Phản tỉnh về việc kìm hãm người khác

11/07/2023

Bởi Đinh Lệ, Mỹ

Mấy năm trước, chị tập sáng tác nhạc ở hội thánh. Khi dần quen với kỹ thuật trong công việc và nắm vững nguyên tắc, chị đạt hiệu quả cao hơn trong bổn phận. Dần dần các anh chị em bắt đầu coi trọng chị. Khi gặp vấn đề trong việc sáng tác, họ đều tìm đến để hỏi ý kiến chị. Chị phát biểu quan điểm gì, thường thì mọi người đều tán đồng, vì vậy nên chị rất tự mãn. Chị nghĩ mình giỏi hơn họ, rằng chị là nhân tài không thể thiếu trong nhóm. Trong lòng chị luôn có cảm giác hơn người. Rồi chị Sheila xuất hiện, đến sáng tác cùng bọn chị. Người phụ trách phân công chị ấy làm việc cùng chị, nhờ chị dẫn dắt và giúp đỡ chị ấy trong kỹ thuật. Lúc ban đầu, chị cố gắng chỉ dạy chị ấy. Chị tổng kết kinh nghiệm cho chị ấy và nói cho chị ấy biết cần phải chú ý những gì, nhưng chị ấy vẫn cứ làm sai những việc mà chị đã nhấn mạnh. Chị rất bực bội với chị ấy, nghĩ rằng chị đã nói rõ với chị ấy những điều này nhưng chị ấy vẫn mắc lỗi. Chị ấy có để tâm trong bổn phận không vậy? Sau đó khi chỉ ra những sai sót của chị ấy, chị thường hay nóng nảy, mắng chị ấy thậm tệ, “Tôi đã nói với chị vấn đề này trước đây rồi. Sao chị vẫn mắc lỗi y hệt vậy hả? Chị có để tâm không vậy?” Có lần trong một buổi hội họp, Sheila nói chị ấy sợ mắc lỗi trong bổn phận và bị xử lý. Nghe nói thế, chị thấy trong lòng rất bất an. Thời gian vừa qua, chị đã chỉ ra nhiều vấn đề của chị ấy trong bổn phận, lại còn thường xuyên chỉ trích chị ấy. Liệu chị có làm chị ấy thấy bị kìm hãm không? Nhưng rồi chị nghĩ, chị ấy hay mắc lỗi trong bổn phận, nên chị chỉ ra thì có gì sai đâu. Nếu chị không lên tiếng, liệu chị ấy có nhận ra vấn đề và thay đổi kịp thời không? Đâu phải chị có mục đích xấu gì. Chị chỉ muốn chị ấy hiểu ra mọi việc và tránh làm tổn hại công tác. Sau đó chị dần để ý thấy rằng mỗi khi Sheila gặp khó khăn trong bổn phận, hoặc có ý kiến, quan điểm gì, chị ấy không nói với chị nữa. Thêm vào đó, chị ấy tiêu cực và thấy mình không phù hợp với công việc. Thực ra không phải chỉ mình Sheila bị chị đối xử như thế. Chị cũng hành xử tương tự như vậy với các anh chị em khác. Bình thường, chị luôn dành toàn bộ thời gian và công sức vào bổn phận, có lúc vì bổn phận mà chị còn làm đến tối muộn để hoàn thành tốt công việc. Chị cảm thấy mình biết gánh trọng trách và tận tụy với bổn phận. Mỗi khi thấy các anh chị em ở quanh mình đi ngủ sớm, chị cảm thấy họ không mang gánh trọng trách trong bổn phận, và chị trách mắng họ, “Mọi người cần phải gánh trọng trách và trả giá, chứ không phải tham hưởng an nhàn!” Khi các chị em mệt nên đứng dậy thư giãn chân tay, hoặc nói chuyện vu vơ một chút, chị liền cảm thấy họ không chú tâm vào bổn phận. Chị thấy bực bội, lên tiếng chỉ trích họ, “Đến lúc thực hiện bổn phận thì mọi người phải tập trung hết sức lực vào mà làm. Tán gẫu như thế chẳng làm chậm trễ công tác sao?” Dần dà, các anh chị em khác bắt đầu tạo khoảng cách với chị, họ không còn đến nói chuyện với chị khi gặp vấn đề hay khó khăn. Chị thấy mình bị cô lập và lạc nhịp với mọi người. Chị cảm thấy khó chịu, nhưng không biết điều gì gây ra vấn đề này.

Mấy tháng sau, bỗng một hôm nọ lãnh đạo đến gặp chị nói chuyện, anh ấy nghiêm túc nói, “Vừa rồi có người phản ánh chị đã giáo huấn và kìm hãm mọi người. Các anh chị em cảm thấy bị chị kìm hãm, và thấy không thoải mái trong bổn phận. Đây là biểu hiện của nhân tính xấu”. Khi nghe lãnh đạo nói những lời như vậy, quả thật như một cú tát vào mặt chị, khiến chị choáng váng mặt mày. Nhất là những lời “kìm hãm mọi người” và “nhân tính xấu” cảm giác như dao đâm vào tim chị. Tâm trí chị bỗng nhiên rối bời. Sao chị lại trở thành một người có nhân tính xấu kìm hãm người khác chứ? Sao chị lại bức bách mọi người chứ? Đêm đó, chị trằn trọc mãi không thể nào ngủ được. Chị hồi tưởng lại mọi việc trong đầu và thấy thực sự khó hiểu. Chị nghĩ mình vốn là một người thẳng tính, trước nay có sao nói vậy. Nhưng những gì chị nói đều đúng. Khi thấy ra vấn đề của ai đó, chị dám nói thẳng với họ; không sợ làm phật lòng ai. Chị thấy đó là sự công chính. Sao như thế lại trở thành kìm hãm mọi người và có nhân tính xấu? Từ khi lãnh đạo nói chị kìm hãm người khác, chị cố gắng thay đổi, để mọi người thấy sự chuyển biến của chị. Như vậy sẽ không ai nói chị kìm hãm họ hay có nhân tính xấu nữa. Sau đó, chị bắt đầu để ý giọng điệu của mình khi nói, và chú tâm điều chỉnh cách nói năng. Chị luôn nghĩ cách nói sao cho mềm mỏng hơn để không làm tổn thương lòng tự trọng của mọi người và khiến họ xấu hổ. Có lúc chị thấy vấn đề của người khác, nhưng không tự mình chỉ ra, sợ có người nói chị kìm hãm. Thay vào đó chị nhờ người phụ trách thông công. Dần dần chị không còn chỉ trích hay giáo huấn mọi người như trước nữa, và các anh chị em nói chị đã có chút thay đổi. Nhưng chị không cảm thấy bình an hay thoải mái. Trong lòng chị thấy rất ức chế và không có cảm giác tự do thoải mái. Chị như đi trên vỏ trứng, cứ không ngừng cân nhắc và suy ngẫm mọi lời mình nói. Lúc đó chị phải tự hỏi mình: “Biểu hiện này có thể hiện sự ăn năn và thay đổi thực sự không? Hiện giờ, anh chị em không còn cảm thấy bị kìm hãm khi mình tương tác với họ, nhưng sao mình lại cảm thấy bị kìm hãm?” Trong đau khổ và mơ hồ, chị cầu nguyện Đức Chúa Trời và tìm kiếm, xin Ngài khai sáng và dẫn dắt để chị thực sự phản tỉnh và hiểu được tình trạng của mình.

Trong một lần tĩnh nguyện, chị đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời. “Điều đầu tiên cần làm khi ăn năn là nhận ra ngươi đã làm gì sai: để xem lỗi của ngươi ở đâu, bản chất của vấn đề, và tâm tính bại hoại mà ngươi đã tỏ lộ; ngươi phải phản tỉnh về những điều này và tiếp nhận lẽ thật, sau đó thực hành phù hợp với lẽ thật. Chỉ đây mới là thái độ ăn năn. Mặt khác, nếu ngươi cân nhắc những cách thức mưu chước của mình một cách toàn diện, ngươi trở nên thủ đoạn hơn trước, các chiêu trò của ngươi khôn khéo và kín đáo hơn cũng như ngươi có nhiều phương pháp hơn để xử lý các sự việc, thì vấn đề không hoàn toàn đơn giản chỉ là giả dối. Ngươi đang sử dụng những phương kế lén lút và ngươi có những bí mật mà ngươi không thể tiết lộ. Đây là sự tà ác. Ngươi không những không ăn năn mà còn trở nên láu cá và giả dối hơn. Đức Chúa Trời thấy rằng ngươi quá thâm độc và tà ác, là kẻ bề ngoài thừa nhận rằng mình đã sai, chấp nhận bị xử lý và tỉa sửa, nhưng trên thực tế, thì không hề có chút thái độ ăn năn nào. Tại sao chúng ta nói điều này? Bởi vì trong khi sự việc này đang diễn ra hoặc trong hậu quả của nó, ngươi đã không hề tìm kiếm lẽ thật, ngươi đã không phản tỉnh và cố biết mình, và ngươi đã không thực hành phù hợp với lẽ thật. Thái độ của ngươi là thái độ sử dụng các triết lý, lô-gic và phương pháp của Sa-tan để giải quyết vấn đề. Trên thực tế, ngươi đang tránh né vấn đề và bao bọc nó trong lớp vỏ tốt đẹp để người khác không nhìn thấy dấu vết của nó, không để sơ suất gì. Cuối cùng, ngươi cảm thấy mình khá thông minh. Đây là những điều Đức Chúa Trời nhìn thấy, thay vì thấy ngươi thật sự suy ngẫm, thú nhận và ăn năn tội lỗi của mình khi đối mặt với vấn đề đã xảy đến với ngươi, sau đó tiếp tục tìm kiếm lẽ thật và thực hành theo lẽ thật. Thái độ của ngươi không phải là thái độ tìm kiếm lẽ thật hay thực hành lẽ thật, cũng không phải là thái độ đầu phục quyền tối thượng và sự sắp xếp của Đức Chúa Trời, mà là thái độ sử dụng các chiêu trò và phương pháp của Sa-tan để giải quyết vấn đề của mình. Ngươi tạo ấn tượng sai lầm cho người khác và chống đối việc bị Đức Chúa Trời vạch trần, cũng như ngươi phòng thủ và đối đầu đối với những hoàn cảnh mà Đức Chúa Trời đã sắp đặt cho ngươi. Lòng ngươi khép chặt hơn trước và tách rời khỏi Đức Chúa Trời. Như vậy, có bất kỳ kết quả tốt nào đến từ việc đó không? Ngươi vẫn có thể sống trong sự sáng, vui hưởng sự bình an và niềm vui chứ? Ngươi không thể. Nếu ngươi lánh khỏi lẽ thật và lánh khỏi Đức Chúa Trời, chắc chắn ngươi sẽ rơi vào bóng tối và khóc lóc nghiến răng(Chỉ bằng cách theo đuổi lẽ thật thì một người mới có thể giải quyết được các quan niệm và sự hiểu lầm của họ về Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Từ lời Đức Chúa Trời chị hiểu rằng muốn thực sự ăn năn và thay đổi cần phải có sự tự phản tỉnh chân thực, thực sự hiểu được biểu hiện tâm tính bại hoại của mình và thực chất vấn đề của mình. Ta phải biết sai lầm của mình nằm ở đâu, và tìm kiếm lẽ thật để hóa giải tâm tính bại hoại. Nhìn lại bản thân chị, khi lãnh đạo chỉ ra vấn đề kìm hãm mọi người của chị, chị đã không hề phản tỉnh, cũng không tìm kiếm lẽ thật để làm rõ xem kìm hãm mọi người là gì, biểu hiện nào của chị là kìm hãm người khác, lời nào của Đức Chúa Trời tỏ lộ về vấn đề này, thái độ của Đức Chúa Trời đối với loại người đó, vân vân. Thay vào đó, chị chỉ làm theo những gì mình tưởng tượng, rằng các anh chị em cảm thấy bị kìm hãm vì chị quá thẳng tính và nói năng không nhẹ nhàng. Để mọi người thấy chị có chuyển biến, chị dốc sức để thay đổi giọng điệu và hành vi. Chị không còn nói thẳng khi thấy vấn đề của người khác; thay vào đó chị nhẹ nhàng, nói làm sao để giữ thể diện cho người khác. Có lúc chị thấy rất rõ người khác hành sự vi phạm nguyên tắc, nhưng lại sợ nếu lên tiếng thì mọi người nói chị kìm hãm, nên chị cứ nhắm mắt làm ngơ, hoặc phản ánh lên cho người phụ trách xử lý. Sau khi thực hành theo cách này một thời gian, dù các anh chị em nói chị bây giờ không còn kìm hãm họ như trước, nhưng đâu chỉ là chị thay đổi hành vi của mình, chứ tuyệt nhiên không có sự thay đổi tâm tính sống. Khi bị xử lý, chị không tìm kiếm lẽ thật để hóa giải tâm tính bại hoại. Chị chỉ thực hành sự kiềm chế, ngụy trang bản thân. Đó là lý do chị cảm thấy ức chế và bức bối. Trong mỗi lời nói ra, chị đều dè chừng và quá cẩn trọng. Thật là một cách sống mệt mỏi. Đều là nỗi khổ chị tự chuốc lấy khi không tìm kiếm lẽ thật và làm theo quy tắc. Vì vậy lúc đó chị nghĩ mình không được tiếp tục như thế. Chị phải đến trước Đức Chúa Trời để tìm kiếm lẽ thật, phản tỉnh về vấn đề của mình, và thoát khỏi tình trạng tiêu cực.

Sau đó, chị tìm lời Đức Chúa Trời phán về việc kìm hãm mọi người, và đối chiếu những sự tỏ lộ đó khi phản tỉnh về bản thân. Một hôm chị đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời. “Ngươi có thể khiến mọi người hiểu lẽ thật và bước vào sự thực tế của nó nếu ngươi chỉ lặp lại những câu chữ và học thuyết, và giáo huấn mọi người, và xử lý họ không? Nếu lẽ thật mà ngươi thông công là không thật, nếu nó không là gì khác ngoài những lời giáo điều, thì dù ngươi có xử lý và giáo huấn họ thế nào đi nữa thì cũng sẽ vô ích. Ngươi nghĩ rằng mọi người sợ ngươi, làm theo những gì ngươi bảo họ và không dám phản đối, thì cũng giống với việc họ hiểu lẽ thật và vâng lời sao? Đây là một sai lầm lớn; lối vào sự sống không đơn giản như vậy. Một số lãnh đạo giống như một người quản lý mới đang cố gắng gây ấn tượng mạnh, họ cố gắng áp đặt thẩm quyền mới có được của mình lên những người được Đức Chúa Trời chọn để mọi người quy phục họ, vì nghĩ rằng điều này sẽ giúp công việc của họ dễ dàng hơn. Nếu ngươi thiếu thực tế của lẽ thật thì chẳng bao lâu nữa vóc giạc thật của ngươi sẽ bị vạch trần, bộ mặt thật của ngươi sẽ bị phơi bày, và ngươi rất có thể bị bỏ ra. Trong một số công việc hành chính, có thể chấp nhận một chút xử lý, tỉa sửa và sửa dạy. Nhưng nếu ngươi không có khả năng thông công về lẽ thật, thì cuối cùng ngươi vẫn sẽ không thể giải quyết được vấn đề và sẽ ảnh hưởng đến kết quả công việc. Nếu bất kể vấn đề gì nảy sinh trong hội thánh, ngươi cũng luôn lên lớp mọi người và đổ lỗi – nếu tất cả những gì ngươi làm là mất bình tĩnh – thì đây chính là tâm tính bại hoại của ngươi đang phơi bày chính nó, và ngươi đã thể hiện bộ mặt xấu xa của sự bại hoại của mình. Nếu ngươi luôn đứng trên bục và lên lớp mọi người như thế này, thì theo thời gian, mọi người sẽ không thể nhận được sự chu cấp sự sống từ ngươi, họ sẽ không thể đạt được bất cứ điều gì thực sự, mà thay vào đó sẽ cự tuyệt và ghê tởm ngươi. Ngoài ra, sẽ có một số người bị ảnh hưởng bởi ngươi do thiếu sự phân định cũng sẽ lên lớp, xử lý và tỉa sửa người khác như vậy. Họ cũng sẽ tức giận và mất bình tĩnh như vậy. Ngươi sẽ không những không thể giải quyết các vấn đề của mọi người – mà còn dung dưỡng những tâm tính bại hoại của họ. Và chẳng phải điều đó đang dẫn họ đến con đường hư mất sao? Chẳng phải đó là một hành động tà ác sao? Nhìn chung, một lãnh đạo nên dẫn dắt bằng cách thông công về lẽ thật và chu cấp sự sống. Nếu ngươi luôn đứng trên bục và lên lớp người khác, liệu họ có thể hiểu lẽ thật không? Nếu ngươi làm việc theo cách này trong một thời gian, khi mọi người bắt đầu nhìn thấy rõ con người thật của ngươi, họ sẽ bỏ mặc ngươi. Ngươi có thể đưa mọi người đến trước Đức Chúa Trời bằng cách làm việc theo cách này không? Ngươi chắc chắn không thể; tất cả những gì ngươi có thể làm là làm hỏng công tác của hội thánh và khiến hết thảy dân sự được Đức Chúa Trời chọn ghê tởm ngươi, bỏ mặc ngươi(Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Khi suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, chị hiểu rõ rằng việc thấy vấn đề của người khác mà không thông công lẽ thật để giúp họ, hay chỉ điểm con đường thực hành, thay vào đó ngạo mạn chỉ trích và giáo huấn họ vì những sai sót, ép họ phải làm theo những gì mình muốn thì chính là biểu hiện của sự kìm hãm người khác. Đối chiếu bản thân với lời Đức Chúa Trời, chị thấy mình đúng là như thế. Khi Sheila mới bắt đầu tập sáng tác ca khúc, chị ấy không quen với nhiều phương thức làm việc, nên mắc lỗi là chuyện bình thường. Là cộng sự, lẽ ra chị nên tận tình giúp đỡ và hỗ trợ chị ấy, cùng làm việc để tổng kết những lý do chị ấy mắc lỗi, rồi sửa đổi những sai sót đó. Nhưng chị không xem xét vóc giạc thực tế hay khó khăn của chị ấy. Chị không hiểu và không quan tâm chị ấy chút nào, chị không tìm hiểu nguyên nhân chị ấy mắc lỗi. Chị khinh thường chị ấy, quy chụp cho chị ấy là không tận tụy với bổn phận. Thậm chí lúc nào chị cũng giáo huấn và chỉ trích chị ấy thậm tệ, khiến chị ấy cảm thấy bị kìm hãm và tình trạng xấu của chị ấy ảnh hưởng đến bổn phận. Chị thì cứ đánh đồng khi tương tác với các anh chị em khác. Nếu thấy có ai đi ngủ sớm hơn mình, nghỉ ngơi và đi lòng vòng, hay tán gẫu trong khi làm bổn phận, là chị nghĩ họ lơ là bổn phận, quá quan tâm đến xác thịt, và coi thường họ. Chị luôn lấy địa vị cao chỉ trích họ, khiến cho các anh chị em oán giận và thậm chí trốn tránh chị. Tương tác và làm việc với mọi người theo cách này chẳng những không đem đến cho họ sự khai sáng hay lợi ích gì, mà còn khiến họ sợ hãi và thấy bị kìm hãm. Chị thực sự không yêu thương mọi người và không có nhân tính. Thực ra đứng dậy và đi loanh quanh sau khi làm việc một thời gian dài, hay tán gẫu và thư giãn một lát là chuyện rất bình thường. Nhưng chị cứ bắt mọi người phải giống chị, đi ngủ muộn và không được nói chuyện tùy tiện. Chị thật sự quá kiêu ngạo và tự thị rồi. Chị đối xử với các anh chị em bằng sự bại hoại, không đối chiếu hành vi của mình với lời Đức Chúa Trời hay nguyên tắc lẽ thật, kết quả là khiến mọi người cảm thấy bị kìm hãm và bức bối. Lúc này ngẫm nghĩ lại chị mới cảm thấy tội lỗi và buồn phiền. Chị thấy mình thực sự không có lý trí và hết sức vô nhân tính.

Sau đó chị đọc một đoạn lời Đức Chúa Trời đã giúp chị thấy rõ hơn căn nguyên của việc mình kìm hãm người khác. Lời Đức Chúa Trời phán: “Nếu trong lòng ngươi, ngươi thực sự hiểu được lẽ thật, thì ngươi sẽ biết cách thực hành lẽ thật và vâng phục Đức Chúa Trời, và đương nhiên sẽ dấn bước trên con đường theo đuổi lẽ thật. Nếu con đường ngươi bước đi là con đường đúng và phù hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời, thì công tác của Đức Thánh Linh sẽ không rời khỏi ngươi – như thế sẽ có ngày càng ít nguy cơ ngươi phản bội Đức Chúa Trời. Không có lẽ thật, rất dễ làm điều ác, và ngươi sẽ làm điều đó dù bản thân không muốn vậy. Chẳng hạn, nếu ngươi có một tâm tính kiêu ngạo và tự phụ, thì việc bảo ngươi đừng đối nghịch với Đức Chúa Trời sẽ chẳng kết quả gì, ngươi không thể cưỡng lại, nó nằm ngoài tầm kiểm soát của ngươi. Ngươi sẽ không chủ tâm làm điều đó; ngươi sẽ làm điều đó dưới sự chi phối của bản tính kiêu ngạo và tự phụ của mình. Sự kiêu ngạo và tự phụ của ngươi sẽ khiến ngươi coi thường Đức Chúa Trời và xem Ngài là tầm thường; chúng sẽ khiến ngươi tự đề cao bản thân, không ngừng khoe khoang về bản thân; chúng sẽ khiến ngươi coi khinh những người khác, sẽ khiến ngươi không có ai trong lòng ngoài bản thân mình; chúng sẽ cướp vị trí của Đức Chúa Trời trong lòng ngươi, và cuối cùng sẽ khiến ngươi ngồi vào chỗ của Đức Chúa Trời và đòi hỏi mọi người phải quy phục mình, khiến ngươi sùng bái suy nghĩ, ý tưởng và quan niệm của mình như là lẽ thật. Bao nhiêu sự ác được thực hiện bởi những người chịu sự chi phối của bản tính kiêu ngạo và tự phụ của họ!(Chỉ có theo đuổi lẽ thật mới đạt được sự thay đổi trong tâm tính, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Từ lời Đức Chúa Trời, chị hiểu ra rằng lý do chị thường lấy địa vị giáo huấn và kìm hãm mọi người hoàn toàn là vì bị bản tính Sa-tan kiêu ngạo tự đại chi phối. Chị đã sáng tác nhạc lâu năm nên thuộc nằm lòng các khía cạnh về nguyên tắc và kỹ thuật, người phụ trách thường hay nhờ chị giúp đỡ và dẫn dắt cho các anh chị em. Chị lại coi đây là vốn liếng riêng, nghĩ rằng mình là nhân tài, giỏi hơn tất cả mọi người. Bất tri bất giác, chị tự cho mình là hơn người và coi thường người khác. Khi Sheila liên tục mắc lỗi trong việc sáng tác, chị nổi giận và giáo huấn chị ấy, nhưng thực ra chị đang hạ thấp chị ấy và tự tâng bốc bản thân, muốn mọi người thấy mình giỏi hơn chị ấy. Chị ấy mắc lỗi và gây ra vấn đề mà chị không bao giờ phạm phải; chị ấy làm việc thiếu chuyên tâm và trách nhiệm, trong khi chị thì nghiêm túc và có trách nhiệm trong bổn phận. Nhưng giờ nghĩ lại, chị thấy Sheila cũng có nhiều điểm mạnh. Chị ấy có tố chất tốt, tiến bộ nhanh trong sáng tác, và thường đưa ra được nhiều ý kiến hay. Nhưng chị chỉ nhìn vào khuyết điểm của chị ấy mà không thấy được những ưu điểm. Chị đặt tiêu chuẩn cao và yêu cầu nghiêm ngặt đối với chị ấy, Chị không cho phép chị ấy mắc lỗi trong những việc mà chị đã sửa. Những lúc thấy mọi người tán gẫu hay đi ngủ sớm, chị cũng chỉ trích họ. Chị lấy yêu cầu và tiêu chuẩn cá nhân làm nguyên tắc lẽ thật, bắt người khác làm theo, chỉ trích và giáo huấn khi họ chưa đạt. Chị tỏ vẻ như mình không có khuyết điểm và là một người hoàn hảo không ai sánh kịp. Chị thật kiêu ngạo và không có lý trí. Sự thật là chị thường xuyên mắc lỗi trong bổn phận. Có vài lần vì chị làm việc không chuyên tâm, đối phó và chiếu lệ nên đã ảnh hưởng xấu đến công tác. Chị cũng đã tiêu cực và chùn bước khi gặp khó khăn trong bổn phận, không muốn phải trả giá. Chị chẳng giỏi giang gì hơn mọi người, nhưng lại không thấy được vấn đề và khuyết điểm của mình. Chị luôn cảm thấy mình là người nổi bật hơn ai hết. Chị thực sự không biết tự nhận thức. Hiểu ra điều này khiến chị thấy rất hổ thẹn. Chị cũng rất hận sao mình lại kiêu ngạo và sống thiếu nhân tính đến vậy.

Sau đó trong khi tìm kiếm, chị hiểu ra chị từng luôn cảm thấy rằng việc chỉ ra được vấn đề mà mình thấy, và chỉ nói những điều đúng, có nghĩa là chị dám lên tiếng và không sợ làm phật lòng mọi người, và nó là biểu hiện của ý thức công chính. Nhưng thực ra chị không thể phân biệt được giữa ý thức công chính và tâm tính kiêu ngạo. Chị bày tỏ vấn đề nan giải này trước Đức Chúa Trời khi cầu nguyện và tìm kiếm. Trong một lần hội họp, một lãnh đạo hội thánh đã thông công nhận thức của anh ấy về chuyện này. Đại khái anh ấy nói rằng ý thức công chính là việc bảo vệ lẽ thật và bảo vệ công tác của Đức Chúa Trời. Nếu thực sự hiểu lẽ thật và biết điều gì phù hợp với lẽ thật và lời Đức Chúa Trời, thì ta nên bảo vệ điều đó. Nhưng không dám bảo vệ lời Đức Chúa Trời hay lẽ thật chính là thiếu ý thức công chính. Kiêu ngạo và tự đại là nói về tâm tính Sa-tan phản nghịch Đức Chúa Trời và chống đối Ngài. Coi thường lời Đức Chúa Trời, công tác và yêu cầu của Đức Chúa Trời, chỉ biết nghĩ cho bản thân, bám chặt vào quan điểm và quan niệm của mình, nghĩ rằng mình biết mọi thứ – đây là kiêu ngạo, tự đại và tự nên công chính. Sự kiêu ngạo hoàn toàn trái ngược với sự công chính và sự tuân thủ nguyên tắc. Chúng hoàn toàn không liên quan. Nghe thông công của lãnh đạo chị đã có chút phân định về sự khác nhau giữa kiêu ngạo và công chính. Một người có ý thức công chính có thể tuân thủ nguyên tắc lẽ thật và bảo vệ công tác của hội thánh. Khi thấy có người gây tổn hại đến lợi ích của hội thánh, họ có thể đứng lên, thông công và ngăn cản, và chỉ ra vấn đề của mọi người. Đôi lúc khẩu khí của họ có hơi nghiêm khắc, nhưng những gì họ nói đều khách quan và thực tế, và đều là vì công tác của hội thánh. Nó có ích cho lối vào sự sống của mọi người và không chứa chấp mục đích cá nhân nào cả. Đó là biểu hiện của sự công chính. Chị nghĩ về lúc lãnh đạo thấy một anh chị em vô trách nhiệm trong bổn phận và gây tổn hại cho công tác, đôi khi anh ấy tỉa sửa và xử lý họ. Dù giọng điệu của anh ấy có hơi nghiêm khắc và thẳng thắn, nhưng anh ấy nêu rõ tính chất và hậu quả của vấn đề, để mọi người có thể mau chóng phản tỉnh và ăn năn, và nó ngăn ngừa thiệt hại cho công tác, giúp mọi người phản tỉnh và hiểu bản thân hơn. Làm thế đem lại hiệu quả tích cực. Nhưng kìm hãm người khác là một biểu hiện của sự kiêu ngạo. Chính là bắt mọi người phải làm việc theo tiêu chuẩn và quan điểm của ta. Mục đích là để khoe khoang ta giỏi như thế nào. Hậu quả là ta áp đặt rất nhiều quy định lên mọi người, khiến họ sợ hãi và cảm thấy bị kìm hãm, hạn chế hoặc rơi vào tiêu cực. Nhớ lại thời gian cộng tác với Sheila, thấy chị ấy mắc nhiều sai sót và vấn đề trong bổn phận, chị không tìm hiểu xem điều gì khiến chị ấy mắc lỗi, hay đưa ra thông công tích cực và giúp đỡ. Thay vào đó chị chộp ngay lấy vấn đề của chị ấy và chỉ trích, khiến chị ấy cảm thấy bị kìm hãm. Rõ ràng chị đã biểu lộ tâm tính kiêu ngạo, chứ không phải bảo vệ công tác của hội thánh theo ý thức công chính. Nếu một người có mục đích ngay thẳng, có nguyên tắc, cố gắng bảo vệ công tác của hội thánh, và có thể khách quan chỉ ra vấn đề họ thấy, thì dù khẩu khí hơi nghiêm khắc nhưng họ không kiêu ngạo. Kiểu thực hành này khai sáng cho mọi người và có ích cho công tác. Đó mới là thực hành lẽ thật và biểu lộ sự công chính. Vì vậy nếu muốn giải quyết vấn đề kiêu ngạo và kìm hãm người khác, ta không thể chỉ chú trọng vào việc nói năng mềm mỏng, hoặc là không lên tiếng khi thấy vấn đề. Ta phải chú trọng vào việc tự phản tỉnh và hóa giải tâm tính kiêu ngạo, chú trọng xem xét mục đích đằng sau lời mình nói, và ở đúng vị trí của mình, ngừng đặt yêu cầu cho người khác và phán xét họ dựa theo ý thích và quan niệm của mình.

Chị đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời giúp chị thấy rõ con đường thực hành. Lời Đức Chúa Trời phán: “Chí ít là, những người được Đức Chúa Trời chọn phải sở hữu lương tâm và ý thức, phải gắn kết và tương tác với mọi người – và xử lý mọi việc – phù hợp với các tiêu chuẩn của nhân tính bình thường. Tất nhiên, điều tốt nhất là thực hành theo các nguyên tắc của lẽ thật do Đức Chúa Trời yêu cầu, điều này làm thỏa lòng Đức Chúa Trời. Vậy những nguyên tắc của lẽ thật mà Đức Chúa Trời yêu cầu là gì? Đó là mọi người hiểu được sự yếu đuối và tiêu cực của người khác khi họ yếu đuối và tiêu cực, đó là mọi người lưu tâm đến nỗi đau và khó khăn của người khác, sau đó hỏi han về những điều này, đưa ra sự giúp đỡ và hỗ trợ, và đọc lời Đức Chúa Trời cho họ để giúp họ giải quyết các vấn đề, để họ không còn yếu đuối, và được đưa đến trước Đức Chúa Trời. Đây có phải là cách thực hành phù hợp với nguyên tắc không? Thực hành như vậy là phù hợp với nguyên tắc của lẽ thật. Đương nhiên, các mối quan hệ kiểu này cũng phù hợp với nguyên tắc. Khi mọi người cố tình nhiễu sự và phá vỡ, hoặc cố tình bất cẩn và chiếu lệ khi thực hiện bổn phận, nếu ngươi thấy điều này và có thể xử lý vấn đề theo nguyên tắc, và có thể chỉ ra những điều này cho họ, khiển trách họ, và giúp đỡ họ, thì điều này phù hợp với các nguyên tắc của lẽ thật. Nếu ngươi nhắm mắt làm ngơ, hoặc khoan dung với họ và bao che cho họ, thậm chí đi xa đến mức nói những điều tốt đẹp để khen ngợi và tán thưởng họ, lừa phỉnh họ bằng những lời giả tạo, thì những hành vi như vậy, những cách tương tác như vậy với mọi người, cách đối phó với các vụ việc và xử lý vấn đề, rõ ràng là trái ngược với các nguyên tắc của lẽ thật và không có cơ sở trong lời Đức Chúa Trời – nếu đúng vậy thì những hành vi này và cách tương tác với mọi người và xử lý vấn đề như vậy rõ ràng là bất chính(Lời, Quyển 5 – Trách nhiệm của lãnh đạo và người làm công). Chị nghĩ về lời Đức Chúa Trời phán và hiểu rằng khi tương tác và làm việc với các anh chị em, chúng ta phải học cách đối xử công bằng và nhìn vào điểm mạnh của họ. Không được coi thường người khác chỉ vì họ có một số khuyết điểm và vấn đề. Như thế là không có lý trí. Vóc giạc, tố chất và năng lực lĩnh hội của mọi người khác nhau. Chúng ta không thể yêu cầu và đánh giá dựa vào ý thích cá nhân, đánh đồng mọi người với nhau. Khi phát hiện vấn đề của người khác, chúng ta nên tận tình giúp đỡ họ và thông công về lẽ thật để hỗ trợ họ để họ hiểu được nguyên tắc lẽ thật và tìm ra con đường thực hành. Đó là cách tốt nhất để giải quyết vấn đề. Đối với người thường xuyên hời hợt và quấy phá trong bổn phận, họ sẽ bị xử lý và phơi bày. Đó mới là cư xử có trách nhiệm đại diện cho công tác của hội thánh, chứ không phải kìm hãm. Hiểu ra tất cả những điều này, chị bắt đầu thực hành lời Đức Chúa Trời. Sau đó khi thấy các anh chị em nảy sinh vấn đề trong bổn phận, đầu tiên chị chủ động nói chuyện với họ và tìm ra nguyên nhân vấn đề, để xem là vì họ làm việc đối phó chiếu lệ hay là họ không hiểu nguyên tắc. Rồi chị tìm lời Đức Chúa Trời có liên quan để thông công, và tìm cách giải quyết. Nếu họ không thay đổi sau khi chị thông công nhiều lần về cùng một vấn đề, làm chậm trễ và ảnh hưởng đến công tác của hội thánh, chị sẽ tỉa sửa và xử lý họ một cách phù hợp. Chị không còn cảm thấy bị kìm hãm nữa.

Chị nhớ một thành viên của nhóm, chị Clara, không gánh vác trong bổn phận hay cống hiến hết sức mình. Khiến cho hiệu suất sáng tác thấp và hiệu quả sút kém. Chị đã chỉ ra vấn đề của chị ấy, nhưng chị ấy không chịu tiếp thu và tìm đủ mọi cớ để biện minh cho mình. Chị nhận ra chị ấy ở trong tình trạng rất nguy hiểm, nếu chị ấy không hồi tâm chuyển ý và bước vào, công tác của hội thánh chắc chắn sẽ bị tổn hại. Nếu nghiêm trọng, chị ấy có thể bị cách chức. Vì vậy sau đó chị đã nói thẳng với chị ấy về vấn đề của mình, phơi bày bản chất biểu hiện của chị ấy, và hậu quả như thế nào nếu còn tiếp diễn. Cuối cùng chị ấy cũng nhận ra vấn đề của mình nghiêm trọng đến thế nào và bằng lòng ăn năn hối cải. Sau đó thái độ của Clara đối với bổn phận đã thay đổi rất nhiều, và chị ấy trở nên ngày càng hiệu quả hơn. Hiện tại, khi thấy người khác vi phạm nguyên tắc và làm những việc gây bất lợi cho công tác hội thánh, chị vẫn có chút biểu hiện kiêu ngạo. Nhưng chị liền cầu nguyện Đức Chúa Trời và tự nhắc nhở phải đối xử công bằng với mọi người, tìm cách tốt nhất để giúp đỡ và hỗ trợ cho họ. Thực hành theo cách này một thời gian, quan hệ của chị với mọi người dần bình thường trở lại. Một hôm chị nghe một chị nói thông công của chị đã giúp chị ấy thay đổi được tình trạng của mình. Chị cảm thấy hết sức vui mừng.

Nghĩ lại mấy năm trước, trải nghiệm việc bị xử lý đã giúp chị phản tỉnh và hiểu hành vi kìm hãm người khác của mình, cho chị con đường thực hành để tương tác với các anh chị em và sống trọn nhân tính bình thường. Chút hiểu biết và thay đổi này là nhờ sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời dành cho chị!

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger