Thấy được thực chất của bố mẹ tôi
Từ nhỏ đến lớn, tôi luôn coi bố mẹ là hình mẫu trong việc đi theo Đức Chúa Trời. Ấn tượng trong lòng tôi là họ rất nhiệt tâm trong đức tin và sẵn sàng hy sinh. Sau khi tiếp nhận Đức Chúa Trời Toàn Năng, mẹ tôi đã bỏ luôn công việc tốt để thực hiện bổn phận toàn thời gian. Bà ấy có kỹ năng và tri thức, lại có thể sẵn sàng chịu khổ, trả giá, nên thường được giao đảm nhận bổn phận quan trọng. Về sau gia đình tôi bị một Giu-đa bán rẻ, nên bố mẹ và tôi phải đi trốn để tránh bị Đảng Cộng Sản Trung Quốc bắt. Dù vậy họ vẫn tiếp tục dốc sức thực hiện bổn phận. Bố mẹ tôi còn có lối sống giản dị và biểu hiện thường lệ khiến người ta thấy có vẻ sốt sắng và đầy chất thuộc linh, nên tôi thường nghe các anh chị em trong hội thánh nói rằng bố mẹ tôi có nhân tính tốt, thành tâm tin Đức Chúa Trời và mưu cầu lẽ thật. Dù tôi phải xa cách bố mẹ khi lên 10 vì sự đàn áp của Đảng Cộng sản Trung Quốc và chúng tôi không được gặp nhau nữa, nhưng họ vẫn để lại ấn tượng cao quý trong tôi. Tôi rất ngưỡng mộ họ và thấy họ có đức tin vô cùng lớn vào Đức Chúa Trời, có thể hy sinh và đảm nhận bổn phận quan trọng, nên hẳn bố mẹ tôi phải mưu cầu lẽ thật và có nhân tính tốt, và Đức Chúa Trời hẳn chấp nhận họ. Thậm chí tôi cảm thấy bố mẹ mình là những người có thể được cứu rỗi. Nghĩ đến việc mình có bố mẹ như thế, lòng tôi không khỏi thấy tự hào.
Sau đó, chúng tôi phải trốn ra nước ngoài vì sự bách hại của Đảng Cộng sản. Khi tôi liên lạc lại với bố mẹ, thì thấy họ vẫn thực hiện bổn phận ở nước ngoài. Nhất là khi tôi biết mẹ đang đảm nhận một số vai trò phụ trách trong công tác, tôi càng ngưỡng mộ bà hơn. Bố mẹ tôi tin Đức Chúa Trời bao năm qua, đã hy sinh gian khổ rất nhiều, hiện tại lại đảm nhận bổn phận quan trọng, nên tôi chắc chắn họ là người tìm kiếm lẽ thật, có vóc giạc, sau này nếu tôi gặp phải khó khăn hay tình trạng gì, tôi đều có thể nhờ bố mẹ giúp đỡ giải quyết, thật quá tốt rồi. Thỉnh thoảng tôi và bố mẹ nói chuyện về tình trạng hiện tại của mình. Có lần, bố tôi nói ông đang thực hiện một bổn phận không cần kỹ thuật chuyên môn gì đặc biệt, nhưng lại không có động lực để thực hiện, và ông luôn muốn đổi bổn phận khác. Đúng vào thời điểm đó, tôi cũng đang có trải nghiệm tương tự, nên chúng tôi hỗ trợ nhau thông công và chia sẻ lời Đức Chúa Trời. Sau một thời gian, thông qua ăn uống lời Đức Chúa Trời và tìm kiếm lẽ thật, tôi thấy mình quá kén chọn trong bổn phận. Tôi muốn một bổn phận có danh có lợi, nếu không có tôi sẽ làm việc cẩu thả tùy tiện. Thế là ích kỷ và không có đức tin chân thật. Tôi thực sự căm ghét bản thân vì thế và đã thoát ra được tình trạng đó. Nhưng bố tôi thì không thể và ông không có động lực để thực hiện bổn phận. Về chuyện này, tôi thấy rất khó hiểu. Vì ông đã tin Đức Chúa Trời hơn chục năm, lẽ ra ông đã có vóc giạc. Sao ông lại không thể giải quyết vấn đề kén chọn trong bổn phận đó? Tôi còn nhận ra rằng khi nói chuyện với bố mẹ về vấn đề và khó khăn của tôi, họ gửi cho tôi những lời Đức Chúa Trời và chia sẻ quan điểm, nhưng những gì họ nói thực ra không giúp giải quyết được vấn đề. Từ lúc đó, tôi bắt đầu có cảm giác mơ hồ rằng họ không thực sự là người hiểu được lẽ thật như tôi tưởng.
Sau đó, các anh chị em thông công về việc viết bài làm chứng cho Đức Chúa Trời. Tôi nghĩ bố mẹ tôi là tín hữu lâu năm nên hẳn có nhiều kinh nghiệm, đặc biệt là mẹ tôi. Bà đã bị một kẻ địch lại Đấng Christ chèn ép và khai trừ khỏi hội thánh một cách bất công, nhưng bà ấy vẫn dốc sức truyền bá phúc âm. Khi được gia nhập lại, bà đã dốc hết tâm huyết để thực hiện bổn phận, bà cũng đã thay đổi bổn phận nhiều lần, nên hẳn phải có nhiều kinh nghiệm. Tôi nghĩ bà nên viết về chúng để làm chứng cho Đức Chúa Trời. Thế là tôi tôi đã mấy lần năn nỉ mẹ viết một bài, nhưng bà cứ lảng tránh, nói rằng bà cũng muốn lắm, nhưng quá bận với bổn phận và không thể tĩnh tâm. Tôi nghĩ bụng bà ấy bận với bổn phận thật, nhưng đó không phải cái cớ. Nếu bà ấy có chứng ngôn trải nghiệm thật, sẽ không mất nhiều thời gian để viết. Viết chứng ngôn về Đức Chúa Trời từ nhiều năm đức tin sẽ rất ý nghĩa! Thế là tôi cứ hối thúc thêm, nhưng bà vẫn nhất quyết không chịu viết. Có lần bà bảo tôi rằng không thể sắp xếp ý tưởng để viết và không biết bắt đầu từ đâu, nên muốn thảo luận với tôi. Nghe vậy, tôi rất mừng. Tôi thật sự muốn nghe về mọi trải nghiệm bao năm qua của bà. Nhưng tôi rất bất ngờ khi bà ấy nói về những gì đã xảy ra và sự bại hoại mà bà ấy biểu lộ, bà ấy không chia sẻ hiểu biết chân thực, mà nói nhiều điều tiêu cực, hạn định bản thân. Khi bà nói về những trải nghiệm quá khứ, nghe có vẻ rất đau khổ, như thể bà chỉ quy phục một cách miễn cưỡng. Tôi không nghe bà nói gì về những điều đã thu hoạch được. Nói chuyện với bà xong, tôi thấy rất thất vọng. Tôi nghĩ rằng nếu bà thực sự trải nghiệm và có thu hoạch thì dù cho lúc đó có đau khổ, tiêu cực thế nào, việc đọc lời Đức Chúa Trời, tìm kiếm lẽ thật và biết ý muốn của Ngài sẽ cho bà hiểu biết thực tế về bản thân và Đức Chúa Trời, sau cùng sẽ mang lại niềm vui thực sự cho bà. Nhưng cách bà nói về những trải nghiệm trước kia nghe vẫn rất đau khổ, và bà có hiểu biết cảm tính và không thực tế về bản thân. Chẳng phải thế nghĩa là bà thiếu trải nghiệm thực tế sao? Tôi bàng hoàng ngộ ra – hèn gì bà ấy rất ngại chuyện viết chứng ngôn về Đức Chúa Trời. Nói không có thời gian chỉ là bao biện. Sự thật là vì bà không đạt được lẽ thật, không có thu hoạch thực sự, nên không viết nổi một chứng ngôn. Bố tôi thì sẵn lòng viết chứng ngôn, nhưng bài văn của ông toàn chuyện vặt vãnh, không nói nhiều về nhận thức bản thân hay những gì thu hoạch được. Thật chẳng xứng với bao năm đức tin của ông. Tôi nhớ tới lời Đức Chúa Trời: “Việc ngươi có thể được cứu rỗi hay không thì không tùy thuộc vào mức độ thâm niên của ngươi hay ngươi đã làm việc được bao nhiêu năm, và nó càng không tùy thuộc vào việc ngươi đã tích lũy được bao nhiêu bằng cấp. Thay vào đó, nó tùy thuộc vào việc theo đuổi của ngươi có đạt thành quả hay không. Ngươi phải biết rằng những ai được cứu rỗi là ‘những cái cây’ đơm bông kết trái, chứ không phải những cái cây có cành lá tốt tươi và rất nhiều hoa nhưng lại không kết trái. Ngay cả khi ngươi đã dành nhiều năm lang thang trên đường phố, thì điều đó có nghĩa gì? Chứng ngôn của ngươi ở đâu?” (Sự thực hành (7), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Những lời này khiến tôi sực tỉnh. Đúng vậy. Dù đã tin Đức Chúa Trời bao lâu, đạt được bao nhiêu công tác hay kinh nghiệm, nhưng nếu không có thu hoạch chân thực từ những gì trải qua, không đạt được lẽ thật, không thể làm chứng cho Ngài, nghĩa là không có sự sống. Loại người đó không bao giờ được cứu rỗi. Khi đã thấy rõ mọi chuyện, lòng tôi cứ nôn nao không tả nổi. Hình tượng về bố mẹ hiểu lẽ thật và có vóc giạc lần đầu bị sụp đổ. Tôi không hiểu nổi. Đã tin Đức Chúa Trời bấy nhiêu năm, đã hy sinh quá nhiều, sao họ lại không đạt được lẽ thật? Tôi không kìm được, chỉ biết khóc thầm. Sau đó tôi không còn ngưỡng mộ bố mẹ mình nhiều nữa, nhưng trong lòng vẫn nghĩ rằng dù gì thì sau bao năm hy sinh rất nhiều, ít ra họ cũng có nhân tính tốt và là người thật tâm tin Đức Chúa Trời. Nếu họ thực hiện tốt bổn phận và bắt đầu mưu cầu lẽ thật, họ vẫn được cứu rỗi. Nhưng một số chuyện xảy ra sau đó đã thay đổi quan điểm của tôi về họ.
Một hôm, tôi biết chuyện bố tôi đã bị hội thánh tước bổn phận vì ông hay cẩu thả tùy tiện, lười nhác bỏ bê, và không có hiệu quả. Không lâu sau đó, tôi lại phát hiện mẹ tôi cũng bị tước bổn phận vì nhân tính xấu, không bảo vệ lợi ích hội thánh, tính tình quá sức kiêu ngạo, không làm tốt trong bổn phận. Tôi quá bàng hoàng và không thể tin nổi. Sao có thể như thế? Chẳng phải không thể thực hiện bổn phận sẽ bị loại bỏ sao? Họ có nhân tính xấu? Người quen của bố mẹ tôi trước đây đều nói họ có nhân tính tốt, nếu không sao họ có thể hy sinh nhiều như vậy được? Tôi thật sự hoang mang, tâm trí lúc nào cũng lo lắng, không biết bố mẹ tôi thế nào rồi, có đau khổ không. Càng lúc tôi càng thấy tăm tối và chán nản, tôi biết quyết định này hẳn dựa vào nguyên tắc lẽ thật và thích đáng, nhưng tôi vẫn rất khó chấp nhận. Bố mẹ tôi vì tin Đức Chúa Trời mà trải qua nhiều gian khổ, luôn chạy trốn Đảng Cộng Sản, và chúng tôi đã phải xa cách nhau bao năm qua. Tôi mong cả nhà đoàn tụ trong vương quốc khi Đức Chúa Trời hoàn thành công tác. Thế nhưng, sau khi trải qua nhiều thăng trầm và thực hiện rất nhiều công tác, sao họ bị tước bổn phận dễ dàng như vậy? Tôi càng nghĩ càng theme buồn phiền, và không khỏi trào nước mắt. Mấy hôm liền tôi không ngừng thở dài và không còn tinh thần thực hiện bổn phận. Hễ mỗi lần nghĩ về chuyện đó là tôi lại buồn phiền và sức lực tiêu tan hết, động lực để mưu cầu bỗng nhiên cũng mất sạch. Tôi biết mình đang rơi vào tình trạng không tốt, và cứ liên tục tự nhủ với lòng mình: “Bố mẹ bị tước bổn phận là có lý do. Đức Chúa Trời rất công chính”. Nhưng trong lòng tôi không thể chấp nhận và cố tranh cãi với Đức Chúa Trời. Trong hội thánh, có những anh chị em không có chút đóng góp thực tế cho hội thánh, cũng không có bổn phận nào đáng chú ý mà họ vẫn giữ được bổn phận, sao bố mẹ tôi không giữ được bổn phận chứ? Dù vấn đề của họ là gì, dù bao năm qua, họ không có công lao gì thì cũng đã dốc sức nỗ lực rồi, với những đau khổ đã chịu, những công tác họ đã làm, vậy mà không thể cho họ thêm cơ hội sao? Tôi biết mình đang rơi vào tình trạng không tốt, lòng tôi ương ngạnh và không có chút động lực nào để tìm kiếm lẽ thật. Tôi mới đến trước Đức Chúa Trời mà cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời, con khổ quá. Xin hãy dẫn dắt và giúp con hiểu được ý muốn của Ngài”.
Sau đó, tôi hỏi một người chị em cách để giải quyết tình trạng của mình, tôi không khỏi bật khóc khi giải thích cho chị ấy. Chị ấy nói với tôi: “Bố mẹ chị bị tước bổn phận, nhưng họ chưa bị khai trừ. Sao chị lại buồn đến vậy? Chị nên thấy tình yêu của Đức Chúa Trời ẩn sau đó. Đức Chúa Trời đang cho họ cơ hội ăn năn đấy”. Nghe chị ấy nói xong, tôi bỗng ngộ ra được. Đúng vậy. Đức Chúa Trời chưa từng nói tước bổn phận nghĩa là bị loại bỏ. Một số anh chị em trong hội thánh chỉ bắt đầu tự phản tỉnh, hối hận rồi thực sự thay đổi và ăn năn sau khi bị tước bổn phận. Sau đó họ lại được đảm nhận bổn phận. Dù sao thì có bổn phận không có nghĩa là ta nhất định được cứu rỗi. Nếu không mưu cầu lẽ thật, ta vẫn sẽ là đối tượng bị Đức Chúa Trời phơi bày và loại bỏ. Thực ra, việc bị tước bổn phận là Đức Chúa Trời cho bố mẹ tôi cơ hội ăn năn, nhưng tôi lại nghĩ bị tước bổn phận đồng nghĩa với bị loại bỏ. Suy nghĩ như thế thật không phù hợp với lẽ thật. Nghĩ như thế rồi, lòng tôi cảm thấy nhẹ nhàng hơn, nhưng tôi vẫn còn buồn mỗi khi nghĩ về chuyện đó. Tôi luôn cảm thấy hội thánh quá khó khăn với họ.
Rồi tôi đọc được một số đoạn lời Đức Chúa Trời: “Khi đương đầu với những vấn đề trong đời thực, thì ngươi nên biết và hiểu về thẩm quyền của Đức Chúa Trời và quyền tối thượng của Ngài như thế nào? Khi ngươi phải đối mặt với những vấn đề này và không biết cách để hiểu, xử lý, và trải nghiệm chúng, thì ngươi nên có thái độ nào để thể hiện ý định đầu phục, ước muốn đầu phục, và hiện thực về sự đầu phục của ngươi đối với quyền tối thượng và sự an bài của Đức Chúa Trời? Trước hết, ngươi phải học cách chờ đợi; sau đó ngươi phải học cách mưu cầu; rồi ngươi phải học cách đầu phục. ‘Chờ đợi’ có nghĩa là chờ thời điểm của Đức Chúa Trời, chờ đợi những con người, sự vật và sự việc mà Ngài đã sắp đặt cho ngươi, chờ đợi ý muốn của Ngài dần dần tỏ lộ chính nó cho ngươi” (Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất III, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). “Ngươi càng thiếu hiểu biết về một vấn đề nào đó thì ngươi càng nên có lòng kính sợ Đức Chúa Trời và ngoan đạo, và thường đến trước Đức Chúa Trời để tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời và lẽ thật. Khi ngươi không hiểu mọi sự, ngươi cần sự khai sáng và hướng dẫn của Đức Chúa Trời. Khi gặp những điều ngươi không hiểu, ngươi cần nhiều hơn nữa công tác của Đức Chúa Trời trên ngươi, và đây là thiện ý của Đức Chúa Trời. Ngươi càng đến trước Đức Chúa Trời thì lòng ngươi càng gần Đức Chúa Trời hơn. Và chẳng phải là khi lòng ngươi càng gần Đức Chúa Trời hơn thì Đức Chúa Trời càng ngự trong đó nhiều hơn sao? Nếu Đức Chúa Trời ngự trong lòng con người nhiều hơn thì trạng thái, những sự theo đuổi và điều kiện của họ sẽ tốt lên hay xấu đi? Chắc chắn là tốt hơn” (“Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt”). Tôi bình tâm hơn sau khi đọc lời Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời phán càng không hiểu điều gì, càng phải tìm kiếm lẽ thật bằng lòng tôn kính Đức Chúa Trời như thế mới có thể cải thiện tình trạng. Đối với việc bố mẹ bị tước bổn phận, tôi biết chắc chắn hội thánh xử lý như thế là thích hợp và tôi không nên than phiền. Tôi cố không nghĩ mãi việc đó nữa, nhưng vẫn không thể hóa giải sự hiểu nhầm và khoảng cách với Đức Chúa Trời. Cứ nghĩ về chuyện đó là tôi lại có cảm giác đau đớn trong lòng. Rồi tôi nhận ra khi có chuyện gì không rõ ràng, không lý giải được, ta cần tìm kiếm lẽ thật, chứ đừng làm theo quy tắc và tự khắc chế mình, để mọi việc mơ hồ trôi qua – cách đó sẽ không giải quyết được vấn đề. Thực ra tôi không hiểu rõ bố mẹ mình. Tôi chỉ biết bề ngoài có vẻ họ hy sinh nhiều và nghe người khác nói tốt về họ, nhưng như thế rất phiến diện và hạn hẹp. Tôi muốn xem các anh chị em có tiếp xúc với họ sẽ nói gì về họ, chứ không dựa theo cảm tính của tôi. Tôi bắt đầu tìm hiểu cụ thể về biểu hiện của bố mẹ trong bổn phận. Khi đọc đánh giá của người khác về họ, tôi thấy trong bổn phận, bố tôi hay cẩu thả, trốn tránh việc khó khăn, và ông không sẵn lòng dành tâm huyết vào những việc cần trả giá. Ông có kỹ năng, nhưng luôn bị động trong bổn phận và không có hiệu quả. Đã bị thay đổi bổn phận mấy lần, nhưng ông không làm tốt việc nào cả. Lúc làm bổn phận phúc âm, ông vẫn cẩu thả và trốn việc khó nhọc. Khi không có người giám sát, ông làm gì cũng dở dang Khi các anh chị em chỉ ra cho ông thấy vấn đề trong bổn phận, ông đã không tự phản tỉnh, mà còn viện cớ, nói rằng ông tuổi đã cao và sức khỏe yếu, bổn phận đó không phải thế mạnh của ông, nên có vấn đề là chuyện bình thường, do người khác yêu cầu quá cao thôi. Kết quả là ông bị tước bổn phận khi không đạt hiệu quả. Mẹ tôi thì có vẻ sôi nổi và có thể chịu khổ, trả giá, nhưng đó chỉ là biểu hiện bề ngoài – thực tế bà rất tắc trách cẩu thả. Bà không thực hiện công tác thực tế, trì hoãn tiến độ công tác hội thánh. Bà không có lòng tôn kính trong cách quản lý của lễ, dẫn đến lãng phí không cần thiết và mất mát của lễ của nhà Đức Chúa Trời. Bà thực hiện nhiều công tác, nhưng có nhiều vấn đề và thiếu sót, khiến nhà Đức Chúa Trời thiệt hại nặng nề. Một số sai sót vẫn còn đang được xử lý. Bà lại còn luôn bao biện cho mình, bảo vệ tư lợi thay vì lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Có lúc để bà ấy xử lý vấn đề khẩn cấp là tốt nhất, thế mà bà một mực cử người khác đi, sợ phật lòng người ta, rồi làm trì trệ công tác của nhà Đức Chúa Trời. Các anh chị em còn nói bà rất kiêu ngạo và vô cùng cố chấp, lấy kinh nghiệm làm lá chắn, muốn gì làm nấy mà không thảo luận với ai. Bà phản đối ý kiến của người khác, giữ khư khư công tác của mình và thiếu sự minh bach, khiến cho ác anh chị em không biết rõ chi tiết một số việc. Lúc có anh chị em nào làm việc không hợp ý bà, bà sẽ nổi giận và đùng đùng mắng mỏ mọi người. Các anh chị em cảm thấy bị bà kìm hãm, có một anh cảm thấy bị kìm kẹp đến mức nói với bà: “Chị à, tôi không có tố chất. Làm việc với tôi hẳn là gánh nặng cho chị, tôi xin lỗi”. Lại có các anh chị em khác nói nếu không vì việc bổn phận, họ tuyệt đối không muốn tiếp xúc với người như thế. Vấn đề của bà ấy nghiêm trọng như thế, mà khi các anh chị em góp ý chỉ ra vấn đề, bà ấy chẳng hề tiếp thu. Bà có thành kiến và rất chống đối người giám sát công tác của mình. Bà ấy cứ nghĩ người khác luôn khó hòa đồng và đối đãi bất công với bà…
Tôi khá bất ngờ. Tôi thật chẳng muốn tin bố mẹ tôi lại là người như thế. Rồi tôi đọc được một số đoạn lời Đức Chúa Trời: “Cả lương tâm lẫn lý trí đều là những thành tố trong nhân tính của một người. Những điều này vừa cơ bản nhất vừa quan trọng nhất. Một người thiếu lương tâm và không có lý trí của con người bình thường thì là loại người gì chứ? Nói chung, họ là một người thiếu nhân tính, một người có nhân tính cực kỳ tệ hại. Hãy đi vào chi tiết hơn, những biểu hiện mất nhân tính nào người này thể hiện ra? Hãy thử phân tích những đặc điểm nào được tìm thấy ở những người như thế và những biểu hiện cụ thể nào họ trưng ra. (Họ ích kỷ và đê tiện). Những người ích kỷ và đê tiện qua loa trong hành động của họ và tránh xa bất cứ điều gì không liên quan đến cá nhân họ. Họ không xem xét đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, và họ cũng không quan tâm đến ý muốn của Đức Chúa Trời. Họ không nhận trọng trách chứng thực cho Đức Chúa Trời hay thực hiện bổn phận của mình, và họ không có ý thức trách nhiệm” (“Trao tấm lòng chân thật của mình cho Đức Chúa Trời và ngươi có thể có được lẽ thật” trong Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Khi một người có nhân tính tốt, tấm lòng chân thành, lương tâm và lý trí, thì đây không phải là những thứ sáo rỗng hay mơ hồ không thể nhìn thấy hoặc không thể chạm vào, mà là những thứ có thể tìm thấy ở bất cứ nơi đâu trong cuộc sống hằng ngày; chúng đều là những thứ thực tế. Giả sử một người thật tuyệt vời và hoàn hảo: Đó có phải là điều ngươi có thể nhìn thấy không? Ngươi không thể nhìn thấy, chạm vào hoặc thậm chí không thể tưởng tượng được hoàn hảo hay tuyệt vời là gì. Nhưng nếu ngươi nói ai đó ích kỷ, ngươi có thể thấy những hành động của người đó không – và người đó có đúng với mô tả không? Nếu ai đó được cho là trung thực với một tấm lòng chân thật, thì ngươi có thể thấy hành vi này không? Nếu ai đó bị cho là giả dối, quanh co và đê tiện, thì ngươi có thể thấy những điều đó không? Ngay cả khi ngươi nhắm mắt, ngươi vẫn có thể cảm nhận được nhân tính của người đó thấp kém hay cao thượng thông qua những gì họ nói và cách họ hành động. Vì vậy, ‘nhân tính tốt hay xấu’ không phải là một cụm từ vô nghĩa. Ví dụ, sự ích kỷ và đê tiện, quanh co và giả dối, kiêu ngạo và tự nên công chính đều là những điều ngươi có thể nắm bắt được trong cuộc sống khi ngươi tiếp xúc với một người; đây là những yếu tố tiêu cực của nhân tính. Như vậy, liệu những yếu tố tích cực của nhân tính mà con người nên sở hữu – chẳng hạn như sự trung thực và tình yêu lẽ thật – có thể nhận thấy được trong cuộc sống hằng ngày không? Rồi ngươi có thể thấy và phân biệt được liệu một người có sự khai sáng của Đức Thánh Linh hay không, liệu người đó có thể nhận được sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời hay không, và liệu Đức Thánh Linh có hoạt động bên trong người đó hay không? Làm thế nào để có thể phân biệt những điều này? (Qua những gì người đó sống thể hiện ra và bản chất hành động của người đó). Qua những gì người đó sống thể hiện ra và bản chất hành động của người đó. Hai điều này chứng tỏ điều gì? Chúng chứng tỏ được phẩm chất nhân tính của người đó. Khi ngươi tiếp xúc với một người, ngươi nhìn vào điều gì đầu tiên? Làm thế nào ngươi có thể xác định người đó là loại người gì, liệu người đó có phải là người yêu lẽ thật hay không, liệu người đó có thể chấp nhận lẽ thật hay không, và liệu người đó có thể có được lẽ thật hay không? Trước hết hãy nhìn vào phẩm chất nhân tính của người đó. Nếu miệng một người đầy những lời ngọt ngào, nhưng người đó không làm gì thật cả – khi đến lúc làm gì đó thật, người đó chỉ nghĩ đến bản thân chứ không bao giờ nghĩ đến người khác – thì đây là loại nhân tính gì? (Ích kỷ và đê tiện. Người đó không có nhân tính). Một người không có nhân tính có dễ có được lẽ thật không? Người đó khó có được lẽ thật. … Đừng chú ý đến những gì một kẻ như vậy nói; ngươi phải nhìn vào những gì họ sống thể hiện ra, những gì họ tỏ lộ, và thái độ của họ là gì khi họ thực hiện bổn phận của mình, cũng như trạng thái bên trong của họ là gì và họ yêu thích điều gì. Nếu tình yêu họ dành cho danh vọng và tiền tài của chính họ nhiều hơn lòng trung thành của họ với Đức Chúa Trời, nếu tình yêu họ dành cho danh vọng và tiền tài của chính họ nhiều hơn quyền lợi của nhà Đức Chúa Trời, hoặc nếu tình yêu họ dành cho danh vọng và tiền tài của chính họ nhiều hơn sự quan tâm họ dành cho Đức Chúa Trời, thì một người như vậy là có nhân tính hay không? Đây không phải là một người có nhân tính. Hành vi của họ có thể thấy được bởi người khác và bởi Đức Chúa Trời. Rất khó để một người như vậy có được lẽ thật” (“Trao tấm lòng chân thật của mình cho Đức Chúa Trời và ngươi có thể có được lẽ thật” trong Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Từ lời Đức Chúa Trời tôi thấy để đánh giá nhân tính của ai đó tốt hay xấu, phải xem thái độ của họ đối với nhiệm vụ Đức Chúa Trời giao phó và lẽ thật. Người có nhân tính tốt thì yêu lẽ thật và quan tâm ý muốn của Đức Chúa Trời. Họ có trách nhiệm với nhiệm vụ Đức Chúa Trời giao phó, đáng tin cậy, và bảo vệ lợi ích của hội thánh. Người có nhân tính xấu rất ích kỷ và hèn hạ, chỉ nghĩ về danh lợi cá nhân. Họ tắc trách, xảo trá, chỉ nói mà không thực hiện công tác thực tế. Họ thậm chí vì để bảo vệ lợi ích bản thân mà coi nhẹ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và bán rẻ nhà Ngài. Soi xét biểu hiện của bố mẹ dưới ánh sáng lời Đức Chúa Trời, tôi thấy họ không phải người tốt như tôi tưởng. Như bố tôi – ông chỉ tỏ ra hy sinh bề ngoài, mà không gánh vác trong bổn phận, lại cẩu thả và trốn tránh việc khó. Khi cần phải trả giá, ông tìm cớ bao biện cho việc nuông chiều xác thịt, không quan tâm nhu cầu của hội thánh. Trong bổn phận, đáng ra ông phải giám sát và đốc thúc thường xuyên, thế mà ông rất bị động. Còn mẹ tôi, dù bà ấy liên tục bận rộn, có thể chịu đau khổ, trả giá vì bổn phận và có vẻ hoàn thành một số công tác, nhưng lại không có hiệu quả thực tế từ bổn phận, chỉ làm để phô trương. Bà ấy có vẻ cực kỳ bận rộn, nhưng chỉ hám cái lợi trước mắt và làm việc vì danh tiếng và địa vị của bản thân. Kể cả khi quản lý việc quan trọng như của lễ, bà ấy không có lòng tôn kính Đức Chúa Trời, việc này gây thiệt hại lớn cho nhà Đức Chúa Trời. Bà ấy đã thực hiện nhiều công tác, nhưng vấn đề, sai lầm và thiệt hại lại lớn hơn. Trong những việc liên quan đến bảo vệ lợi ích hội thánh, bà biết mình phù hợp nhất để giải quyết việc đó nhưng lại bảo người khác đi xử lý. Bà không bảo vệ lợi ích hội thánh trong những việc quan trọng, không đồng lòng với Đức Chúa Trời. Tôi chỉ thấy bà đã hoàn thành nhiều công việc, chịu khổ, trả giá, nhưng tôi không thấy động cơ của bà hay xem bà có đạt được gì trong bổn phận hay không, xem bà có đóng góp thực sự gì không, hay thực ra chỉ làm cái này phá cái kia, lợi bất cập hại. Giờ tôi mới nhận ra rằng việc đánh giá nhân tính của ai đó không phải là về sự hy sinh hay nỗ lực bề ngoài, mà là xem động cơ của họ có đúng không, họ có thực sự nghĩ đến nhà Đức Chúa Trời hay họ làm việc vì danh tiếng và địa vị cá nhân. Người có nhân tính tốt có thể không hiểu lẽ thật, nhưng lòng họ đặt đúng chỗ và họ làm theo lương tâm. Họ đứng về phía nhà Đức Chúa Trời và quan tâm lợi ích của nó, đó là lý do họ có thể đạt được nhiều điều. Những người có nhân tính xấu, dù họ chịu đau khổ hay vất vả bao nhiêu, ăn nói giỏi ra sao, thì trong thực tế, họ cũng chỉ làm việc kiểu ứng phó, chỉ quan tâm và tính toán cho danh lợi địa vị bản thân, mà không thực sự nghĩ đến lợi ích nhà Đức Chúa Trời. Thế nên họ có nhiều thiếu sót trong công tác và không đạt được gì. Hoặc có thể họ hoàn thành một số việc nhờ tài năng hay kinh nghiệm, nhưng qua thời gian dài, sẽ gây hại nhiều hơn lợi, vì nhân tính và tính cách của họ rất xấu. Họ không đáng tin, không làm công tác thực tế. Chưa biết khi nào họ sẽ gây tổn thất cho nhà Đức Chúa Trời. Nhận ra điều đó, tôi tâm phục khẩu phục rằng bố mẹ tôi không có nhân tính tốt.
Trước đây, tôi luôn nghĩ về việc họ đã hy sinh bao nhiêu, hy sinh cả một cuộc sống thoải mái, thực hiện bổn phận qua gần hai thập kỷ thăng trầm, nên dù không mưu cầu lẽ thật, ít ra họ cũng thật tâm tin Đức Chúa Trời và có nhân tính tốt. Kỳ thực, nhiều người cũng chịu đựng được gian khổ, nhưng động lực và thực chất thì mỗi người mỗi khác nhau. Tôi không nhìn xem điều gì khiến họ làm việc cực khổ hay họ có đạt được gì trong bổn phận không. Tôi chỉ nhìn vào những nỗ lực bề ngoài và nghĩ họ thật tâm tin Đức Chúa Trời, có nhân tính tốt. Giờ tôi mới thấy quan điểm của tôi rất nông cạn và ngu xuẩn. Tin Đức Chúa Trời suốt bao năm nay, chúng ta chịu sự đàn áp của Đảng Cộng Sản và nỗi đau gia đình phân ly, nhưng đã được hưởng nhiều ân điển của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không chỉ ban nhiều lẽ thật, Ngài còn ban cho chúng ta sự cung dưỡng dư dật cần có trong cuộc sống. Người có lương tâm và lý trí sẽ cố hết sức thực hiện bổn phận và đền đáp tình yêu của Đức Chúa Trời. Nhưng sau bao năm tin Đức Chúa Trời và học rất nhiều đạo lý, bố mẹ tôi vẫn không có trách nhiệm cơ bản nhất đối với bổn phận của họ. Họ còn không thể bảo vệ lợi ích của hội thánh. Dựa vào cách cư xử, việc tước bổn phận của họ chính là sự công chính của Đức Chúa Trời. Như thế không chỉ tốt cho công tác của nhà Đức Chúa Trời mà còn tốt cho họ. Nếu vấp ngã như thế có thể giúp họ phản tỉnh, hiểu bản thân và hướng về Đức Chúa Trời, thay đổi thái độ đối với bổn phận, đó sẽ là sự cứu rỗi cho họ và là ngã rẽ trên con đường đức tin của họ. Nếu họ cứ xử sự như trước đây, không biết tự phản tỉnh, ăn năn hay thay đổi, họ thực sự thành đối tượng bị phơi bày và loại bỏ. Tôi nhớ đến lời Đức Chúa Trời phán: “Một người phải chịu khổ bao nhiêu và họ phải đi một con đường dài bao nhiêu đều được định trước bởi Đức Chúa Trời, và không ai có thể thực sự giúp đỡ ai khác” (Con đường… (6), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Hiện tại, tôi chỉ có thể nói ra vấn đề mình thấy và làm hết sức để giúp họ, nhưng với con đường họ đã chọn, đó không phải là điều tôi nên lo. Tôi thấy lòng sáng tỏ hơn khi nhận ra điều đó. Tôi thôi buồn phiền và khóc than cho họ, mà có thể tiếp cận một cách đúng đắn.
Sau đó tôi đọc được hai đoạn lời này: “Ngươi phải biết Ta mong muốn loại người nào; những kẻ bất khiết không được phép bước vào vương quốc, những kẻ bất khiết không được phép làm ô uế vùng đất thánh. Mặc dù ngươi có thể đã làm rất nhiều việc và đã làm việc trong nhiều năm, nhưng cuối cùng nếu ngươi vẫn còn ô uế một cách tệ hại – thì luật Trời sẽ không thể dung thứ nếu ngươi muốn bước vào vương quốc của Ta! Từ khi sáng thế cho đến nay, Ta chưa bao giờ cho những kẻ nịnh hót Ta dễ dàng vào vương quốc của Ta. Đây là luật Trời, và không ai có thể phá vỡ nó!” (Thành công hay thất bại phụ thuộc vào con đường mà con người đi, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Ta quyết định đích đến của từng người không dựa trên cơ sở tuổi tác, thâm niên, bao nhiêu gian khổ, và đặc biệt là không phải mức độ họ mời gọi lòng trắc ẩn, mà tùy vào việc họ có sở hữu lẽ thật hay không. Không có lựa chọn nào khác ngoài điều này. Các ngươi phải nhận ra rằng tất cả những kẻ không tuân theo ý muốn của Đức Chúa Trời đều sẽ bị trừng phạt. Đây là một sự thật bất biến” (Hãy chuẩn bị đầy đủ những việc lành cho đích đến của mình, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Hai đoạn này khiến tôi rất xúc động. Tiêu chuẩn duy nhất của Đức Chúa Trời để cứu rỗi mọi người là xem họ có sở hữu lẽ thật và thay đổi tâm tính không. Đức Chúa Trời đã công tác bao năm nay và bày tỏ nhiều lẽ thật, cho chúng ta thông công rất cụ thể và chi tiết trên con đường tiếp thu lẽ thật và được cứu rỗi. Chỉ cần người ta yêu thương và tiếp nhận lẽ thật, sẽ có hy vọng được Đức Chúa Trời cứu rỗi. Nhưng, nếu người ta chỉ có thể hy sinh bề ngoài kể cả sau nhiều năm tin Đức Chúa Trười, không thực hành lẽ thật hay thay đổi tâm tính, thì họ không tiếp nhận lẽ thật, mà trái lại còn căm ghét lẽ thật. Với người như thế, dù có hy sinh bao nhiêu hay công tác bao nhiêu năm, hay bổn phận của họ quan trọng thế nào, nếu cuối cùng họ không thể đạt được lẽ thật, không thay đổi tâm tính bại hoại mà vẫn phản nghịch và chống đối Đức Chúa Trời, quấy phá công tác của hội thánh, họ sẽ không được cứu rỗi. Ai làm nhiều việc ác sẽ bị Đức Chúa Trời trừng phạt, chuyện này do sự công chính của Đức Chúa Trời định đoạt. Thấy được điều đó, tôi đã sáng tỏ hơn về việc sao bố mẹ tôi lại tới mức đó. Họ đã từ bỏ nhà cửa, công việc, làm việc cực khổ, nhưng họ không yêu lẽ thật. Họ hời hợt và cố chấp trong bổn phận, không tự phản tỉnh dựa vào lời Đức Chúa Trời. Khi các anh chị em nhắc đến vấn đề của họ, họ chỉ bao biện, luôn nghĩ đó là vấn đề của người khác, nói rằng họ yêu cầu quá cao, Việc này cho tôi thấy họ căm ghét lẽ thật và không chịu tiếp nhận nó, đó là lý do tâm tính của họ không thay đổi sau bao năm đức tin. Thay vào đó, trong thời gian làm tín hữu và tích lũy hồ sơ công tác, họ ngày càng trở nên kiêu ngạo. Có thể thấy từ cách họ đối đãi với lẽ thật rằng mọi sự hy sinh của họ không phải để đạt được lẽ thật và sự sống, mà họ hy sinh một cách bất đắc dĩ vì phước lành. Như Phao-lô, mọi việc ông làm là để thương thảo với Đức Chúa Trời. Ông không phải tín hữu chân chính thực sự cống hiến vì Đức Chúa Trời. Tôi đã thấy rõ rằng một người có mưu cầu lẽ thật, có nhân tính tốt và được cứu rỗi hay không phải suy xét dựa vào thái độ của họ đối với lẽ thật. Những đóng góp bề ngoài, việc họ công tác bao nhiêu, hay thực hiện những bổn phận gì đều không quan trọng. Một số anh chị em có thể đóng góp không lớn cho hội thánh, và bổn phận của họ có vẻ không đáng chú ý, nhưng họ kiên định và đặt cả tâm huyết vào nó. Những người chú tâm vào bổn phận biết tìm kiếm lẽ thật, phản tỉnh sự bại hoại, khi nhận thức rồi, họ biết hối hận và thực hành lẽ thật, thay đổi tâm tính bại hoại của mình, là người có thể đứng vững trong nhà Đức Chúa Trời. Càng nghĩ tôi càng thấy sự công chính của Đức Chúa Trời. Tiêu chuẩn đánh giá mọi người của Đức Chúa Trời không bao giờ thay đổi. Chỉ là tôi đã coi sự cứu rỗi là việc hên xui. Tôi nghĩ Đức Chúa Trời sẽ không từ bỏ người có hy sinh lớn lao và làm việc cực khổ kể cả nếu họ không đóng góp gì cả. Nhưng tôi đã thấy sự công chính của Đức Chúa Trời trong trường hợp của bố mẹ. Đức Chúa Trời không phán xét dựa vào tình cảm hay quan niệm của con người, Ngài lượng định và nhìn vào mỗi người dựa vào tiêu chuẩn của lẽ thật. Kể cả người nắm vai trò quan trọng trong hội thánh cũng không ngoại lệ.
Sau đó tôi đọc một số đoạn lời khai sáng cho tôi và giúp tôi yên lòng. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Một ngày nào đó, khi ngươi hiểu được lẽ thật nào đó, ngươi sẽ không còn nghĩ rằng mẹ ngươi là người tốt nhất, hay cha mẹ ngươi là những người tốt nhất nữa. Ngươi sẽ nhận ra rằng họ cũng là những thành viên của nhân loại bại hoại, và rằng những tâm tính bại hoại của họ cũng đều như nhau. Tất cả những gì làm cho họ khác biệt chính là mối quan hệ huyết thống thể xác với ngươi. Nếu họ không tin Đức Chúa Trời, thì họ cũng y như những người ngoại đạo. Ngươi sẽ không còn nhìn họ dưới góc độ của một thành viên gia đình, hoặc từ góc độ mối quan hệ huyết thống của ngươi, mà là từ phương diện của lẽ thật. Các khía cạnh chính mà ngươi nên xem xét là gì? Ngươi nên xem xét quan điểm của họ về đức tin nơi Đức Chúa Trời, quan điểm của họ về thế giới, quan điểm của họ về việc xử lý vấn đề, và quan trọng nhất, là thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời. Nếu ngươi xem xét những khía cạnh này một cách chính xác, ngươi sẽ có thể thấy rõ họ là người tốt hay xấu. Nếu một ngày nào đó ngươi có thể thấy rõ rằng họ cũng giống như ngươi, rằng họ là những người có tâm tính bại hoại, và hơn thế nữa, họ không phải là những người tốt bụng có tình yêu thực sự dành cho ngươi giống như ngươi hình dung, và rằng họ hoàn toàn không thể dẫn dắt ngươi đến lẽ thật hoặc đi vào con đường đúng đắn trong cuộc sống, và nếu ngươi có thể thấy rõ rằng những gì họ đã làm cho ngươi không mang lại lợi ích gì to lớn cho ngươi, và rằng nó không có ý nghĩa gì cho ngươi để đi đúng con đường trong cuộc sống, và nếu ngươi cũng nhận thấy rằng nhiều sự thực hành và quan điểm của họ là trái với lẽ thật, rằng họ thuộc về xác thịt, và điều này khiến ngươi khinh miệt họ, cảm thấy ác cảm và căm ghét họ, thì dựa trên những yếu tố này, ngươi sẽ có thể đối xử với họ một cách đúng đắn trong lòng mình, và ngươi sẽ không còn nhớ nhung, lo lắng và không thể tách rời khỏi họ. Họ đã hoàn thành sứ mạng làm cha mẹ, và ngươi sẽ không còn coi họ là những người thân thiết nhất với ngươi hay thần tượng hóa họ nữa. Thay vào đó, ngươi sẽ đối đãi với họ như những người bình thường, và khi đó, ngươi sẽ hoàn toàn thoát khỏi sự trói buộc của cảm xúc, thực sự thoát ra khỏi những cảm xúc và tình cảm gia đình của mình” (“Chỉ khi giải quyết tâm tính bại hoại của mình mới có thể thoát khỏi trạng thái tiêu cực” trong Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Nhiều người phải chịu đựng rất nhiều đau khổ tình cảm vô nghĩa. Tất cả đều là những đau khổ không cần thiết và vô ích. Tại sao Ta nói điều này? Bởi vì con người luôn bị cảm xúc kìm hãm, nên họ không thể thực hành lẽ thật và vâng phục Đức Chúa Trời. Việc bị kìm hãm bởi cảm xúc của một người là rất bất lợi cho việc thực hiện nghĩa vụ của một người và theo Đức Chúa Trời, và đây cũng là một trở ngại lớn cho lối vào sự sống. Bởi vậy, sự đau khổ do những ràng buộc tình cảm không có ý nghĩa gì, và Đức Chúa Trời không ghi nhớ nó. Vậy làm thế nào ngươi có thể thoát khỏi sự đau khổ vô nghĩa này? Ngươi phải hiểu lẽ thật. Một khi ngươi nhìn thấy và hiểu được bản chất của những mối quan hệ xác thịt này, ngươi sẽ dễ dàng thoát khỏi những ràng buộc của xác thịt. … Sa-tan sử dụng tình cảm gia đình để ràng buộc và trói buộc con người. Nếu con người không hiểu lẽ thật, họ sẽ dễ dàng bị lừa. Con người thường trả giá và đau khổ, khóc lóc, chịu đựng gian khổ vì cha mẹ, người thân của mình. Đây là sự dốt nát và ngu xuẩn. Ngươi sẵn sàng chịu đựng theo cách này, đây hoàn toàn là tự làm khổ mình, chịu đựng không đáng và vô ích; điều này hoàn toàn không được Đức Chúa Trời nhớ đến, và có thể nói rằng đó không là gì khác ngoài sự đau khổ thuần túy! Vào ngày ngươi hiểu ra lẽ thật, ngươi sẽ được giải thoát, và ngươi sẽ cảm thấy rằng mình đã dốt nát và ngu ngốc khi chịu đựng những gian khổ đó, và rằng đó không phải lỗi của người nào mà là lỗi của chính sự mù quáng, ngu dốt, thiếu hiểu biết về lẽ thật, và thiếu sự thông sáng trong cách nhìn nhận các vấn đề của ngươi” (“Chỉ khi giải quyết tâm tính bại hoại của mình mới có thể thoát khỏi trạng thái tiêu cực” trong Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Đọc đoạn này khiến tôi rất xúc động. Đức Chúa Trời hiểu rõ chúng ta! Những giọt nước mắt và đau khổ vô ích của tôi là vì tôi quá xúc động và không hiểu mọi việc. Trước kia, tôi không hiểu lẽ thật hay có sự phân định về bố mẹ, mà chỉ nghĩ họ vĩ đại, đáng ngưỡng mộ, họ là hình mẫu và tôi sẽ cố gắng giống như họ. Tôi còn nghĩ họ là những người có thể được cứu rỗi, nhưng khi soi xét họ dưới ánh sáng của lẽ thật và lời Đức Chúa Trời, tôi mới nhận ra mình đã vô cùng sai lầm và cuối cùng đã có sự phân định họ là loại người gì. Tôi thấy nhiều thứ trong họ khiến tôi không thể ngưỡng mộ, mà còn căm ghét. Tôi không còn sùng bái và ngưỡng mộ họ, không đau khổ hay khóc than vì họ nữa. Tôi đã có thể nhìn nhận họ một cách chính xác và khách quan.
Qua hoàn cảnh này, tôi thấy rằng mình quá quan tâm đến tình cảm, khi tôi sống trong tình cảm nhục thể, tôi chỉ nghĩ về việc bố mẹ phải chịu bao đau khổ, và không chấp nhận cách nhà Đức Chúa Trời xử lý mọi việc. Tôi chống đối, thậm chí thấy Đức Chúa Trời không công chính. Rồi tôi nhận ra lý do Đức Chúa Trời căm ghét tình cảm con người. Vì nó làm chúng ta mơ hồ giữa sai và đúng, thiện và ác, và làm chúng ta xa rời Đức Chúa Trời. Trước đây tôi không hiểu bản thân. Khi các anh chị em thấy người nhà bị sa thải hay khai trừ, ngày nào họ cũng khóc lóc, tôi rất coi thường họ. Tôi nghĩ nếu chuyện đó xảy ra với mình, tôi sẽ không yếu đuối. Nhưng khi gặp phải chuyện tương tự, tôi lại yếu đuối hơn bất cứ ai, và gần như sụp đổ. Tôi không chỉ khóc vài lần, mà còn tiêu cực, làm ảnh hưởng đến bổn phận. Tôi thấy mình quá ấu trĩ và ngu xuẩn, lại còn hết sức vô lý. Qua trải nghiệm này, tôi cũng hiểu cho những anh chị em phải chật vật để thoát khỏi tình cảm nhục thể, giờ tôi mới thấy hổ thẹn vì sự ngu ngốc và khoác lác trước kia. Tôi cũng biết được rằng chuyện gì xảy ra cũng có lẽ thật để tìm kiếm. Luôn có cơ hội để rút ra bài học và đạt sự phân định. Chúng ta cần đối đãi với mọi người xung quanh, kể cả bố mẹ, phù hợp với lời Đức Chúa Trời và lẽ thật. Như thế chúng ta sẽ không đối đãi bằng tình cảm và tưởng tượng, làm những việc chống đối Đức Chúa Trời. Tạ ơn Đức Chúa Trời!
Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?