Trải nghiệm không thể quên về việc rao giảng phúc âm

01/12/2022

Bởi Tiểu Luyện, Ý

Trải nghiệm để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc nhất là vào tháng Tư năm 2021. Tôi đã gặp một người anh em Công giáo trên mạng tên là Raphael. Trong khi rao giảng Phúc Âm với anh ấy, tôi phát hiện tố chất của anh ấy không tệ và anh ấy đã nhanh chóng hiểu được lẽ thật. Đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng, anh ấy cảm thấy đó là tiếng của Đức Chúa Trời. Anh ấy sẵn lòng tìm kiếm, tìm hiểu và chủ động tham dự các cuộc họp.

Nhưng thật ngạc nhiên là, một ngày nọ, một người chị em đã gửi cho tôi một tin nhắn, nói rằng Raphael đã tình cờ gặp lại mục sư Công giáo cũ của anh ấy, và anh ấy không còn đi họp nữa. Tôi đã sốc khi nghe tin này. Chắc hẳn anh ấy đã bị nhồi nhét rất nhiều quan niệm và những lời ngụy biện. Tôi lập tức liên hệ với anh ấy, và biết được anh ấy đã bị bối rối bởi những gì chúng tôi đã nói, nhưng anh ấy lại không nói mình đang băn khoăn về điều gì. Tôi không biết mình nên thông công thế nào với anh ấy nữa, đầu óc tôi trống rỗng, và chẳng biết phải làm sao cả. Tôi đã kêu cầu Đức Chúa Trời, xin Ngài dẫn dắt anh ấy nếu anh ấy là chiên của Ngài, và nói rằng tôi sẵn lòng cố hết sức để thông công với anh ấy. Sau đó, chị Lý và tôi đã mời Raphael thông công chung. Anh ấy nói ra cả đống giáo lý tôn giáo, nghe có vẻ rất phấn khích, nói về lòng sùng kính của anh ấy đối với Đức Chúa Jêsus, đức tin của anh ấy vững vàng thế nào, và Đức Chúa Trời nhập thể trở thành nữ nhân là điều không thể. Anh ấy cảm thấy vì Đức Chúa Jêsus đã nhập thể là nam nhân và Ngài gọi Đức Chúa Trời trên trời là “Cha”, và vì những người trong thế giới tôn giáo đã quen với việc gọi Đức Chúa Trời trên trời là “Đức Chúa Cha”, nên Chúa phải tái lâm trong hình thể của một nam nhân, và rằng với anh ấy, việc Đức Chúa Trời Toàn Năng xuất hiện và công tác trong hình thể nữ nhân là không thể chấp nhận được. Nghe những lời nói gay gắt của anh ấy, tôi không biết phải làm sao cả và cũng không biết bắt đầu từ đâu. Lúc đó, tôi đột nhiên nhớ đến một bộ phim Phúc Âm tên là Lẽ nhiệm mầu của sự tin kính: Phần hai, và lẽ thật được thông công trong bộ phim đó có thể giải quyết được vấn đề này. Nên tôi nhanh chóng nói: “Người anh em, tôi tin đức tin của anh nơi Đức Chúa Jêsus rất vững vàng, nhưng hãy thử nghĩ một chút mà xem: Chúng ta thường cầu nguyện với Đức Chúa Jêsus, nhưng chúng ta có thực sự biết Ngài không? Chúng ta có thực sự biết Đức Chúa Jêsus là sự nhập thể của chính Đức Chúa Trời không? Chúng ta có thực sự biết Ngài là lẽ thật, đường đi và sự sống không? Chúng ta có dám nói mình biết thực chất thần thánh của Đức Chúa Jêsus không? Chúng ta có dám đảm bảo rằng khi Đức Chúa Jêsus tái lâm, chúng ta có thể thực sự biết đó là Ngài không? Chính xác thì tại sao chúng ta lại tin vào Ngài? Đó là vì gia đình Ngài sinh ra hay vì diện mạo của Ngài?”. Raphael không nói gì cả. Sau đó tôi đã đọc một vài đoạn lời Đức Chúa Trời Toàn Năng cho anh ấy. “Thực chất niềm tin của con người vào Đức Chúa Trời là niềm tin vào Thần của Đức Chúa Trời, và thậm chí niềm tin của họ vào Đức Chúa Trời nhập thể là bởi vì xác thịt này là hiện thân của Thần của Đức Chúa Trời, có nghĩa là niềm tin như vậy vẫn là niềm tin vào Thần. Có những sự khác biệt giữa Thần và xác thịt, nhưng bởi vì xác thịt này đến từ Thần, và là Lời trở nên xác thịt, do đó những gì con người tin vào vẫn là thực chất vốn có của Đức Chúa Trời(Chỉ những ai biết Đức Chúa Trời và công tác của Ngài mới có thể làm hài lòng Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Sự nhập thể có nghĩa là Thần của Đức Chúa Trời trở nên xác thịt, tức là, Đức Chúa Trời trở nên xác thịt; công tác xác thịt làm là công tác của Thần, là điều được thực hiện trong xác thịt, được bày tỏ bởi xác thịt. Không có ai ngoài xác thịt của Đức Chúa Trời có thể hoàn thành chức vụ của Đức Chúa Trời nhập thể; nghĩa là, chỉ có xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời, nhân tính bình thường này – và không một ai khác – mới có thể bày tỏ công tác thần thánh(Thực chất của xác thịt mà Đức Chúa Trời ngự vào, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Sau khi đọc cho anh ấy nghe lời Đức Chúa Trời, tôi thông công rằng: “Chúng ta đều biết rằng Đức Chúa Jêsus được sinh ra trong gia đình của một người thợ mộc, Ngài trông bình thường, bề ngoài không có gì khác biệt so với một người bình thường, nhưng Ngài là thân thể do Thần của Đức Chúa Trời mặc lên, và Ngài chính là Đức Chúa Trời nhập thể. Không phải vì Ngài là người Do Thái mà chúng ta tin vào Ngài, hay vì Ngài được Đức mẹ Ma-ri-a sinh ra, và cũng không phải vì giới tính hay diện mạo của Ngài. Chúng ta tin vào Ngài vì Ngài có thực chất của Thần của Đức Chúa Trời, vì Ngài là lẽ thật, đường đi và sự sống. Chỉ có Ngài mới có thể bày tỏ lẽ thật và thực hiện công tác thiêng liêng. Tương tự như vậy, tại sao giờ chúng ta lại tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng? Chúng ta tin vì Đức Chúa Trời Toàn Năng chính là Đức Chúa Jêsus tái lâm, Ngài là Thần của Đức Chúa Jêsus lần nữa khoác lên xác thịt của một người bình thường, sống giữa chúng ta, bày tỏ lẽ thật, thực hiện công tác phán xét và làm tinh sạch trong thời kỳ sau rốt. Đức Chúa Trời Toàn Năng và Đức Chúa Jêsus đều có nguồn gốc giống nhau, và đều là thực chất của Thần của Đức Chúa Trời. Dù lần này Đức Chúa Trời nhập thể được sinh ra trong gia đình nào, Trông Ngài như thế nào, giới tính của Ngài là gì, thì cũng chẳng có gì có thể thay đổi được thực chất của Ngài. Đức Chúa Trời Toàn Năng đã bày tỏ quá nhiều lẽ thật và thực hiện công tác phán xét trong thời kỳ sau rốt. Điều này là đủ để chứng minh Đức Chúa Trời Toàn Năng là sự nhập thể của Thần của Đức Chúa Trời và Ngài chính là Đức Chúa Jêsus tái lâm”.

Anh ấy dần trở nên sẵn sàng tìm kiếm, và nói rằng anh ấy đồng tình với mọi điều tôi nói, nhưng vẫn không thể hiểu được tại sao lần này Đức Chúa Trời lại chọn nhập thể vào thân xác của một nữ nhân. Thấy anh ấy đã bớt căng thẳng đi một chút, tôi hỏi anh ấy: “Hình thể hay giới tính mà Đức Chúa Trời chọn để công tác trong xác thịt là điều chúng ta có thể quyết định được sao? Khi mẹ chúng ta sinh ra chúng ta, chúng ta không thể chọn vẻ bề ngoài của bà ấy, và dù trông bà ấy thế nào, chúng ta cũng phải chấp nhận. Đây là lý trí mà con cái nên có. Anh thấy có phải không?”. Raphael gật đầu nói: “Tất nhiên là chúng ta không có quyền lựa chọn rồi”. Tôi nói tiếp: “Tương tự như vậy, xác thịt mà Đức Chúa Trời chọn bây giờ để nhập thể là nam nhân hay như nhân, Là điều chúng ta có thể quyết định được sao? Nếu chúng ta nói, nếu Đức Chúa Trời đến làm nam nhân thì tôi sẽ chấp nhận, nhưng nếu Ngài đến làm nữ nhân thì không, thì chẳng phải là phi lý sao? Giới tính của Đức Chúa Trời nhập thể là việc của chính Đức Chúa Trời và đó là lựa chọn của Ngài. Là con người, chúng ta không có tư cách bình luận, không phải sao? Đức Chúa Trời là Chúa của tạo vật. Sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời cao hơn cả các tầng trời và tư tưởng của Ngài cao hơn tư tưởng của con người. Chúng ta chỉ là những người tầm thường, làm sao có thể hiểu được sự khôn ngoan trong công tác của Ngài chứ? Về diện mạo của Ngài và công tác của Ngài, chúng ta hoàn toàn không có quyền lựa chọn. Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt, và chỉ cần Ngài bày tỏ lẽ thật và thực hiện công tác của Đức Chúa Trời, thì dù giới tính của Ngài là gì, Ngài vẫn là Đức Chúa Trời, chúng ta nên chấp nhận và vâng phục. Chỉ có như vậy mới là có lý trí, và chỉ có như vậy mới là người thông minh”. Sau khi nghe tôi thông công, Raphael đã lắng nghe nghiêm túc và không phản bác lại tôi.

Sau đó tôi đọc cho anh ấy nghe vài đoạn Kinh Thánh: “Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Ðức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Ðức Chúa Trời(Giăng 1:1). “Vả, đất là vô hình và trống không, sự mờ tối ở trên mặt vực; Thần Ðức Chúa Trời vận hành trên mặt nước” (Sách sáng thế 1:2). “Ðức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Ðức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ” (Sách sáng thế 1:27). “Vậy, các ngươi hãy cẩn thận giữ lấy linh hồn mình cho lắm, vì các ngươi không có thấy một hình trạng nào trong ngày Giê-hô-va Ðức Chúa Trời các ngươi, từ nơi giữa lửa phán cùng các ngươi, tại Hô-rếp; e các ngươi phải làm hư hoại cho mình chăng, và làm một tượng chạm nào, tạo hình trạng của tà thần nào, hoặc hình của người nam hay người nữ, hoặc hình của con thú nào đi trên đất, hoặc hình của vật nào có cánh bay trên trời” (Phục Truyền Luật Lệ 4:15-17). Tôi thông công tiếp: “Từ những đoạn Kinh Thánh này, chúng ta có thể thấy về thực chất, Đức Chúa Trời là thần, rằng Ngài không có hình thù cố định, và Ngài không cho phép con người tạc Ngài thành bất cứ hình tượng nào để thờ phượng. Trong Sáng thế ký viết rằng lúc đầu, Đức Chúa Trời tạo dựng người nam trước, sau đó là người nữ theo hình ảnh của riêng Ngài. Vậy anh nói Đức Chúa Trời là nam hay nữ? Nếu anh nói Đức Chúa Trời là nam, nhưng Ngài cũng tạo dựng người nữ theo hình ảnh của riêng Ngài, hay nếu anh nói Đức Chúa Trời là nữ, nhưng Ngài cũng tạo dựng người nam theo hình ảnh của riêng Ngài, thì chuyện này là sao đây? Đức Chúa Trời là một Đức Chúa Trời công chính, và Ngài tạo dựng người nam và người nữ theo hình ảnh của Ngài. Lần đầu Ngài nhập thể là một nam nhân, và trong thời kỳ sau rốt Ngài đã nhập thể thành một nữ nhân, nghĩa là Ngài đối xử công bằng với cả hai giới tính. Nếu cả hai lần Đức Chúa Trời nhập thể đều là nam nhân, vậy thì sẽ bất công với nữ nhân. Việc nói Đức Chúa Trời hoặc là nam, hoặc là nữ là đang giới hạn Đức Chúa Trời, đó là điều Ngài ghét nhất. Mỗi lần Đức Chúa Trời nhập thể đều là để cứu rỗi nhân loại, và nhập thể tức là lấy hình thể của một con người, hoặc là nam, hoặc là nữ. Tuy nhiên, bất kể giới tính của Đức Chúa Trời nhập thể là gì, thực chất của Ngài vĩnh viễn không thay đổi”. Nghe thấy vậy, Raphael đã ngộ ra được điều gì đó và nói: “Việc Đức Chúa Trời nhập thể làm nữ nhân trong thời kỳ sau rốt thật sự có ý nghĩa!”.

Sau đó, tôi đã gửi cho anh ấy một vài đoạn lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng. “Mỗi giai đoạn công tác được Đức Chúa Trời thực hiện đều có ý nghĩa thực tế riêng của nó. Thời xưa, khi Jêsus đến, Ngài đến trong hình hài người nam, và khi Đức Chúa Trời đến lần này, hình hài của Ngài là người nữ. Từ điều này, ngươi có thể thấy rằng sự tạo dựng cả người nam và người nữ của Đức Chúa Trời đều có thể hữu dụng trong công tác của Ngài, và với Ngài không có sự phân biệt giới tính. Khi Thần của Ngài đến, Ngài có thể mang lấy bất kỳ xác thịt nào mà Ngài muốn, và xác thịt đó có thể đại diện cho Ngài; dù là nam hay nữ, nó có thể đại diện cho Đức Chúa Trời miễn nó là xác thịt nhập thể của Ngài. Nếu Jêsus đã xuất hiện trong thân phận một người nữ khi Ngài đến, nói cách khác, nếu một bé gái sơ sinh, chứ không phải một bé trai, đã được thai dựng bởi Đức Thánh Linh, thì giai đoạn công tác đó sẽ được hoàn thành dù thế nào đi chăng nữa. Nếu đúng là như thế, thì giai đoạn công tác hiện tại thay vào đó sẽ phải được hoàn thành bởi một người nam, nhưng công tác sẽ được hoàn thành dù thế nào đi chăng nữa. Công tác được thực hiện trong mỗi giai đoạn đều có ý nghĩa; không có giai đoạn công tác nào bị lặp lại, chúng cũng không mâu thuẫn với nhau(Hai lần nhập thể hoàn tất ý nghĩa của sự nhập thể, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Nếu Đức Chúa Trời trở nên xác thịt chỉ là một người nam, mọi người sẽ định nghĩa Ngài là nam, là Đức Chúa Trời của người nam, và sẽ không bao giờ tin Ngài là Đức Chúa Trời của người nữ. Khi đó, người nam sẽ cho rằng Đức Chúa Trời có cùng giới tính như người nam, rằng Đức Chúa Trời là thủ lĩnh của người nam – nhưng vậy còn người nữ thì sao? Điều này không công bằng; chẳng phải đó là sự thiên vị sao? Nếu đúng như vậy, thì tất cả những người được Đức Chúa Trời cứu sẽ là người nam giống như Ngài, và sẽ không một người nữ nào được cứu. Khi Đức Chúa Trời dựng nên loài người, Ngài đã dựng nên A-đam và Ngài đã dựng nên Ê-va. Ngài đã không chỉ dựng nên A-đam, mà dựng nên cả người nam và người nữ theo hình Ngài. Đức Chúa Trời không chỉ là Đức Chúa Trời của người nam – Ngài còn là Đức Chúa Trời của người nữ(Khải tượng về công tác của Đức Chúa Trời (3), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Đức Chúa Trời không chỉ là Đức Thánh Linh, là Thần, là Thần uy lực gấp bảy lần, hay là Thần toàn diện, mà còn là một con người – một con người bình thường, một con người đặc biệt bình dân. Ngài không chỉ là nam giới, mà còn là nữ giới. Họ giống nhau ở chỗ Họ đều được sinh ra bởi con người, và khác nhau ở chỗ một người được thai dựng bởi Đức Thánh Linh, còn người kia được sinh ra bởi con người mặc dù bắt nguồn trực tiếp từ Thần. Họ giống nhau ở chỗ cả hai đều là xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời để thực hiện công tác của Đức Chúa Cha, và khác nhau ở chỗ một người đã thực hiện công tác cứu chuộc, trong khi người kia làm công tác chinh phục. Cả hai đều đại diện cho Đức Chúa Cha, nhưng một người là Đấng Cứu Chuộc, tràn đầy lòng từ ái và thương xót, còn người kia là Đức Chúa Trời công chính, đầy thạnh nộ và phán xét. Một người là Đấng Chỉ Huy Tối Cao khởi đầu công tác cứu chuộc, trong khi người kia là Đức Chúa Trời công chính hoàn thành công tác chinh phục. Một người là Đấng thứ nhứt, còn người kia là Đấng sau chót. Một người là xác thịt vô tội, trong khi người kia là xác thịt hoàn tất việc cứu chuộc, tiếp tục công tác và không bao giờ tội lỗi. Cả hai đều cùng là một Thần, nhưng Họ sống trong những xác thịt khác nhau và được sinh ra tại những nơi khác nhau, và Họ cách nhau đến vài nghìn năm. Tuy nhiên, tất cả công tác của Họ đều bổ trợ cho nhau, không bao giờ mâu thuẫn, và có thể được ví sánh cùng nhau. Cả hai đều là con người, nhưng một người là bé trai còn người kia là bé gái(Ngươi hiểu gì về Đức Chúa Trời? Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Đọc lời Đức Chúa Trời xong, chị Lý thông công: “công tác của Đức Chúa Trời luôn mới và không bao giờ cũ, Ngài không bao giờ lặp lại công tác của Ngài. Công tác của Đức Chúa Trời luôn mới, thay đổi và không ngừng nâng cao. Nếu Đức Chúa Trời lặp lại công tác cũ, thì con người có thể sẽ giới hạn Ngài và chúng ta sẽ không có hiểu biết thật về Ngài. Lần đầu Đức Chúa Trời nhập thể làm nam nhân, vậy hậu quả của việc Chúa tái lâm lần nữa trong xác thịt của một nam nhân sẽ là gì? Con người sẽ giới hạn Đức Chúa Trời là nam, và nghĩ Ngài chỉ thừa nhận nam nhân, ưu ái nam nhân, Ngài không yêu mến nữ nhân và xa lánh nữ nhân, và vì thế, phụ nữ sẽ mãi bị phân biệt đối xử. Đó có phải là cách hiểu đúng không? Như vậy có công bằng với phụ nữ không? Điều này có phù hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời không? Những điều này chẳng phải là quan niệm và tưởng tượng của con người sao? Đức Chúa Trời rất công chính, Ngài đối xử công bằng với nam và nữ. Đức Chúa Trời một lần nhập thể làm nam nhân, một lần làm nữ nhân. Việc này rất có ý nghĩa! Việc Đức Chúa Trời nhập thể làm nữ nhân trong thời kỳ sau rốt đã làm đảo lộn quan niệm của mọi người, đảo ngược hiểu biết sai lầm của con người về Đức Chúa Trời, phá vỡ sự phân định của con người về Ngài, và cho con người thấy rằng Ngài không chỉ là Đức Chúa Trời của nam nhân, mà cả của nữ nhân. Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của toàn nhân loại. Không ai có thể dùng quan niệm của họ để giới hạn Đức Chúa Trời là nam hay nữ”.

Tôi nói thêm: “Thực ra, dù hình thể Đức Chúa Trời chọn nhập thể là gì, thì thực chất của Ngài là bất biến. Đó đều là Thần của Đức Chúa Trời trở nên xác thịt, đại diện cho chính Đức Chúa Trời, và có thể thực hiện công tác thần thánh. Trong Thời đại Ân điển, Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt và chịu bị đóng đinh làm của lễ chuộc tội cho nhân loại. Đức Chúa Jêsus là nam nhân và có thể chịu bị đóng đinh để cứu chuộc nhân loại. Nếu lần đầu Đức Chúa Trời đã nhập thể làm nữ nhân, thì Ngài vẫn có thể hoàn thành công tác cứu chuộc, và bảy tỏ lẽ thật để cho con người biết cách ăn năn. Do đó, giới tính và vẻ ngoài của Đức Chúa Trời nhập thể không quan trọng, và dù Ngài có diện mạo vĩ đại hay không không quan trọng, mà quan trọng là Ngài có thực chất của Đức Chúa Trời, Ngài phán ra lẽ thật, và Ngài thực hiện công tác cứu rỗi nhân loại. Chúng ta chỉ nên chú ý đến những điều này trong việc tìm hiểu con đường thật”. Sau đó, tôi đã đọc cho anh ấy thêm một đoạn lời nữa của Đức Chúa Trời. “Đấng là Đức Chúa Trời nhập thể sẽ sở hữu thực chất của Đức Chúa Trời, và Đấng là Đức Chúa Trời nhập thể sẽ sở hữu biểu hiện của Đức Chúa Trời. Bởi vì Đức Chúa Trời trở nên xác thịt, Ngài sẽ đưa ra công tác mà Ngài định làm, và bởi vì Đức Chúa Trời trở nên xác thịt, Ngài sẽ bày tỏ Ngài là gì, và sẽ đem đến lẽ thật cho con người, ban sự sống cho con người, và chỉ lối cho con người. Xác thịt không có thực chất của Đức Chúa Trời thì dứt khoát không phải là Đức Chúa Trời nhập thể; điều này không có gì phải nghi ngờ. Nếu con người định tìm hiểu xem đó có phải là xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời hay không, thì họ phải chứng thực điều này từ tâm tính Ngài bày tỏ và những lời Ngài phán ra. Nghĩa là, để chứng thực đó có phải xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời hay không, và đó có phải là con đường thật hay không, thì người ta phải phân biệt dựa trên thực chất của Ngài. Và vì thế, để xác định đó có phải là xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời hay không, điều cốt yếu nằm ở thực chất của Ngài (công tác của Ngài, những lời phán của Ngài, tâm tính của Ngài và nhiều khía cạnh khác), chứ không phải là hình dáng bên ngoài. Nếu con người chỉ soi hình dáng bên ngoài của Ngài, và vì thế mà bỏ qua thực chất của Ngài, thì điều này chứng tỏ con người thật tối tăm và dốt nát(Lời tựa, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Tôi tiếp tục thông công: “Lời Đức Chúa Trời rất rõ ràng. Để xác định liệu đó có phải là Đức Chúa Trời nhập thể hay không, chủ yếu là phải tìm hiểu xem liệu Ngài có thể bày tỏ lẽ thật và thực hiện công tác của Đức Chúa Trời hay không. Nếu không tập trung lắng nghe tiếng của Đức Chúa Trời trong khi tìm hiểu con đường thật, mà lại phán xét dựa trên diện mạo và giới tính của Đức Chúa Trời nhập thể, thì chẳng phải là đang mắc sai lầm giống như những người Pha-ri-si chối đối Jêsus sao? Những người Pha-ri-si thấy gia cảnh và diện mạo của Đức Chúa Jêsus hoàn toàn không phù hợp với quan niệm của họ và với sự ảo tưởng của họ về Đấng Mê-si, nên họ đã tùy tiện phán xét và lên án Đức Chúa Jêsus mà không hề tìm kiếm hay tìm hiểu lời Ngài hay công tác của Ngài. Cuối cùng, họ đã đóng đinh Jêsus, xúc phạm tâm tính Đức Chúa Trời, và họ đã bị nguyền rủa. Nếu mọi người không đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng hay tập trung lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời, phủ nhận và chống đối Đức Chúa Trời Toàn Năng vì sự nhập thể làm nữ nhân của Đức Chúa Trời không phù hợp với quan niệm của họ, thì chẳng phải là đang đóng đinh Đức Chúa Trời lần nữa sao?”.

Sau khi thông công xong, Raphael nói anh ấy sẽ tiếp tục tìm kiếm, và khi chúng tôi mời anh ấy đến một cuộc họp nhóm vào buổi tối hôm sau, anh ấy sẵn sàng đồng ý. Nhưng nào ngờ, tối hôm sau anh ấy đã không đến và không nghe máy khi tôi gọi. Tôi đã rất lo lắng. Vậy nên sáng nào ngay khi thức dậy, tôi cũng gửi cho anh ấy một ít lời của Đức Chúa Trời, hy vọng một ngày nào đó anh sẽ đáp lại. Nhưng anh ấy không bao giờ dọc tin nhắn và tôi thực sự đã mất hy vọng. Sau đó, tôi nhờ các anh chị em khác cố liên lạc với anh ấy nhưng vẫn không được. Tôi lại rơi vào trạng thái tuyệt vọng, và tôi nghĩ chắc là mặc kệ thôi. Đúng lúc muốn hoàn toàn từ bỏ anh ấy, thì tôi vô tình đọc được một bài viết về trải nghiệm rao giảng Phúc Âm của một người chị em với một người Ý. Tôi tình cờ quen người anh em mà chị ấy đã rao giảng này và anh ấy là cộng sự cùng rao giảng Phúc Âm với tôi. Người anh em này có nhân tính tốt và có hiểu biết thuần túy về lẽ thật, nhưng tôi không ngờ khi chị ấy rao giảng với anh, anh đã có rất nhiều quan niệm, hoặc việc đã mất liên lạc với anh ấy trong hai tháng. Vậy mà chị ấy vẫn không từ bỏ. Chị ấy cứ chờ đợi và tìm cơ hội để thông công lời Đức Chúa Trời với anh, cuối cùng, lời Đức Chúa Trời Toàn Năng đã giải quyết từng quan niệm của anh, và anh đã tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt. Trải nghiệm của người chị em đó rất xúc động và khiến tôi thấy xấu hổ. Tôi nghĩ đến việc đằng sau việc mỗi người đến trước Đức Chúa Trời, Ngài đã trả một cái giá to lớn như thế nào. Nếu tôi hiểu được ý định tha thiết muốn cứu rỗi con người của Ngài, thì tôi nên lưu tâm đến ý muốn của Ngài. Nhưng khi mới gặp chút khó khăn nhỏ nhất, tôi đã sẵn sàng chùn bước và từ bỏ. Tôi hoàn toàn thiếu sự kiên trì. Lòng trung thành và chứng ngôn của tôi ở đâu chứ? Sau đó, tôi đã đọc lời Đức Chúa Trời. “Trong việc truyền bá Phúc Âm, trước tiên ngươi phải làm tròn trách nhiệm của mình. Ngươi phải đi theo lương tâm và ý thức của mình khi làm mọi việc có thể và mọi việc phải làm. Ngươi phải trìu mến đưa ra các giải pháp cho bất kỳ quan niệm nào mà người xem xét con đường thật có thể có hoặc bất kỳ câu hỏi nào họ nêu ra. Nếu thực sự không thể đưa ra giải pháp, ngươi có thể tìm một vài đoạn lời Đức Chúa Trời liên quan để đọc cho họ nghe, hoặc các đoạn clip liên quan về lời chứng thực nghiệm, hay một số video phù hợp cho họ xem. Việc này hoàn toàn có thể hiệu quả; ít nhất thì ngươi cũng đang thực hiện trách nhiệm của mình, và sẽ không cảm thấy cắn rứt lương tâm. Nhưng nếu ngươi làm chiếu lệ và lung tung, ngươi rất có thể làm trì hoãn mọi thứ và sẽ không dễ để thu phục người đó. Trong việc truyền bá Phúc Âm cho người khác, một người phải làm tròn trách nhiệm của mình. Từ ‘trách nhiệm’ được hiểu như thế nào? Chính xác thì nó nên được đưa vào thực hành và áp dụng như thế nào? Ngươi nên hiểu rằng khi đã nghênh đón Chúa và trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời, ngươi có nghĩa vụ làm chứng về công tác của Ngài cho những ai khao khát sự xuất hiện của Ngài. Vậy ngươi chia sẻ điều đó với họ như thế nào? Dù trên mạng hay ngoài đời thực, ngươi nên chia sẻ điều đó theo bất kỳ cách nào thu phục được mọi người và có hiệu quả. Truyền bá Phúc Âm không phải là việc ngươi cảm thấy thích thì làm, tâm trạng tốt thì làm, không tốt thì không làm. Đó cũng không phải là việc ngươi làm theo sở thích, kén cá chọn canh, truyền bá Phúc Âm cho những người ngươi thích và không truyền bá cho những người ngươi không thích. Phúc Âm phải được truyền bá theo yêu cầu của Đức Chúa Trời và các nguyên tắc của nhà Ngài. Ngươi nên thực hiện trách nhiệm và bổn phận của một tạo vật của Đức Chúa Trời, làm tất cả những gì có thể để chứng thực cho những lẽ thật mà ngươi hiểu, cho lời Đức Chúa Trời và cho công tác của Đức Chúa Trời với những người đang xem xét con đường thật. Đó mới là thực hiện trách nhiệm và bổn phận của một tạo vật của Đức Chúa Trời. Một người phải làm gì khi rao truyền Phúc Âm? Họ phải hoàn thành trách nhiệm của mình, làm mọi thứ có thể và sẵn sàng trả bất cứ giá nào(Truyền bá Phúc Âm là bổn phận mà mọi tín đồ đều phải thực hiện, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Vậy, người đang tìm hiểu con đường thật nên được đối xử như thế nào? Miễn là họ phù hợp với các nguyên tắc rao giảng Phúc Âm do nhà Đức Chúa Trời đặt ra thì chúng ta có nghĩa vụ phải rao giảng Phúc Âm cho họ; và ngay cả nếu thái độ hiện tại của họ có kém cỏi và không chấp nhận thì chúng ta cũng phải kiên nhẫn. Chúng ta phải kiên nhẫn trong bao lâu và đến mức nào? Cho đến khi họ từ chối ngươi và không để ngươi vào nhà họ, và không cuộc thảo luận nào có hiệu quả, hay gọi điện cho họ, nhờ người khác đi mời họ cũng không được, và họ không nhìn nhận ngươi. Khi đó thì không có cách nào rao giảng Phúc Âm cho họ. Đó là khi ngươi đã hoàn thành trách nhiệm của mình. Đó là thực hiện bổn phận. Chừng nào vẫn còn một chút hi vọng, ngươi phải nghĩ mọi cách có thể và làm hết sức mình để đọc cho họ nghe lời Đức Chúa Trời và làm chứng cho công tác của Ngài. Chẳng hạn như, ngươi đã tiếp xúc với một người được hai hoặc ba năm. Ngươi đã cố rao giảng Phúc Âm và làm chứng cho Đức Chúa Trời nhiều lần với họ, nhưng họ không có ý định chấp nhận điều đó. Tuy thế, họ hoàn toàn có thể hiểu được và thực sự là một đối tượng Phúc Âm. Ngươi phải làm gì? Trước hết, ngươi không được bỏ cuộc với họ, mà phải duy trì cách xử sự bình thường với họ, tiếp tục đọc lời Đức Chúa Trời với họ và làm chứng cho công tác của Ngài. Đừng bỏ cuộc với họ; hãy kiên nhẫn cho tới cùng. Một ngày nào đó, họ sẽ thức tỉnh và cảm thấy đã đến lúc tìm hiểu con đường thật. Đây là lý do tại sao việc thực hành tính kiên nhẫn và kiên trì cho đến cùng rất quan trọng trong việc rao giảng Phúc Âm. Và tại sao lại làm việc này? Bởi vì đây là bổn phận của một loài thọ tạo. Vì ngươi tiếp xúc với họ nên ngươi có nghĩa vụ và trách nhiệm rao giảng Phúc Âm của Đức Chúa Trời cho họ. Từ lần đầu tiên họ nghe được những lời Đức Chúa Trời và Phúc Âm cho đến khi họ xoay chuyển, nhiều quá trình sẽ can thiệp vào và việc này cần có thời gian. Giai đoạn này cần sự kiên nhẫn và chờ đợi, cho tới ngày họ xoay chuyển và ngươi đưa họ đến trước Đức Chúa Trời, trở về gia đình của Ngài. Đây là nghĩa vụ của ngươi. Nghĩa vụ là gì? Đây là trách nhiệm không thể trốn trách, là bổn phận phải làm của một người. Nó giống như việc người mẹ đối xử với đứa con của mình. Dù đứa trẻ có không vâng lời hay nghịch ngợm đến mức nào, hay ốm đau bỏ ăn, thì nghĩa vụ của người mẹ là gì? Biết ngươi là con, bà ấy sẽ chiều chuộng ngươi, yêu thương ngươi và chăm lo cho ngươi. Dù ngươi có thừa nhận bà ấy là mẹ mình hay không thì cũng không có khác biệt gì cả, và cho dù ngươi có đối xử với bà ấy như thế nào cũng không quan trọng – bà ấy cũng vẫn sẽ ở bên ngươi, không rời một giây phút nào, cho đến khi ngươi tin bà ấy là mẹ mình và trở về vòng tay của bà. Theo cách này, bà thường xuyên dõi theo ngươi và chăm lo cho ngươi. Trách nhiệm nghĩa là như vậy; bổn phận phải làm nghĩa là như vậy. Nếu những người tham gia rao truyền Phúc Âm thực hành theo cách này, với kiểu tình yêu thương như vậy dành cho mọi người, thì họ sẽ tuân giữ các nguyên tắc của việc rao truyền Phúc Âm, và hoàn toàn có khả năng đạt được kết quả(Truyền bá Phúc Âm là bổn phận mà mọi tín đồ đều phải thực hiện, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng, tôi cảm thấy xấu hổ và tan nát cõi lòng. Đức Chúa Trời đã nói rất rõ trách nhiệm mà những người làm công tác Phúc Âm phải thực hiện. Hoàn cảnh của những người tiếp nhận Phúc Âm tiềm năng đều khác nhau và cần được đối xử khác nhau. Ta không thể dựa vào quan niệm, sự tưởng tượng hay định kiến của mình để xa lánh và phân định họ, càng không thể hấp tấp từ bỏ họ. Nếu xác định họ là một người tiếp nhận Phúc Âm tiềm năng, thì ta phải cố hết sức và dùng mọi cách để làm chứng cho công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt với họ, dẫn họ đến trước Đức Chúa Trời. Đây là nguyên tắc mà một người nên biết khi rao giảng Phúc Âm. Tuy nhiên, chỉ mới không liên lạc được với anh Raphael trong một thời gian ngắn, mà tôi đã mất kiên nhẫn và lòng trắc ẩn. Tôi đã trải qua khoảng thời gian khó khăn và không muốn tiếp tục cố thông công với anh ấy, và với việc anh ấy phớt lờ chúng tôi, không trả lời điện thoại và không đọc tin nhắn, tôi cảm thấy mình có thể làm gì được nữa chứ? Tôi đã thông công những gì mình phải nói, nhưng Raphael vẫn không tiếp nhận con đường thật, và tôi không thể cố gắng thêm nữa, vì vậy tôi đã tạm gạt anh ấy sang một bên. Nhưng tôi cảm thấy rất khó chịu. Tôi cứ nghĩ rằng người anh em này có đức tin chân chính, có tố chất và khả năng hiểu biết tốt, nhưng anh ấy đã bị mắc kẹt bởi những quan niệm tôn giáo vì bị mục sư quấy phá và xúi bẩy. Tôi phải giúp anh ấy trong thời khắc quan trọng này, tôi không thể chỉ đứng trơ mắt nhìn được. Nếu không, tôi sẽ không hoàn thành trách nhiệm của một người làm công tác Phúc Âm. Vì vậy, tôi đã gửi cho anh ấy một bài chứng ngôn, hy vọng sẽ giúp được anh ấy. Bất kể anh ấy có đọc nó hay không, tôi cũng phải làm mọi thứ có thể.

Vài ngày sau, anh ấy đã gửi cho tôi một tin nhắn, nói rằng: “Tôi đã cầu nguyện trong suốt thời gian qua. Dù không nói gì, nhưng tôi biết Đức Chúa Trời tìm kiếm lòng chúng ta. Lòng tôi đã kêu cầu Đức Chúa Trời Toàn Năng khai sáng và dẫn dắt, để tôi không phạm tội và xúc phạm Đức Chúa Trời”. Tôi đã rất xúc động, và trong tin nhắn trả lời, tôi thấy anh ấy nói: “Thế giới này quá bại hoại và xấu xa. Con người khó mà đến gần được Đức Chúa Trời. Vũ khí duy nhất chống lại cái ác là lời Đức Chúa Trời Toàn Năng và Kinh Thánh”. Anh ấy đã thừa nhận lời Đức Chúa Trời Toàn Năng, điều này chứng tỏ anh ấy có thể hiểu được tiếng của Đức Chúa Trời và có cơ hội để đưa anh ấy trở về. Nhưng tôi biết anh đang trải qua cuộc đấu tranh nội tâm khốc liệt, và lo rằng bất cứ lúc nào anh ấy cũng có thể không đọc tin nhắn của tôi. Tôi đã rất lo lắng, vì vậy tôi đã bình tâm cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Trong khi cầu nguyện, tôi nhớ ra câu này của Đức Chúa Trời: “Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ bỏ rơi họ một cách dễ dàng, hoặc cho đến khi còn có thể”. Tôi đã nhanh chóng tìm đoạn lời này của Đức Chúa Trời để đọc. “Phân đoạn sau đây được chép trong sách Giô-na 4:10-11: ‘Ðức Giê-hô-va lại phán: Ngươi đoái tiếc một dây mà ngươi chưa hề khó nhọc vì nó, ngươi không làm cho nó mọc, một đêm thấy nó sanh ra và một đêm thấy nó chết. Còn ta, há không đoái tiếc thành lớn Ni-ni-ve, trong đó có hơn mười hai vạn người không biết phân biệt tay hữu và tay tả, lại với một số thú vật rất nhiều hay sao?’ Đây chính là những lời có thật của Giê-hô-va Đức Chúa Trời, được ghi lại từ cuộc đối thoại giữa Ngài và Giô-na. Mặc dù cuộc trao đổi này chỉ diễn ra một cách ngắn gọn, nhưng nó lại chứa đựng vô vàn sự quan tâm của Đấng Tạo Hóa dành cho nhân loại và sự miễn cưỡng của Ngài khi phải từ bỏ loài người(Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất II, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). “Mặc dù Giô-na được Giê-hô-va Đức Chúa Trời sai đi công bố lời của Ngài cho dân chúng thành Ni-ni-ve, nhưng ông không hiểu ý định của Giê-hô-va Đức Chúa Trời, và cũng không hiểu sự lo lắng và mong đợi của Ngài đối với dân chúng trong thành. Với lời quở trách này, Đức Chúa Trời muốn nói cho ông rằng con người là tạo vật do chính tay Ngài tạo ra; và rằng Ngài đã bỏ ra công sức khó nhọc cho mỗi một con người; rằng mỗi một người đều mang trên mình kỳ vọng của Đức Chúa Trời; và rằng mỗi một con người đều tận hưởng sự sống ban cho từ Đức Chúa Trời; và với mỗi một con người, Đức Chúa Trời đều đã phải trả một cái giá khó nhọc. Lời quở trách này cũng nói với Giô-na rằng Đức Chúa Trời yêu thương loài người, tạo vật do Ngài tạo ra, nhiều như thể Giô-na nâng niu cây thầu dầu. Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ bỏ rơi họ một cách dễ dàng, hoặc cho đến khi còn có thể(Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất II, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Đọc lời Đức Chúa Trời, tôi đã rất xúc động, nên tôi nói với Raphael: “Người anh em, anh là người biết suy nghĩ và có thể hiểu được tiếng Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã nhập thể trong thời kỳ sau rốt và đã bày tỏ hàng triệu lời về lẽ thật để cung cấp cho chúng ta, cứu rỗi chúng ta khỏi sự ràng buộc của tội lỗi, và đưa chúng ta vào vương quốc của Ngài. Tôi hy vọng anh có thể xem xét kỹ vấn đề này, vì nó liên quan đến vận mệnh và kết cục của chúng ta. Tôi sẽ cầu nguyện cho anh. Cầu cho Đức Chúa Trời khai mở lòng anh và cho phép anh sớm trở lại nhà của Ngài”. Sau đó, tôi đã gửi cho anh ấy đọc ba đoạn lời Đức Chúa Trời và chờ anh ấy trả lời. Trong số đó, có một đoạn lời Đức Chúa Trời đã khiến anh ấy phải suy nghĩ, và đưa anh ấy đến một bước ngoặc.

Lời Đức Chúa Trời phán: “Sự tái lâm của Jêsus là sự cứu rỗi vĩ đại cho những người có khả năng chấp nhận lẽ thật, nhưng với những người không thể chấp nhận lẽ thật, đó là dấu hiệu của sự đoán phạt. Các ngươi nên chọn con đường của riêng mình, và không nên báng bổ Đức Thánh Linh và bác bỏ lẽ thật. Các ngươi không nên là kẻ ngốc nghếch và kiêu ngạo, mà hãy là người vâng phục sự chỉ dẫn của Đức Thánh Linh và mong mỏi, tìm kiếm lẽ thật; chỉ có cách này các ngươi mới được lợi. Ta khuyên các ngươi nên bước đi trên con đường tin tưởng vào Đức Chúa Trời một cách cẩn trọng. Đừng vội kết luận; và hơn thế nữa, đừng quá hờ hững và khinh suất trong niềm tin của các ngươi vào Đức Chúa Trời. Các ngươi cần biết rằng, ít nhất, những người tin vào Đức Chúa Trời cần khiêm nhường và tôn kính. Những người đã nghe về lẽ thật mà vẫn hếch mũi kiêu ngạo là những kẻ dại dột và ngốc nghếch. Những người đã nghe về lẽ thật mà vẫn bất cẩn kết luận hay chỉ trích nó là những kẻ đầy lòng kiêu ngạo. Không ai tin vào Jêsus lại có tư cách rủa sả hay lên án những người khác. Tất cả các ngươi đều cần phải trở thành người có ý thức và người chấp nhận lẽ thật. Có lẽ, khi đã nghe về con đường của lẽ thật và đã đọc về lời của sự sống, ngươi tin rằng chỉ có một trong số 10.000 lời này là nhất quán với những niềm tin của ngươi và Kinh Thánh, vậy thì ngươi nên tiếp tục tìm kiếm trong số 10.000 lời này đi. Ta vẫn khuyên ngươi nên khiêm nhường, không nên quá tự tin, và không nên tâng bốc bản thân mình quá cao. Với tấm lòng chứa đựng sự tôn kính Đức Chúa Trời đơn sơ như vậy, ngươi sẽ có được sự sáng vĩ đại hơn. Nếu ngươi cẩn thận xem xét và liên tục suy ngẫm những lời này, ngươi sẽ hiểu chúng có phải là lẽ thật hay không, và chúng có phải là sự sống hay không. Có lẽ, khi chỉ mới đọc vài câu, một số người sẽ mù quáng chỉ trích những lời này, cho rằng: ‘Điều này chẳng có gì ngoài một chút khai sáng của Đức Thánh Linh’, hoặc: ‘Đây là Christ giả đến để lừa gạt con người’. Những người nói những điều như vậy thật là bị sự ngu ngốc làm cho mù quáng! Ngươi hiểu quá ít về công việc và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời, và Ta khuyên ngươi nên bắt đầu lại từ đầu! Các ngươi không được mù quáng chỉ trích những lời Đức Chúa Trời bày tỏ vì sự xuất hiện của các Christ giả trong thời kỳ sau rốt, và ngươi không được trở thành người báng bổ Đức Thánh Linh vì các ngươi sợ bị lừa dối. Đó chẳng phải là một điều rất đáng tiếc sao? Nếu, sau khi đã xem xét kỹ càng, ngươi vẫn tin rằng những lời này không phải là lẽ thật, không phải là con đường, và không phải là sự bày tỏ của Đức Chúa Trời, thì cuối cùng ngươi sẽ bị trừng phạt, và ngươi sẽ không được phước lành. Nếu ngươi không thể chấp nhận lẽ thật được phán vô cùng dễ hiểu và rõ ràng như thế, thì chẳng phải ngươi không đủ tư cách nhận được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời hay sao? Chẳng phải ngươi là người không đủ phước để trở lại trước ngai của Đức Chúa Trời sao? Hãy nghĩ về điều đó! Đừng hấp tấp và bồng bột, và đừng xem niềm tin vào Đức Chúa Trời chỉ là trò chơi. Hãy suy nghĩ vì đích đến của ngươi, vì triển vọng của ngươi, vì sự sống của ngươi, và đừng đùa giỡn với bản thân mình. Ngươi có thể chấp nhận những lời này không?(Khi ngươi thấy được thân thể thuộc linh của Jêsus, Đức Chúa Trời đã làm mới lại trời đất, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Bữa đó, Raphael đã đọc đoạn lời này của Đức Chúa Trời và đã gửi cho tôi một tin nhắn dài về cảm giác và hiểu biết của mình. Tôi biết anh ấy đang băn khoăn và lo rằng mình sẽ đi sai đường, và anh ấy sợ tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng nghĩa là đi theo một giáo phái khác và phản bội Jêsus. Tôi đã tìm được một đoạn lời Đức Chúa Trời để gửi cho anh ấy, và thông công rằng: “Hội thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng không thuộc bất kỳ nhóm tôn giáo nào. Nó ra đời vì sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Jêsus tái lâm, chứ không phải vì ai đó đã sáng lập một giáo phái mới. Đức Chúa Trời Toàn Năng bày tỏ lẽ thật để thực hiện công tác phán xét, mở ra Thơi đại Vương quốc và kết thúc Thời đại Ân điển. Ngoài Đức Chúa Trời nhập thể, không lãnh đạo hay danh nhân, vĩ nhân nào trên thế giới có thể bày tỏ lẽ thật, dẫn dắt và cứu rỗi nhân loại. Không một ai cả! Dù công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng khác với của Jêsus và Giê-hô-va, nhưng thực chất các Đấng đều là Đức Chúa Trời. Giê-hô-va, Jêsus, và Đức Chúa Trời Toàn Năng chỉ là những danh xưng khác nhau được Đức Chúa Trời dùng trong các thời đại khác nhau. Nhưng dù danh xưng hay công tác của Đức Chúa Trời thay đổi, thì thực chất của Ngài vẫn không thay đổi. Đức Chúa Trời vẫn mãi là Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời phán: ‘Công tác Jêsus đã làm đại diện cho danh Jêsus, và nó đại diện cho Thời đại Ân điển; còn công tác được thực hiện bởi Đức Giê-hô-va thì đại diện cho Đức Giê-hô-va, và đại diện cho Thời đại Luật pháp. Công tác của Họ là công tác của một Thần trong hai thời đại khác nhau. … Mặc dù Họ đã được gọi bằng hai danh xưng khác nhau, nhưng đó là cùng một Thần hoàn tất cả hai giai đoạn công tác, và công tác được thực hiện là liên tục. Vì danh xưng khác nhau và nội dung của công tác khác nhau, nên thời đại cũng khác nhau. Khi Đức Giê-hô-va đến, đó là thời đại của Đức Giê-hô-va, và khi Jêsus đến, đó là thời đại của Jêsus. Và như vậy, với mỗi lần đến, Đức Chúa Trời đều được gọi bằng một danh xưng, Ngài đại diện cho một thời đại, và Ngài khai mở một con đường mới; và trên mỗi con đường mới, Ngài mang một danh mới, điều cho thấy Đức Chúa Trời luôn mới và không bao giờ cũ và công tác của Ngài không bao giờ ngừng tiến triển về phía trước. Lịch sử luôn tiến về phía trước, và công tác của Đức Chúa Trời luôn tiến về phía trước. Để kế hoạch quản lý sáu nghìn năm của Ngài đi đến hồi kết, nó phải tiếp tục tiến triển về phía trước. Mỗi ngày Ngài phải làm công tác mới, mỗi năm Ngài phải làm công tác mới; Ngài phải mở ra những con đường mới, khai mở những thời đại mới, bắt đầu công tác mới và vĩ đại hơn, và cùng với đó, mang những danh mới và công tác mới. … Từ công tác của Đức Giê-hô-va đến công tác của Jêsus, và từ công tác của Jêsus đến giai đoạn hiện tại này, ba giai đoạn này bao trùm trong một chuỗi liên tục toàn bộ sự quản lý của Đức Chúa Trời, và tất cả đều là công tác của một Thần. Kể từ khi sáng thế, Đức Chúa Trời đã luôn làm công tác quản lý loài người. Ngài là Khởi đầu và Kết thúc, Ngài là Đầu tiên và Cuối cùng, Ngài là Đấng mở đầu một thời đại và là Đấng kết thúc thời đại. Ba giai đoạn công tác, trong các thời đại khác nhau và các địa điểm khác nhau, rõ ràng là công tác của một Thần. Tất cả những ai phân tách ba giai đoạn này đều chống lại Đức Chúa Trời. Giờ đây, các ngươi phải hiểu rằng mọi công tác từ giai đoạn đầu tiên cho đến ngày nay đều là công tác của một Đức Chúa Trời, công tác của một Thần. Điều này là chắc chắn(Khải tượng về công tác của Đức Chúa Trời (3), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời Toàn Năng rất rõ ràng. Công tác cứu rỗi nhân loại của Đức Chúa Trời được chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên là công tác của Thời đại Luật pháp, trong đó Giê-hô-va đã ban hành luật pháp để con người biết tội lỗi. Thời đại thứ hai là công tác cứu chuộc trong Thời đại Ân điển, và đây là lần đầu tiên Đức Chúa Trời nhập thể để làm của lễ chuộc tội cho loài người. Giai đoạn thứ ba của công tác là công tác phán xét trong thời kỳ sau rốt như đã được tiên tri trong sách Khải huyền. Ba giai đoạn công tác này là kế hoạch quản lý hoàn chỉnh của Đức Chúa Trời để cứu rỗi nhân loại. Đức Chúa Trời thực hiện các công tác khác nhau trong mỗi giai đoạn, nhưng công tác gồm cả ba giai đoạn đều được thực hiện bởi một Đức Chúa Trời duy nhất. Tôi sẽ lấy một ví dụ đơn giản. Công tác quản lý của Đức Chúa Trời có thể được so sánh với việc xây một ngôi nhà. Thời đại Luật pháp đại diện cho móng của căn nhà, và nếu không có móng, thì không thể xây nhà được. Thời đại Ân điển đại diện cho cấu trúc của ngôi nhà, nếu không có cấu trúc, căn nhà không thể thành hình. Thời đại Vương quốc giống như mái nhà. Nếu không có bước cuối cùng này căn nhà vẫn chưa hoàn thiện và không thể tránh được gió mưa, do đó, mỗi bước đều không thể thiếu. Chúng ta tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng không có nghĩa là chúng ta đã từ bỏ Đức Chúa Jêsus, càng không phải là tin vào một Đức Chúa Trời khác. Chúng ta chỉ đang theo kịp bước chân của Chiên con. Hiện tại có một số tôn giáo lớn trên thế giới và những người tin vào Đức Chúa Trời đã chia thành hơn hai ngàn giáo phái. Bất kể giáo phái cũ của họ là gì, ngày càng nhiều anh chị em có đức tin chân thành và khao khát sự xuất hiện của Đức Chúa Trời đã đến tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng trong thời kỳ sau rốt, và đã đến tiếp nhận sự chăm tưới và nuôi dưỡng của lời Ngài. Sự thật này rõ như ban ngày. Điều này cũng ứng nghiệm lời tiên tri trong Kinh Thánh: ‘Để làm sự định trước đó trong khi kỳ mãn, hội hiệp muôn vật lại trong Ðấng Christ, cả vật ở trên trời và vật ở dưới đất’ (Ê-phê-sô 1:10). ‘Sẽ xảy ra trong những ngày sau rốt, núi của nhà Ðức Giê-hô-va sẽ được lập vững trên đỉnh các núi, cao hơn các đồi. Mọi nước sẽ đổ về đó(I-sai-a 2:2)”. Sau khi thấy những gì tôi viết, anh ấy đã gửi cho tôi một biểu tượng cảm xúc cầu nguyện và nói: “Chị nói đúng, Đức Chúa Trời Toàn Năng là Đức Chúa Trời thật duy nhất, chúng ta đều ở dưới danh Đức Chúa Trời Toàn Năng. Đức Chúa Trời kêu gọi tôi. Ngài biết lòng tôi, sự lo lắng và sợ hãi của tôi”. Sau đó, tôi đã gửi cho anh ấy một vài bộ phim Phúc Âm và một số lời Đức Chúa Trời. Tôi cũng cầu nguyện với Đức Chúa Trời, nói rằng, cuối cùng dù anh ấy có đến họp hay không, tôi cũng phải làm hết sức mình, học cách chờ đợi, tìm kiếm và vâng phục.

Bốn ngày sau, tôi đã nhận được một tin nhắn bất ngờ từ anh ấy, anh hỏi rằng liệu anh có thể tiếp tục dự họp không. Anh ấy cũng nói rằng lời Đức Chúa Trời Toàn Năng rất quý giá đối với anh và rằng anh không thể sống thiếu lời Ngài. Từ lời Đức Chúa Trời, anh ấy đã hiểu được nhiều lẽ thật và lẽ nhiệm mầu của Kinh Thánh. Lời Đức Chúa Trời đã thu hút anh. Lúc đó, tôi đã xúc động phát khóc. Tôi thực sự cảm tạ Đức Chúa Trời! Anh ấy nói mình đã đọc những lời Đức Chúa Trời mà tôi đã gửi, và những câu hỏi chúng đặt ra khiến anh cảm thấy rất mâu thuẫn. Anh cũng nói: “Tôi không thể bất cẩn trong đức tin hay xem nó như một trò chơi được, vì vậy tôi quyết định tiếp tục tìm hiểu. Sự tái lâm của Chúa rất quan trọng đối với tôi, tôi không muốn đánh mất cơ hội nghênh tiếp Chúa, và cuối cùng xúc phạm hay từ bỏ Ngài”. Tôi cũng rất phấn khích và tạ ơn Đức Chúa Trời! Tôi nhận ra thẩm quyền và quyên năng của lời Đức Chúa Trời thực sự vĩ đại! Chính lời Đức Chúa Trời đã thay đổi anh ấy và khiến anh ấy quyết định chấp nhận công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng trong thời kỳ sau rốt.

Trải nghiệm này thực sự khiến tôi xúc động và giúp tôi nhận ra dù tôi có gặp phải kểu người tiếp nhận Phúc Âm tiềm năng nào, chỉ cần họ có thể hiểu được tiếng Đức Chúa Trời, thì tôi phải thực hiện bổn phận và nghĩa vụ dẫn họ vào nhà của Đức Chúa Trời. Chỉ có thực hiện bổn phận theo cách này chúng ta mới có thể không thấy mắc nợ và hối tiếc. Tạ ơn Đức Chúa Trời! Mọi vinh quang xin dâng lên Đức Chúa Trời!

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Thức tỉnh sau khi trả được thù

Tôi từng làm lãnh đạo một hội thánh nọ được một thời gian. Chị Trương, chấp sự Phúc Âm, có mang gánh nặng trong bổn phận và rất chủ động...

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger