cứu con người ra khỏi quyền hạn của Sa-tan; Ta đang dùng lời của Ta để cứu rỗi con người. Mục đích của Ta không phải là làm hại con người bằng lời của mình. Lời của Ta nghiêm khắc nhằm đạt được kết quả trong công tác của mình. Chỉ thông qua công tác như thế, con người mới có thể đi đến chỗ biết được bản thân mình và thoát khỏi tâm tính dấy nghịch của mình(Ngươi nên đặt các phước lành về địa vị sang một bên và hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời để mang sự cứu rỗi đến cho con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Chị Lý tiếp tục thông công với em rằng: “Qua lời Đức Chúa Trời, chúng ta có thể thấy rằng trong thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời dùng lời Ngài để phán xét và làm tinh sạch con người. Dù lời Ngài nghiêm khắc và gây đau lòng đến đâu, tất đều là để giúp chúng ta nhận ra chân tướng sự bại hoại của mình, thoát khỏi ảnh hưởng tối tăm của Sa-tan và đón nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Chúng ta đều biết tâm tính của Đức Chúa Trời là công chính và thánh khiết, còn con người chúng ta, đã bị Sa-tan làm cho bại hoại nặng nề, chỉ biết mưu cầu trào lưu trần tục tà ác, tranh đoạt và mưu mô hại nhau khi mưu cầu tiền tài và tư lợi, chẳng hề có chút hình tượng con người đích thực nào. Kể cả những người tin vào Chúa cũng không thể thực hành điều Đức Chúa Trời yêu cầu và lại thường đòi ân điển, phước lành từ Ngài. Họ có đóng góp gì thì cũng là để được vào thiên đàng và được sự sống đời đời, chứ không phải vì họ yêu kính Chúa và muốn làm thỏa lòng Ngài. Tất cả việc họ làm chỉ để lợi dụng Chúa hầu thành tựu những mục tiêu đê hèn của họ. Một vài lãnh đạo tôn giáo bên ngoài thì ra vẻ là những tôi tớ nhiệt tâm, khiêm nhượng và nhẫn nại của Đức Chúa Trời, nhưng trong bài giảng, họ thường tôn cao và làm chứng cho bản thân để khiến người khác ngưỡng mộ và tôn trọng họ. Khi Đức Chúa Trời nhập thể lần nữa và xuất hiện để thực hiện công tác, chẳng có ai nghênh tiếp Ngài, toàn thể giới tôn giáo cấu kết với chính phủ vô thần để lên án và chống đối sự tái lâm của Ngài, điên cuồng loan truyền lời dối trá để phỉ báng Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng và ngăn người ta tìm hiểu con đường thật. Như thế nghĩa là, toàn thể nhân loại đã lên án và chống đối Đức Chúa Trời, phủ nhận sự đến của Ngài. Đúng hệt như Kinh Thánh đã viết: ‘Còn cả thế gian đều phục dưới quyền ma quỉ(1 Giăng 5:19). Nhân loại bại hoại chống đối Đức Chúa Trời đủ đường. Họ đều cùng một giuộc với Sa-tan và lũ rắn độc. Khi Đức Chúa Trời bày tỏ những lời nghiêm khắc của Ngài để phơi bày thực tế bại hoại của nhân loại, chỉ có những ai yêu mến lẽ thật mới có thể thật sự nhận ra bản tính Sa-tan chống đối và phản bội Đức Chúa Trời của họ và thấy được rằng trong đức tin, họ không mưu cầu việc biết Đức Chúa Trời và họ chỉ có những ý định hèn hạ như đạt được phúc lành và đổi chác với Đức Chúa Trời. Họ thấy rõ chân tướng xấu xa của sự bại hoại sâu sắc do tay Sa-tan nơi họ, thành tâm ăn năn với Đức Chúa Trời, thề hứa sẽ hành động theo yêu cầu của Đức Chúa Trời, và cuối cùng nên giống hình tượng con người đôi chút. Từ điều này, chúng ta có thể thấy rằng dù lời Đức Chúa Trời nghiêm khắc và gây đau lòng đến đâu, chúng đều phơi bày thực tế sự bại hoại của chúng ta, và đều là để giúp chúng ta hồi sinh tâm linh u mê của mình, nhận ra những thực chất bại hoại, hoàn toàn thoát khỏi xiềng xích tội lỗi và được làm cho tinh sạch. Những lời nghiêm khắc phơi bày và phán xét của Đức Chúa Trời đem lại lợi ích lớn lao cho tiến trình biết mình và được cứu rỗi của chúng ta!”.

Sau khi nghe chị Lý thông công, cuối cùng em đã hiểu ra rằng Đức Chúa Trời đã bày tỏ quá nhiều lời nghiêm khắc trong thời kỳ sau rốt là để phơi bày bộ mặt đích thực của chúng ta. Đây là sự cứu rỗi của Ngài, không phải là sự lên án. Em đã tin Đức Chúa Trời chỉ để được phước lành và ân điển, thậm chí còn hạn định Đức Chúa Trời chỉ là nhân từ và yêu thương, em còn không công nhận Ngài khi Ngài phán một cách nghiêm khắc, nghĩ về những chuyện đó, em thấy mình quá vô lý! Từ lúc đó trở đi, em đã có thể tiếp nhận những lời nghiêm khắc và phán xét của Đức Chúa Trời và càng thêm sẵn sàng đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng. Em tin chắc rằng Đức Chúa Trời Toàn Năng chính là Đức Chúa Jêsus tái lâm.

Sau khi xác định rằng công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời Toàn Năng là chân chính, em đã tích cực hội họp và đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng hằng ngày. Một hôm nọ, em đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời. “Nếu con người vẫn mắc kẹt trong Thời đại Ân điển, thì họ sẽ không bao giờ loại bỏ được tâm tính bại hoại của mình, chứ đừng nói đến biết được tâm tính vốn có của Đức Chúa Trời. Nếu con người luôn sống giữa ân điển dồi dào, nhưng không có con đường của sự sống cho phép họ biết về Đức Chúa Trời hoặc làm hài lòng Ngài, thì họ sẽ không bao giờ có được Ngài khi tin vào Ngài. Loại niềm tin này thật sự đáng thương. Khi ngươi đọc xong cuốn sách này, khi ngươi đã cảm nghiệm từng bước công tác của Đức Chúa Trời nhập thể trong Thời đại Vương quốc, ngươi sẽ cảm thấy những khao khát ngươi có trong nhiều năm cuối cùng đã trở thành hiện thực. Ngươi sẽ cảm nhận được rằng chỉ bây giờ ngươi mới thật sự nhìn thấy Đức Chúa Trời trực diện; chỉ có bây giờ ngươi mới nhìn thấy diện mạo của Ngài, nghe thấy những lời phán của đích thân Ngài, đánh giá cao sự khôn ngoan trong công tác của Ngài, và thật sự cảm nhận được Ngài có thực và toàn năng làm sao. Ngươi sẽ cảm thấy rằng mình đã đạt được nhiều điều mà con người trong quá khứ chưa từng thấy hay có được. Lúc đó, ngươi sẽ biết rõ thế nào là tin vào Đức Chúa Trời, và thế nào là tuân theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Tất nhiên, nếu ngươi cứ bám vào những quan điểm của quá khứ, và bác bỏ hay phủ nhận sự thật về sự nhập thể lần thứ hai của Đức Chúa Trời, thì ngươi sẽ vẫn trắng tay, không đạt được gì, và cuối cùng sẽ bị tuyên phạm tội chống lại Đức Chúa Trời. Những ai có thể vâng theo lẽ thật và quy phục công tác của Đức Chúa Trời sẽ được xác nhận dưới danh của Đức Chúa Trời nhập thể lần thứ hai – Đấng Toàn Năng. Họ sẽ có thể chấp nhận sự chỉ dẫn của đích thân Đức Chúa Trời, đạt được những lẽ thật nhiều hơn và cao hơn, cũng như có được cuộc sống thực sự. Họ sẽ nhìn thấy khải tượng mà con người trong quá khứ chưa từng thấy: ‘Bấy giờ tôi xây lại đặng xem tiếng nói với tôi đó là gì; vừa xây lại thấy bảy chân đèn bằng vàng, và ở giữa những chân đèn có ai giống như con người, mặc áo dài, thắt đai vàng ngang trên ngực. Ðầu và tóc người trong như lông chiên trắng, như tuyết; mắt như ngọn lửa; chân như đồng sáng đã luyện trong lò lửa, và tiếng như tiếng nước lớn. Tay hữu người cầm bảy ngôi sao; miệng thò ra thanh gươm nhọn hai lưỡi và mặt như mặt trời khi soi sáng hết sức’ (Khải Huyền 1:12-16). Khải tượng này là sự thể hiện toàn bộ tâm tính của Đức Chúa Trời, và sự thể hiện toàn bộ tâm tính của Đức Chúa Trời cũng là sự thể hiện về công tác của Đức Chúa Trời trong sự nhập thể hiện tại của Ngài. Trong những lần tuôn trào sự phán xét và hình phạt, Con người thể hiện tâm tính vốn có của Ngài thông qua những lời phán, cho phép tất cả những ai chấp nhận hình phạt và sự phán xét của Ngài đều nhìn thấy diện mạo thật sự của Con người, là một sự khắc họa chân thực về diện mạo của Con người mà Giăng đã nhìn thấy (Tất nhiên, toàn bộ điều này sẽ không thể thấy được với những ai không chấp nhận công tác của Đức Chúa Trời trong Thời đại Vương quốc). Diện mạo thật sự của Đức Chúa Trời không sao tả xiết được bằng ngôn ngữ của con người, thế nên Đức Chúa Trời sử dụng phương tiện mà qua đó Ngài thể hiện tâm tính vốn có của Ngài để cho con người thấy diện mạo thật của Ngài(Lời tựa, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Qua lời Đức Chúa Trời, em nhận ra rằng khải tượng của Giăng trong sách Khải Huyền đã ám chỉ trước lời phán xét của Đức Chúa Trời Toàn Năng trong thời kỳ sau rốt sẽ như lửa từ trời hay lưỡi gươm sắc bén và đầy tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Chỉ những ai tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng trong thời kỳ sau rốt mới có thể thực sự hiểu được tâm tính công chính của Đức Chúa Trời, và cảm kích ý định thiết tha của Ngài khi dùng lời Ngài để phán xét và cứu rỗi nhân loại. Em không khỏi xúc động khi nhận ra như thế, và em đã cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời Toàn Năng! Qua sự phơi bày và phán xét của lời Ngài, con đã nhận ra Ngài không chỉ yêu thương và nhân từ, mà còn oai nghi và thịnh nộ. Đây đều là những khía cạnh trong tâm tính công chính vốn có của Ngài. Lạy Đức Chúa Trời Toàn Năng! Lời Ngài thật sự quý báu. Con thật sự cần tiếp nhận sự phán xét và làm tinh sạch của lời Ngài để biết mình. Từ giờ, con sẽ siêng năng ăn uống lời Ngài, tiếp nhận sự phán xét và hành phạt của lời Ngài và bước theo con đường tìm kiếm lẽ thật!”.

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Đứng giữa ngã ba đường

Bởi Lý Dương, Trung Quốc Tôi sinh ra ở miền quê, lớn lên trong gia đình nghèo. Bố mẹ tôi là những nông dân chất phác, hay bị chèn ép. Hồi...

Một quyết định khắc cốt ghi tâm

Bởi Bạch Dương, Trung Quốc Ba tôi đã chết vì bị bệnh khi tôi 15 tuổi và gia đình tôi đã mất đi người trụ cột. Tôi không thể chấp nhận nổi...

Sau Khi Bị Thay Thế

Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Đức Chúa Trời làm việc trong từng người một, và bất kể phương pháp của Ngài là gì, dạng người, sự việc, và...

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger