Sau khi vợ tôi tạ thế

03/07/2024

Mùa thu năm 2007, hai vợ chồng tôi lần lượt tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời vào thời kỳ sau rốt. Thông qua việc đọc lời Đức Chúa Trời, tôi tin chắc Đức Chúa Trời Toàn Năng chính là Đức Chúa Trời thật đã nhập thể để cứu rỗi nhân loại khỏi thảm họa. Chúng tôi đã già mà vẫn có cơ hội tiếp nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, đây quả là phước lành lớn lao, là cơ hội cả đời có một và không thể nào bỏ lỡ. Sau khi tiếp nhận, tôi và vợ nhanh chóng thực hiện bổn phận. Tôi rao giảng phúc âm và chăm tưới những người mới, còn vợ tôi phụ trách tiếp đãi tại nhà, mỗi ngày trôi qua đều vô cùng hạnh phúc. Chỉ sau một thời gian, bệnh dạ dày, viêm phế quản và vài căn bệnh khác của vợ tôi đã bất ngờ tự khỏi. Đức Chúa Trời đã ban ân điển và phước lành cho chúng tôi. Đức tin của chúng tôi càng thêm vững chắc và tôi càng có động lực rao giảng phúc âm. Năm 2012, khi đang rao giảng phúc âm, tôi bị bắt và đưa đến đồn cảnh sát thị trấn. Sau khi được thả, thỉnh thoảng tôi vẫn bị cảnh sát quấy rối vì đức tin. Họ còn dọa rằng nếu chúng tôi tiếp tục tin thì tiền đồ của con cháu chúng tôi cũng sẽ bị ảnh hưởng. Con dâu tôi tin vào những lời dối trá của Trung Cộng nên đuổi chúng tôi ra khỏi nhà ngay trong dịp Tết Nguyên đán. Không còn nơi nào để đi, chúng tôi cảm thấy đau khổ và yếu đuối. Lúc đó, hai vợ chồng tôi đã an ủi, động viên nhau rằng: “Đây là sự tinh luyện của Đức Chúa Trời, là khổ đau mà chúng ta phải chịu. Chúng ta không được nản lòng. Chúng ta thiếu gì cũng được, nhưng tuyệt đối không thể thiếu Đức Chúa Trời”. Sau đó, chúng tôi trú tạm trong một ngôi nhà hoang và thực hiện bổn phận tiếp đãi, sống ở đó 8 năm trời. Dù nhà cửa tồi tàn, nhưng nhờ đức tin và ăn uống lời Đức Chúa Trời nên chúng tôi không bao giờ than vãn, trong lòng luôn cảm thấy tự do.

Đến tháng 9 năm 2022, chứng đau thắt ngực lâu năm của vợ tôi bắt đầu trở nặng, một ngày lên cơn mấy lần, tần suất cơn đau cũng ngày càng dày đặc. Trong các buổi hội họp, bà ấy thậm chí không thể quỳ xuống để cầu nguyện. Đôi khi đang rửa mặt thì cơn đau bất thình lình kéo đến. Có lúc đau quá, bà ấy phải đứng yên một lúc lâu, đợi cơn đau dịu đi mới rửa mặt tiếp. Chứng kiến bệnh tình của vợ ngày càng trầm trọng, lòng tôi luôn cảm thấy bồn chồn, lo lắng, nhưng khi nghĩ rằng chúng tôi tin Đức Chúa Trời và được Ngài bảo vệ, chăm sóc, Ngài là toàn năng, có thể khiến người chết sống lại và không có gì mà Ngài không làm được, vợ tôi từng mắc nhiều bệnh tật, nhưng sau khi có đức tin thì liền khỏe lại, vậy thì căn bệnh này có là gì? Thế nên tôi không nghĩ ngợi nhiều nữa, và an ủi vợ rằng: “Đừng sợ, chúng ta có Đức Chúa Trời, Ngài sẽ bảo vệ chúng ta”. Sau đó, tôi nhận ra cơn đau của vợ ngày càng trầm trọng, việc tăng liều thuốc cũng chẳng giúp ích được gì. Tôi nghĩ Đức Chúa Trời công tác rất thực tế và bảo vệ con người, nhưng con người cũng phải phối hợp một cách thực tế, vậy nên tôi nhanh chóng đưa vợ đến bệnh viện. Xét nghiệm cho thấy gan, thận và phổi của bà ấy đều bị tổn thương. Bác sĩ lập tức đưa vợ tôi đến phòng chăm sóc đặc biệt, nói rằng tính mạng bà ấy đang gặp nguy hiểm, tôi nên ký giấy báo bệnh hiểm nghèo. Nhìn thấy tờ giấy báo bệnh hiểm nghèo, tôi thình lình thấy choáng váng và gần như ngã quỵ, không thể chấp nhận nổi sự thật nghiệt ngã này. Trong lòng tôi vẫn không dám tin: “Làm sao có thể như vậy được chứ? Chuyện này không thể xảy ra được, vợ chồng mình tin Đức Chúa Trời, có Ngài bảo vệ mà!”. Tôi cầu xin bác sĩ, xin ông cho dù làm cách nào cũng phải chữa lành bệnh cho vợ tôi, có thuốc gì tốt thì cứ dùng. Bác sĩ nói chính ông cũng không dám chắc. Những lời của bác sĩ càng làm tôi đau khổ hơn, tôi thầm nghĩ: “Không nhờ được bác sĩ, thì mình phải cậy dựa Đức Chúa Trời”. Khi trở lại phòng bệnh, tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời! Bệnh tình của vợ con rất nguy kịch, bác sĩ cũng không có cách cứu chữa, con xin giao phó bà ấy cho Ngài. Ngài là vị bác sĩ toàn năng, thậm chí có thể khiến người chết sống lại. Đối với Ngài không gì là không thể. Dù vợ con không hết bệnh, con cũng sẽ không trách Ngài”. Dù biết Đức Chúa Trời không thực hiện công tác siêu nhiên, nhưng tôi không khỏi nghĩ về lời chứng trải nghiệm của một số anh chị em. Lúc đầu họ bị bệnh nặng, nhưng sau khi cậy dựa vào Đức Chúa Trời thì lại khỏi bệnh một cách thần kỳ. Trong thâm tâm, tôi vẫn mong một phép màu sẽ xảy đến với vợ tôi và bệnh tình của bà ấy sẽ thuyên giảm. Nhưng không ngờ, đến sáng ngày thứ ba, bà ấy thậm chí không nói chuyện được, mắt cũng không thể mở ra. Thấy bệnh tình của vợ chẳng những không hề thuyên giảm mà còn ngày càng trầm trọng, tôi cảm thấy đau đớn vô cùng, trong lòng liên tục kêu cầu Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời! Bệnh tình của vợ con ngày càng trầm trọng. Bà ấy thật lòng tin Ngài và đã theo Ngài hơn mười năm, vì đức tin mà chịu biết bao nhiêu khổ đau, bách hại, nên xin Ngài hãy ban phép màu để vợ con khỏi bệnh. Nếu Ngài chữa khỏi bệnh cho bà ấy, thì sau này lời rao giảng và chứng ngôn của chúng con sẽ càng thuyết phục hơn”. Nhưng thật không ngờ, đến ngày thứ tư, vợ tôi đã tắt thở. Tôi hoàn toàn tuyệt vọng, không cách nào diễn tả được nỗi đau trong lòng; nước mắt tôi tuôn rơi, không khỏi buông lời trách móc Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, vợ con dù gì cũng tin Ngài, vì theo Ngài mà chịu nhiều khổ ải, nhưng dù bệnh nặng cách mấy cũng chưa từng trách móc Ngài. Tại sao Ngài không bảo vệ cho vợ con? Giờ bà ấy đã ra đi, chỉ còn lại con cô đơn lẻ bóng, không biết nương tựa vào ai. Con biết sống tiếp thế nào đây? Chẳng lẽ dù tin Đức Chúa Trời hay không, chúng con đều sẽ phải chết? Con cũng ngày một già đi, sớm muộn cũng đến ngày tạ thế. Tin Đức Chúa Trời thì có hy vọng gì chứ?”. Sau đó, tôi xem như mình hết hy vọng, không muốn đọc lời Đức Chúa Trời nữa, lúc cầu nguyện cũng chỉ lẩm nhẩm vài câu, không có gì nhiều để nói. Mỗi lần nhớ lại cảnh hai vợ chồng nương tựa lẫn nhau, đồng cam cộng khổ, cùng ăn uống lời Đức Chúa Trời, thông công, khích lệ và an ủi cho nhau khi đối đầu với nghịch cảnh, tôi không thể ngăn hai dòng lệ chảy dài trên má. Thường ngày, vợ tôi luôn là người quan tâm, chăm sóc tôi. Bây giờ bà ấy đi rồi, không còn ai bên cạnh chăm lo cho tôi nữa, làm việc gì cũng gặp khó khăn, cảm thấy cô đơn, hiu quạnh, cuộc sống vô cùng đau khổ: “Sống thế này có ý nghĩa gì? Chi bằng mình chết cho xong!”. Những ngày đó, tôi sống trong đau đớn, khổ sở, ăn không được ngon, ngủ không được yên, cứ như có một hòn đá đang đè nặng trong tim. Sức khỏe của tôi ngày một sa sút, huyết áp tăng cao, nhịp tim lại thấp, nên được đưa vào bệnh viện. Nhận ra nếu cứ tiếp tục như thế này thì sẽ rất nguy hiểm, nên tôi bèn cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời! Sau khi vợ mất, con cứ mãi chật vật và cô đơn, không còn động lực để tiếp tục sống, thậm chí muốn chết cho xong. Con biết những suy nghĩ đó không phù hợp với ý muốn của Ngài, nhưng con vẫn không thể chống lại bản thân. Xin Ngài cho con đức tin để con đứng vững và không gục ngã trước thử luyện này”.

Một buổi tối khi đang chuẩn bị đi ngủ, lời Đức Chúa Trời đột ngột hiện lên trong tâm trí tôi: “Bản chất tình yêu ngươi dành cho Đức Chúa Trời là gì? Nếu ngươi yêu Ta, ngươi sẽ không phản bội Ta”. Nhận ra đây là sự khai sáng và dẫn dắt của Ngài, tôi nhanh chóng tra cứu và đọc lời Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Như Ta đã nói, những kẻ theo Ta thì nhiều nhưng những người thật sự yêu thương Ta thì ít. Có lẽ một số người có thể nói rằng: ‘Nếu không yêu thương Ngài thì con có trả cái giá đắt như thế này không? Nếu không yêu thương Ngài thì con có đi theo đến thời điểm này không?’ Tất nhiên là ngươi có nhiều lý lẽ, và tình yêu thương của ngươi tất nhiên là rất lớn, nhưng thực chất tình yêu thương mà ngươi dành cho Ta là gì? ‘Tình yêu’, như tên gọi của nó, chỉ một tình cảm yêu mến thuần khiết không tì vết, trong đó ngươi dùng tấm lòng mà yêu thương, cảm nhận và quan tâm. Trong ‘tình yêu’ không có điều kiện, không có ngăn cách, và không có khoảng cách. Trong ‘tình yêu’ không có hoài nghi, không có lừa dối, và không có xảo trá. Trong tình yêu không có giao dịch và không có bất kỳ thứ hỗn tạp gì. Nếu ngươi yêu thương, thì ngươi sẽ không giả dối, không ca thán, không phản bội, không dấy loạn, không đòi hỏi, hay mưu cầu được cái gì hay được bao nhiêu. Nếu ngươi yêu thương, thì ngươi sẽ vui vẻ dâng hiến, sẽ vui vẻ chịu đựng gian khổ, ngươi sẽ tương hợp với Ta, ngươi sẽ từ bỏ tất cả những gì ngươi có vì Ta, ngươi sẽ từ bỏ gia đình ngươi, tương lai ngươi, tuổi trẻ của ngươi, và cuộc hôn nhân của ngươi. Nếu không, tình yêu của ngươi sẽ không hề là tình yêu, mà là sự giả dối và phản bội! Tình yêu của ngươi là thứ tình yêu gì? Đó là tình yêu thật? Hay giả? Ngươi đã từ bỏ bao nhiêu rồi? Ngươi đã dâng hiến bao nhiêu rồi? Bao nhiêu yêu thương Ta đã nhận được từ ngươi? Ngươi có biết không? Lòng các ngươi chứa đầy những điều xấu xa, phản bội, và giả dối – và như vậy thì bao nhiêu phần trong tình yêu của các ngươi là ô uế? Các ngươi nghĩ rằng mình đã từ bỏ đủ vì Ta; các ngươi nghĩ rằng tình yêu của các ngươi dành cho Ta đã đủ rồi. Nhưng sao lời nói và hành động của các ngươi luôn phản nghịch và giả dối? Các ngươi theo Ta, nhưng không thừa nhận lời Ta. Như thế có được coi là tình yêu không? Các ngươi theo Ta, nhưng rồi lại gạt bỏ Ta. Như thế có được coi là tình yêu không? Các ngươi theo Ta, nhưng hồ nghi về Ta. Như thế có được coi là tình yêu không? Các ngươi theo Ta, nhưng không thể chấp nhận sự hiện hữu của Ta. Như thế có được coi là tình yêu không? Các ngươi theo Ta, nhưng không đối đãi với Ta tương xứng với thân phận của Ta, và gây khó khăn cho Ta mọi lúc. Như thế có được coi là tình yêu không? Các ngươi theo Ta, nhưng cố lừa phỉnh Ta và dối gạt Ta trong mọi chuyện. Như thế có được coi là tình yêu không? Các ngươi phụng sự Ta, nhưng không sợ Ta. Như thế có được coi là tình yêu không? Các ngươi chống đối Ta trên mọi phương diện và trong mọi sự. Như thế có được coi là tình yêu không? Đúng là các ngươi đã hiến dâng nhiều, nhưng các ngươi chưa bao giờ thực hành những điều Ta yêu cầu ở các ngươi. Như thế có thể gọi là tình yêu không? Tính kỹ ra thì chẳng có lấy một mẩu yêu thương nào bên trong các ngươi dành cho Ta cả. Sau chừng ấy năm công tác và chừng ấy lời Ta đã cung cấp, các ngươi đã thực sự đạt được bao nhiêu? Điều này không đáng để nhìn kỹ lại sao? Ta răn dạy các ngươi: Những người Ta gọi đến với Ta không phải là những người chưa bao giờ bị làm bại hoại, đúng hơn, những người Ta chọn là những người thực sự yêu thương Ta. Vì thế, các ngươi phải biết thận trọng trong những lời nói và hành động của mình, xem xét những ý định và suy nghĩ của mình để chúng không đi quá giới hạn. Tại thời điểm của thời kỳ sau rốt, hãy làm hết sức để dâng tình yêu thương của các ngươi lên trước Ta, kẻo cơn thịnh nộ của Ta sẽ không bao giờ rời các ngươi!(Nhiều kẻ được gọi, nhưng ít người được chọn, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Từng câu hỏi của Đức Chúa Trời như đang phán xét tấm lòng tôi, khiến tôi cảm thấy xấu hổ, không nói nên lời. Đọc xong lời Ngài, tôi không cầm được những giọt nước mắt hối hận. Đức Chúa Trời yêu cầu ở tôi rất nhiều thứ, nhưng tôi đã không thực hiện được điều nào. Tình yêu tôi dành cho Ngài không phải tình yêu đích thực, mà là tình yêu giả dối, uế tạp và mang tính giao dịch. Vậy mà tôi vẫn nghĩ mình yêu Đức Chúa Trời, tôi thực sự không hiểu biết chút gì về bản thân! Khi gặp khó khăn, bệnh tật và được Đức Chúa Trời trông nom, bảo vệ, hoặc khi cảm thấy mình có hy vọng được cứu rỗi và bước vào vương quốc, tôi sẽ tạ ơn Đức Chúa Trời và cảm thấy dồi dào sinh lực. Khi gặp khó khăn và đau đớn, như lúc bị con rồng lớn sắc đỏ bắt giữ, bị con cái bức ép và bỏ rơi, bị người thân, hàng xóm chế giễu và vu khống, tôi đều có thể chịu đựng được. Tôi thà bỏ nhà và lang thang ngoài đường ăn xin còn hơn phản bội Đức Chúa Trời. Tôi nghĩ như vậy nghĩa là mình có tình yêu và sự thuận phục đích thực đối với Đức Chúa Trời, sau cùng có thể được Đức Chúa Trời cứu và sống sót. Nhưng khi gặp nghịch cảnh thực sự, vợ tôi qua đời vì bệnh tật khiến tôi vô cùng đau đớn, tôi bị bỏ lại một mình, cô đơn lẻ bóng và không biết nương tựa vào ai, ước mơ cùng vợ bước vào vương quốc cũng tan thành mây khói, thì tôi liền bị vạch trần hoàn toàn. Tôi không chỉ oán trách Đức Chúa Trời vì đã không bảo vệ vợ tôi, mà còn chất vấn Ngài, muốn dùng cái chết để chống đối Đức Chúa Trời. Tôi hoàn toàn không hề thuận phục. Tôi không có chút tình yêu nào đối với Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã nhập thể hai lần và chịu đủ mọi khổ đau để cứu rỗi nhân loại, bày tỏ lẽ thật, chăm tưới và chăn dắt chúng ta nhiều năm, cũng như trả giá đắt để nhân loại chúng ta có thể hiểu được lẽ thật. Bất kể tôi phản nghịch và chống đối đến đâu, Đức Chúa Trời luôn kiên nhẫn, bao dung, thương xót và cho tôi cơ hội ăn năn hết lần này đến lần khác. Khi gặp nguy hiểm, khó khăn, chúng tôi luôn được Đức Chúa Trời trông nom và bảo vệ. Khi tôi cảm thấy yếu đuối và tiêu cực, lời Đức Chúa Trời đã chu cấp và cung dưỡng tôi, cho tôi sức mạnh, giúp tinh thần tôi mạnh mẽ, từng bước dẫn dắt để tôi có được ngày hôm nay. Tình yêu của Đức Chúa Trời rất thực tế và vô cùng chân thật, không bị uế tạp và vô điều kiện. Nhưng tình yêu tôi dành cho Ngài thì uế tạp và mang tính giao dịch. Tôi luôn thao thao bất tuyệt rằng lời Đức Chúa Trời phải tể trị tối cao trong lòng mình, nhưng khi vợ tôi qua đời, tôi hoàn toàn chỉ biết nghĩ đến bà ấy. Tôi yêu vợ còn nhiều hơn yêu Đức Chúa Trời – Ngài không hề có địa vị trong lòng tôi. Cái gọi là tình yêu của tôi chỉ là một thứ khẩu hiệu, đạo lý. Tôi đã lừa dối và phỉnh gạt Đức Chúa Trời. Những gì không thể chịu được thử thách thì đều là giả! Nhận ra điều này, tôi hối hận vì đã quá phản nghịch và không có lương tâm. Tôi bèn đến cầu nguyện và ăn năn trước Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời! Sau khi đọc được lời Ngài, con cảm thấy mình mắc nợ Ngài. Con theo Ngài đã nhiều năm, Ngài đã chăm tưới, chăn dắt, chu cấp và cung dưỡng con, trả một cái giá quá đắt. Tình yêu Ngài dành cho con là chân thật, nhưng tình yêu con dành cho Ngài chỉ là một khẩu hiệu, một câu từ, tất cả đều là giả dối, phỉnh gạt. Con không xứng đáng được đến trước Ngài. Con không muốn làm Ngài đau lòng nữa. Bất kể sau này gặp phải khó khăn hay hoàn cảnh nào, dù gian nan đến đâu, con cũng sẽ không oán trách Ngài, mà sẵn sàng thuận phục sự an bài và sắp xếp của Ngài”. Những ngày sau đó, tôi bình tĩnh lại và ăn uống lời Đức Chúa Trời, xem video và nghe những bản thánh ca, đau khổ trong lòng cũng dần dần lắng dịu.

Một hôm, tôi vô tình đọc được lời Đức Chúa Trời và nhận ra nguyên nhân tôi không thể vượt qua cái chết của vợ mà còn hiểu lầm và oán trách Đức Chúa Trời. Đó là do tôi có quan điểm mưu cầu sai lầm. Lời Đức Chúa Trời phán: “Điều ngươi tìm kiếm là có thể có được bình an sau khi tin vào Đức Chúa Trời, để con cái ngươi không bị ốm đau, để chồng ngươi có công việc tốt, để con trai ngươi có người vợ hiền, để con gái ngươi có tấm chồng tử tế, để trâu ngựa có thể cày bừa tốt, để mùa màng có một năm mưa thuận gió hòa. Đây là những gì ngươi kiếm tìm. Sự tìm kiếm của ngươi chỉ là để có cuộc sống thoải mái, để tai ương không đổ xuống gia đình ngươi, để phong ba bỏ qua ngươi, để cát bụi không chạm mặt ngươi, để mùa màng không bị ngập úng, để thảm họa không ảnh hưởng tới ngươi, để sống trong sự bao bọc của Đức Chúa Trời, để sống trong tổ ấm đủ đầy. Một kẻ hèn nhát như ngươi, luôn kiếm tìm xác thịt – ngươi có tấm lòng không, ngươi có linh hồn không? Ngươi không phải là súc vật ư? Ta cho ngươi con đường thật mà chẳng đòi hỏi nhận lại điều gì, vậy mà ngươi không theo đuổi. Ngươi có phải là một trong những người tin vào Đức Chúa Trời không? Ta ban cho ngươi sự sống con người đích thực, nhưng ngươi không mưu cầu. Ngươi không khác gì chó hay lợn sao? Con lợn không tìm kiếm cuộc sống con người, chúng không tìm kiếm việc được làm cho tinh sạch, và chúng không hiểu cuộc đời là gì. Mỗi ngày, chúng chỉ đơn giản ăn no ngủ say. Ta đã cho ngươi con đường nhưng ngươi vẫn chưa đạt được: Ngươi trắng tay. Ngươi có muốn tiếp tục cuộc sống này, cuộc sống của một con lợn không? Những người như vậy sống có ý nghĩa gì? Cuộc sống của ngươi thật đáng khinh và hèn mọn, ngươi sống trong dơ bẩn và phóng túng, và ngươi không theo đuổi bất kỳ mục tiêu nào; chẳng phải cuộc sống của ngươi hèn mọn nhất trong muôn loài? Các ngươi có mặt mũi nào mà nhìn Đức Chúa Trời? Nếu các ngươi tiếp tục sống như vậy, chẳng phải các ngươi sẽ không thu nhận được điều gì sao? Ngươi đã được trao con đường thật nhưng cuối cùng ngươi có thể đạt được điều đó hay không còn tùy vào sự theo đuổi của riêng ngươi(Các kinh nghiệm của Phi-e-rơ: Hiểu biết của ông về hình phạt và sự phán xét, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Đọc lời Đức Chúa Trời, tôi nhận ra mình tin vào Đức Chúa Trời không phải để mưu cầu lẽ thật, mà chỉ để đạt được phước lành, lợi lộc và bình an. Tôi đang giao dịch với Ngài. Từ khi vợ chồng tôi tiếp nhận công tác mới của Đức Chúa Trời, tôi luôn nghĩ, nếu chúng tôi tin Ngài, đi theo Ngài, chịu khổ và trả giá vì Ngài, thì chắc chắn Đức Chúa Trời sẽ ban cho chúng tôi sự bình an và khỏe mạnh. Khi công tác của Ngài kết thúc, chúng tôi có thể cùng nhau vào vương quốc và tận hưởng phước lành. Để có đích đến tốt đẹp trong tương lai, chúng tôi tích cực thực hiện bổn phận ngay khi vừa tin Đức Chúa Trời. Khi thấy những căn bệnh nặng lâu năm của vợ bất ngờ tự khỏi, tôi nghĩ vợ chồng mình được Đức Chúa Trời ban phước lành và ân điển, nên càng cảm thấy có động lực hơn. Dù bị con rồng lớn sắc đỏ bắt bớ và bị gia đình bức ép, bị chính con cái đuổi ra khỏi nhà, chúng tôi cũng không bao giờ bỏ cuộc, mà quyết tâm theo Đức Chúa Trời đến cùng. Tôi nghĩ như vậy chính là đứng vững làm chứng, dâng mình cho Đức Chúa Trời, cuối cùng chúng tôi sẽ được Đức Chúa Trời cứu rỗi và sống sót. Khi vợ tôi lâm bệnh, điều đó không phù hợp với quan niệm của tôi. Tôi cầu xin Đức Chúa Trời ban phép lạ và chữa khỏi bệnh cho bà ấy. Tôi dùng những đau khổ và bách hại trong quá khứ để làm vốn mặc cả với Đức Chúa Trời, đưa ra những điều kiện. Khi vợ tôi không qua khỏi, ước mơ cùng nhau bước vào vương quốc tận hưởng phước lành tan thành mây khói, tôi ngay lập tức trở mặt, chất vấn tại sao Ngài không bảo vệ vợ tôi, muốn dùng cái chết để chống đối Đức Chúa Trời, chất vấn sự công chính của Ngài, thậm chí cảm thấy đức tin vào Ngài là vô nghĩa. Xem ra tôi cũng như những người trong tôn giáo, tin Đức Chúa Trời chỉ để được ăn no, để đạt được những phước lành và bình an. Khi được ban phước, tôi tạ ơn và ca ngợi Đức Chúa Trời, tán tụng sự công chính của Ngài. Khi không được ban phước, tôi oán trách Đức Chúa Trời, lý luận và ăn vạ. Tôi tin Đức Chúa Trời chỉ để nhận được ân điển và phước lành của Ngài, vậy mà ngoài miệng cứ nói là mình yêu và thuận phục Đức Chúa Trời. Chẳng phải vậy là lừa dối và bỡn cợt Ngài sao? Cuộc đời tôi và mọi thứ tôi có đều là do Đức Chúa Trời ban cho. Bạn đời của tôi cũng do Đức Chúa Trời sắp đặt. Ngài đã cho tôi bao ân điển, phước lành, nhưng tôi vẫn chưa thỏa mãn. Khi không được như ý muốn, tôi liền trở mặt và phàn nàn. Lương tâm của tôi đâu mất rồi? Tôi có còn là con người không? Tôi còn không bằng loài heo chó! Con chó ít ra còn biết trông coi nhà cửa, sân vườn và trung thành với chủ, còn tôi mang tiếng là tin Đức Chúa Trời, nhận được biết bao sự chăm tưới và chăn dắt từ Ngài, tận hưởng ân điển dồi dào phong phú của Ngài, nhưng lại không muốn báo đáp tình yêu, mà còn lừa dối và mặc cả với Đức Chúa Trời, đúng là không còn nhân tính! Xem ra tôi chỉ tin Đức Chúa Trời để nhận được phước lành, chứ không phải để mưu cầu lẽ thật hay thay đổi tâm tính sống của mình, càng không phải để sống cuộc đời ý nghĩa. Tin Ngài đã nhiều năm, nhưng tôi vẫn không có chút thực tế lẽ thật nào, lần nào cũng lý luận với Ngài và đặt ra điều kiện, nuôi dưỡng ham muốn ngông cuồng, vậy mà vẫn mong được vào vương quốc và tận hưởng phước lành, đúng là vọng tưởng vô lý, mơ mộng hão huyền! Nếu không bị hoàn cảnh đó phơi bày, tôi vẫn sẽ không biết mình, và vẫn không nhận ra mình thiếu lương tâm, lý trí đến mức nào. Trước đây, tôi luôn nghĩ rằng mình có đức tin nhiều năm, cầu nguyện và đọc lời Đức Chúa Trời mỗi ngày, không bao giờ lùi bước dù bị bách hại, là người có vóc giạc và có lòng trung thành với Đức Chúa Trời, nên sau này chắc chắn sẽ được cứu rỗi và bước vào vương quốc. Nhưng giờ tôi nhận ra rằng muốn đạt được sự cứu rỗi thì quan trọng là phải thực hành lẽ thật, sống thể hiện ra thực tế lẽ thật. Nếu tôi không thay đổi động cơ mưu cầu để đạt được phước lành, đến sau cùng mà vẫn không thay đổi được tâm tính, thì tôi vẫn sẽ bị Ngài đào thải, hủy diệt.

Sau đó, khi gặp lại các anh chị em, họ đọc cho tôi nghe vài đoạn lời Đức Chúa Trời liên quan đến tình trạng của tôi. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Nếu sự ra đời của một người được định bởi kiếp trước của người đó, thì cái chết của họ đánh dấu sự kết thúc của vận mệnh đó. Nếu sự ra đời của một người là khởi đầu sứ mệnh của họ trong đời này, thì cái chết của họ đánh dấu sự kết thúc của sứ mệnh đó. Vì Đấng Tạo Hóa đã định đoạt một chuỗi những hoàn cảnh cố định cho sự ra đời của một người, nên không cần phải nói, Ngài cũng đã an bài một chuỗi những hoàn cảnh cố định cho cái chết của một người. Nói cách khác, không ai được sinh ra một cách tình cờ, không cái chết nào đến một cách đột ngột, và cả sự sống và chết đều nhất thiết được kết nối với những kiếp trước và kiếp này của con người. Các bối cảnh cho cả sự ra đời lẫn chết đi của con người đều được định trước bởi Đấng Tạo Hóa; đây là vận mệnh của một người, số phận của một người. Vì có nhiều cách lý giải cho sự ra đời của một người, nên cũng đúng là cái chết của một người sẽ tự nhiên xảy ra trong một chuỗi những hoàn cảnh khác nhau riêng biệt của chính nó. Đây là lý do con người có tuổi thọ khác nhau, cách thức và thời điểm chết của họ khác nhau. Một số người khỏe mạnh nhưng lại chết trẻ; số khác thì ốm yếu nhưng lại sống thọ và qua đời một cách thanh thản. Một số chết vì những nguyên nhân khác thường, số khác chết một cách tự nhiên. Một số chết xa nhà, số khác thì nhắm mắt lần cuối bên cạnh những người thân yêu. Một số người chết trong không trung, số khác dưới mặt đất. Một số chìm dưới nước, số khác mất mạng trong thảm họa. Một số chết vào buổi sáng, số khác vào buổi tối… Mọi người đều muốn được sinh ra vẻ vang, một cuộc đời huy hoàng và một cái chết vinh quang, nhưng không ai có thể vượt qua vận mệnh của chính mình, không ai có thể thoát khỏi sự tể trị của Đấng Tạo Hóa. Đây là số phận con người. Con người có thể vạch ra đủ loại kế hoạch cho tương lai của mình, nhưng không ai có thể vạch ra cách thức và thời điểm cho sự ra đời và lìa đời của mình. Mặc dù con người cố hết sức để tránh và kháng cự lại cái chết đang đến, nhưng họ không hề biết rằng, cái chết đang lặng lẽ đến gần. Không ai biết được khi nào mình sẽ chết hoặc chết như thế nào, càng không biết nó sẽ xảy ra ở đâu. Rõ ràng, không phải loài người nắm giữ quyền sinh tử, không phải hữu thể nào đó trong thế giới tự nhiên, mà là Đấng Tạo Hóa, Đấng có thẩm quyền độc nhất. Sự sống chết của nhân loại không phải là sản phẩm của quy luật nào đó của thế giới tự nhiên, mà là một hệ quả của sự tể trị trong thẩm quyền của Đấng Tạo Hóa(Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất III, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). “Trong đời này, để con người đi từ hiểu chuyện đến có được cơ hội, có đủ tố chất và điều kiện để có thể đối thoại với Đấng Tạo Hóa, đạt được sự hiểu biết, nhận thức và kính sợ thực sự đối với Đấng Tạo Hóa, đạt đến việc đi trên con đường kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, thật ra thời gian để làm được việc này không phải là dài. Nếu như muốn được Đức Chúa Trời nhanh chóng dẫn đi thì ngươi không có trách nhiệm với cuộc đời này của mình rồi. Nếu có trách nhiệm thì ngươi nên khẩn trương trang bị cho mình lẽ thật, khi gặp chuyện thì phản tỉnh bản thân thật nhiều và phải nhanh chóng bù đắp những thiếu sót của bản thân, đạt đến thực hành lẽ thật, hành động theo nguyên tắc, bước vào thực tế lẽ thật, nhận biết Đức Chúa Trời nhiều hơn, có thể biết và hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời, để đời này sống không phí hoài, biết Đấng Tạo Hóa ở đâu, Đấng Tạo Hóa có tâm ý như thế nào và hỉ nộ ai lạc của Ngài là như thế nào. Ngay cả khi ngươi không thể đạt được nhận thức sâu sắc hơn hoặc nhận thức trọn vẹn, thì ít nhất cũng đạt được hiểu biết cơ bản về Đức Chúa Trời, không phản bội Đức Chúa Trời, tương hợp ở mức cơ bản với Đức Chúa Trời, có sự cảm thông đối với Đức Chúa Trời, có thể dâng sự an ủi cơ bản lên Đức Chúa Trời, và làm những việc mà loài thọ tạo nên làm và cơ bản có thể đạt được. Như vậy là đã khó khăn rồi. Trong quá trình thực hiện bổn phận, con người có thể dần dần đạt đến nhận biết bản thân và từ đó đạt đến nhận biết Đức Chúa Trời. Quá trình này thực ra là một sự tương tác giữa Đấng Tạo Hóa và loài thọ tạo, nó phải là một quá trình đáng để con người ghi nhớ cả đời. Quá trình này phải khiến con người rất hưởng thụ chứ không phải là một quá trình đau đớn và khó khăn. Vì vậy, con người nên trân trọng những ngày đêm và năm tháng thực hiện bổn phận của mình, trân trọng khoảng thời gian này và không nên coi đó là một phiền hà hay gánh nặng. Họ nên nếm trải một cách tường tận và thể nghiệm giai đoạn này của cuộc sống, sau đó đạt đến hiểu lẽ thật và sống thể hiện ra hình tượng con người, có lòng kính sợ Đức Chúa Trời và ngày càng ít làm điều ác. Ngươi hiểu không ít lẽ thật, không làm những chuyện khiến Đức Chúa Trời đau lòng hay chán ghét. Khi đến trước Đức Chúa Trời, ngươi cảm thấy Ngài không còn ghê tởm mình nữa, như thế thật tốt biết bao! Khi đến được bước này, cho dù có chết thì con người có phải cũng sẽ được thanh thản không? Vậy nên, bây giờ có một số người còn cầu được chết, sao lại như vậy? Họ chính là muốn trốn tránh, không muốn chịu khổ, họ chỉ muốn kết thúc nhanh chóng cuộc đời này rồi đến chỗ Đức Chúa Trời mà báo cáo với Ngài. Ngươi muốn báo cáo nhưng Đức Chúa Trời vẫn chưa muốn ngươi. Đức Chúa Trời còn chưa gọi thì ngươi báo cáo cái gì chứ? Đừng báo cáo trước thời hạn, đây không phải là chuyện tốt. Nếu ngươi sống một cuộc đời có ý nghĩa và giá trị, và Đức Chúa Trời đến rước ngươi đi, vậy thì tốt biết bao!(Rao truyền phúc âm là bổn phận không thể thoái thác của tất cả những người tin Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Đọc xong lời này của Đức Chúa Trời, lòng tôi chợt bừng sáng như được mặt trời chiếu rọi. Trước đây, tôi nghĩ vợ mình tin Đức Chúa Trời lâu năm, đến lúc chết cũng không oán trách Ngài, vậy thì lẽ ra Ngài không nên để bà ấy chết sớm, mà nên để bà ấy sống để vợ chồng tôi được cùng nhau vào vương quốc và có một đích đến tốt đẹp. Đây là lý do tôi không thể vượt qua cái chết của vợ mình, lại còn oán trách và hiểu lầm Đức Chúa Trời. Lời Đức Chúa Trời giúp tôi hiểu ra rằng tin Đức Chúa Trời không có nghĩa là ta sẽ không chết. Sinh, lão, bệnh, tử là những thứ mà không người nào có thể tránh khỏi. Con người sống được bao lâu hoàn toàn là do Đức Chúa Trời định sẵn. Chuyện sinh tử của vợ tôi liên quan đến kiếp này lẫn kiếp trước của bà ấy, Đức Chúa Trời đã an bài mọi thứ từ trước khi bà ấy được sinh ra. Vợ tôi ra đời lúc nào, quỹ đạo cuộc đời và sứ mệnh của cuộc đời bà ấy ra sao, sống được bao nhiêu năm và khi nào thì phải chết – tất cả đều không ngẫu nhiên. Người ta thường nói “Vận mệnh con người do Trời định”. Đây là thiên quy, không ai có thể vi phạm. Tuổi thọ của vợ tôi đã hết, bà ấy ra đi một cách tự nhiên, không ai có thể thay đổi được. Tôi từng nghĩ vì vợ tôi đã chết nên bà ấy sẽ không thể được cứu rỗi. Nhưng giờ tôi hiểu ra rằng cái chết và sự cứu rỗi chẳng liên quan gì với nhau. Có được cứu rỗi hay không tùy thuộc vào việc ta có mưu cầu lẽ thật và sống trọn hiện thực của lời Đức Chúa Trời hay không. Những người thuận phục Đức Chúa Trời, mưu cầu và đạt được lẽ thật thì linh hồn sẽ được cứu rỗi sau khi chết. Ví dụ như Áp-ra-ham, Gióp và Phi-e-rơ, mặc dù họ đã chết về mặt thể xác, nhưng linh hồn họ được cứu rỗi sau khi chết, và có được kết cục, đích đến tốt đẹp. Tin Đức Chúa Trời mà không thật lòng thì sẽ giống như kẻ chẳng tin, dù có sống tiếp cũng không thể được cứu rỗi. Vợ tôi tin Đức Chúa Trời hơn mười năm và tôi không biết đức tin của bà ấy là thật hay giả. Dù Đức Chúa Trời an bài kết cục cho bà ấy ra sao, dù bà ấy bị đày xuống địa ngục hay được lên thiên đường, Đức Chúa Trời vẫn là công chính và không làm điều gì sai cả. Bản thân là một loài thọ tạo, tôi nên thuận phục sự an bài và sắp đặt của Đức Chúa Trời. Đây mới là lý trí mà tôi nên có. Trước đây tôi không hiểu rõ, không sẵn lòng thuận phục sự tể trị và an bài của Đức Chúa Trời. Khi vợ tôi chết, tôi cũng muốn chết theo cho xong. Nhưng giờ tôi nhận ra rằng cái chết của vợ tôi là do Đức Chúa Trời định sẵn và cho phép. Tôi muốn chết tức là đang chống đối Ngài, không thuận phục Ngài, muốn phản nghịch Ngài. Mặc dù cái chết của vợ khiến tôi đau đớn và khốn khổ, nhưng ẩn sau đó là ý định tốt của Đức Chúa Trời. Một mặt, nó phơi bày sự bại hoại của tôi, làm tinh sạch động cơ giao dịch với Đức Chúa Trời để đổi lấy phước lành, đồng thời giúp tôi biết được tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Đó là tình yêu và sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Tôi được sống đến độ tuổi này là do Đức Chúa Trời cho phép, tôi nên trân trọng quãng thời gian hiện tại, chuyên tâm mưu cầu lẽ thật trong môi trường mà Ngài sắp đặt, hiểu được sự bại hoại của bản thân và công tác của Đức Chúa Trời, đạt được sự thuận phục và thờ phượng Đức Chúa Trời, không phản nghịch và khiến Ngài đau lòng nữa. Sau này dù Ngài làm công tác gì hay sắp đặt môi trường ra sao, tôi cũng phải lắng nghe lời Đức Chúa Trời và sống cho thật tốt, rao giảng phúc âm và làm chứng cho Đức Chúa Trời, sống để làm tốt bổn phận của một loài thọ tạo, thuận phục sự tể trị và an bài của Đức Chúa Trời. Tôi không thể phụ lòng tốt của Đức Chúa Trời và phải gạt bỏ ý định kết thúc cuộc đời mình. Tôi bèn tha thiết cầu nguyện với Ngài: “Lạy Đức Chúa Trời! Con không muốn ân điển hay phước lành nữa. Con không có lẽ thật, nên sẽ không xin gì khác ngoài lẽ thật. Con có tâm tính Sa-tan bại hoại, con cần sự phán xét và hình phạt của Ngài để bản thân được kiểm soát và không trở nên phóng đãng”. Hiểu ra được những điều này, tôi cảm thấy thoải mái hơn rất nhiều. Tôi có thể ăn ngon và ngủ ngon trở lại. Vì tình hình bất lợi nên không thể hội họp cùng các anh chị em, nhưng tôi vẫn thường xuyên tĩnh nguyện và ăn uống lời Đức Chúa Trời. Lời Đức Chúa Trời chăm tưới và cung dưỡng cho tôi, lòng tôi cảm thấy bình yên, an tĩnh và tự do. Sức khỏe của tôi cũng dần hồi phục. Người trong làng khi gặp tôi đều nói trông tôi vô cùng khỏe mạnh, không giống ông già 70 tuổi chút nào. Trong lòng tôi thầm cảm tạ và ca ngợi Đức Chúa Trời!

Sau đó, tôi đọc một đoạn lời khác của Đức Chúa Trời, có được chút hiểu biết mới về sự bại hoại của mình. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Cho dù có bao nhiêu điều xảy ra với họ, loại người là kẻ địch lại Đấng Christ cũng không bao giờ cố gắng giải quyết chúng bằng cách tìm kiếm lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời, càng không cố gắng nhìn nhận sự việc qua lời Đức Chúa Trời – đây hoàn toàn là vì họ không tin rằng mọi dòng trong lời Đức Chúa Trời đều là lẽ thật. Cho dù nhà Đức Chúa Trời có thông công lẽ thật như thế nào thì những kẻ địch lại Đấng Christ vẫn không tiếp thu, và hậu quả là họ không có tư duy đúng đắn dù họ đối mặt với tình huống nào; đặc biệt, khi nói đến cách họ tiếp cận Đức Chúa Trời và lẽ thật, những kẻ địch lại Đấng Christ cứng đầu không chịu gạt những quan niệm của họ sang một bên. Đức Chúa Trời mà họ tin là Đức Chúa Trời thực hiện các dấu kỳ phép lạ, là Đức Chúa Trời siêu nhiên. Bất kỳ ai có thể thực hiện các dấu kỳ phép lạ – dù là Bồ Tát, Đức Phật hay Thiên Hậu Thánh Mẫu – họ đều gọi là Đức Chúa Trời. … Theo suy nghĩ của những kẻ địch lại Đấng Christ, Đức Chúa Trời nên được thờ phượng trong khi ẩn sau bàn thờ, ăn thức ăn mà mọi người dâng, ngửi nhang mà họ đốt, dang tay giúp đỡ khi họ gặp khó khăn, cho thấy chính Ngài là Đấng toàn năng và cung cấp sự trợ giúp tức thì cho họ trong giới hạn những gì họ có thể hiểu thấu được, và đáp ứng những nhu cầu của họ, khi người ta xin giúp đỡ và thành khẩn cầu khấn. Đối với những kẻ địch lại Đấng Christ, chỉ một vị thần như thế này mới là Đức Chúa Trời thật. Trong khi đó, mọi việc Đức Chúa Trời làm ngày nay đều gặp phải sự khinh bỉ của những kẻ địch lại Đấng Christ. Và tại sao lại như vậy? Xét theo bản tính và bản chất của những kẻ địch lại Đấng Christ, những gì họ yêu cầu không phải là sự chăm tưới, chăn dắt và cứu rỗi mà Đấng Tạo Hóa thực hiện trên các tạo vật của Đức Chúa Trời, mà là sự thịnh vượng và thành công trong mọi việc, để không bị trừng phạt trong đời này, và để lên thiên đàng khi họ chết. Quan điểm và nhu cầu của họ xác nhận bản chất của họ là thù địch với lẽ thật(Mục 15. Họ không tin vào sự hiện hữu của Đức Chúa Trời, và phủ nhận thực chất của Đấng Christ (Phần 1), Lời, Quyển 4 – Vạch trần kẻ địch lại Đấng Christ). Ngài vạch trần những kẻ địch lại Đấng Christ ghét lẽ thật, dù ăn uống lời Đức Chúa Trời bao nhiêu năm, họ cũng sẽ không nhìn nhận mọi việc dựa theo lời Đức Chúa Trời. Họ tin Ngài nhưng không mưu cầu lẽ thật, mà chỉ muốn phép lạ, trong lòng luôn yêu cầu Đức Chúa Trời giúp họ giải quyết vấn đề và đáp ứng yêu cầu của họ, muốn kiếp này sống suôn sẻ, còn kiếp sau thì sống đời đời. Họ tin Ngài chỉ để xin phước lành. Quan điểm mưu cầu trong đức tin của tôi cũng y hệt kẻ địch lại Đấng Christ. Tôi thờ phượng Đức Chúa Trời như một thần tượng. Khi gặp hoàn cảnh khó khăn hay vấn đề về sức khỏe, tôi sẽ cầu nguyện với Ngài, cầu xin Đức Chúa Trời trông nom và giải quyết các vấn đề của chúng tôi, dù chúng tôi có yêu cầu gì đi nữa, Đức Chúa Trời cũng phải đáp ứng và ban cho chúng tôi đầy đủ. Đức Chúa Trời này là Đức Chúa Trời trong tâm trí tôi. Tôi lợi dụng Đức Chúa Trời để đáp ứng nhu cầu riêng, đây chẳng phải là lừa dối và báng bổ Ngài hay sao? Hiện tại không còn là Thời đại Ân điển, Đức Chúa Trời không làm công tác chữa bệnh và xua ma đuổi quỷ. Công tác của Ngài hiện nay là phán xét và trừng phạt, để giải quyết tâm tính bại hoại của con người và cứu chúng ta khỏi quyền lực của Sa-tan. Tôi không yêu lẽ thật hay trân trọng công tác của Đức Chúa Trời, mà còn liên tục cầu xin ân điển và phước lành. Về thực chất, tôi là một kẻ chẳng tin. Tôi đã theo Đức Chúa Trời nhiều năm, được lời Ngài chăm tưới, cung dưỡng, được Ngài trông nom và bảo vệ, nhưng tôi không mưu cầu lẽ thật hay cố gắng đền đáp tình yêu của Đức Chúa Trời, mà còn đưa ra những yêu cầu vô lý với Ngài. Mưu cầu kiểu đó chính là đối địch với Đức Chúa Trời, sau cùng chắc chắn sẽ bị Ngài trừng phạt. Nhận ra điều này, tôi vô cùng sợ hãi. Tôi không muốn tiếp tục đi vào con đường sai trái đó nữa, mà sẵn sàng thú tội và ăn năn với Ngài.

Sau đó, nhờ đọc được trải nghiệm của Gióp, tôi đã học được thêm nhiều điều, biết cách đương đầu và trải nghiệm những thử luyện khi chúng xảy đến. Tôi đọc thêm lời Đức Chúa Trời: “Gióp đã không nói chuyện đổi chác với Đức Chúa Trời, và đã không yêu cầu hay đòi hỏi gì ở Đức Chúa Trời. Sự ngợi khen danh Đức Chúa Trời của ông là vì quyền năng và thẩm quyền vĩ đại của Đức Chúa Trời trong việc cai trị muôn vật, và nó không lệ thuộc vào việc ông đạt được những phúc lành hay bị tai họa giáng xuống. Ông đã tin rằng bất kể Đức Chúa Trời ban phúc cho con người hay giáng thảm họa xuống họ, thì quyền năng và thẩm quyền của Đức Chúa Trời sẽ không thay đổi, và như thế, bất kể những hoàn cảnh của một người, thì danh Đức Chúa Trời nên được ngợi khen. Việc con người được Đức Chúa Trời ban phúc lành là bởi sự tể trị của Đức Chúa Trời, và khi tai họa xảy đến với con người, đó cũng là vì sự tể trị của Đức Chúa Trời. Quyền năng và thẩm quyền của Đức Chúa Trời thống trị và sắp đặt mọi thứ về con người; những sự thất thường trong vận may của con người là biểu hiện cho quyền năng và thẩm quyền của Đức Chúa Trời, và bất kể quan điểm của một người, danh Đức Chúa Trời phải được ngợi khen. Đây là điều Gióp đã trải nghiệm và bắt đầu biết đến trong những năm tháng của cuộc đời ông. Tất cả những ý nghĩ và hành động của Gióp đều đến tai Đức Chúa Trời và đến trước Đức Chúa Trời, cũng như được Đức Chúa Trời xem trọng. Đức Chúa Trời trân trọng nhận thức này của Gióp, và trân quý Gióp vì có tấm lòng như vậy. Tấm lòng này luôn chờ đợi lệnh truyền của Đức Chúa Trời, ở mọi nơi, và bất kể thời gian hay nơi chốn, nó cũng chào đón bất cứ điều gì xảy đến với ông. Gióp đã không yêu cầu gì ở Đức Chúa Trời. Điều ông yêu cầu chính mình là chờ đợi, chấp nhận, đối diện, và thuận phục tất cả những sự sắp đặt đến từ Đức Chúa Trời; Gióp tin đây là bổn phận của ông, và đó chính là điều Đức Chúa Trời muốn. Gióp chưa bao giờ nhìn thấy Đức Chúa Trời, cũng chưa bao giờ nghe Đức Chúa Trời phán bất kỳ lời nào, đưa ra bất kỳ lệnh truyền nào, ban bất kỳ lời giáo huấn nào, hay hướng dẫn ông bất cứ điều gì. Theo cách nói của ngày nay, việc ông có thể sở hữu một nhận thức và thái độ như vậy đối với Đức Chúa Trời trong khi Đức Chúa Trời đã không ban cho ông sự khai sáng, hướng dẫn, hay chu cấp gì liên quan đến lẽ thật – điều này thật quý giá, và việc ông minh chứng những điều như thế là đủ đối với Đức Chúa Trời, và chứng ngôn của ông được Đức Chúa Trời khen ngợi và trân trọng. Gióp chưa bao giờ thấy Đức Chúa Trời hay nghe Đức Chúa Trời đích thân phán ra bất kỳ lời giáo huấn nào với ông, nhưng đối với Đức Chúa Trời, lòng ông và bản thân ông quý hơn nhiều so với những kẻ mà, trước Đức Chúa Trời chỉ có thể nói về lý thuyết sâu xa, những kẻ chỉ có thể huênh hoang, và nói về những sự dâng của lễ, nhưng lại là những kẻ không bao giờ có nhận thức thật về Đức Chúa Trời, và chưa bao giờ thật sự kính sợ Đức Chúa Trời. Bởi lòng Gióp tinh sạch, không ẩn giấu với Đức Chúa Trời, nhân tính của ông trung thực và tốt bụng, ông yêu công lý và những điều tích cực. Chỉ một người như thế này, sở hữu tấm lòng và nhân tính như thế, mới có thể tuân theo con đường của Đức Chúa Trời, có khả năng kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Một người như thế có thể thấy sự tể trị của Đức Chúa Trời, có thể thấy thẩm quyền và quyền năng của Ngài, và có thể đạt được sự thuận phục sự tể trị và những sự sắp đặt của Ngài. Chỉ một người như thế mới có thể thật sự ngợi khen danh Đức Chúa Trời. Đó là vì ông đã không nhìn vào việc liệu Đức Chúa Trời ban phúc lành cho ông hay giáng thảm họa xuống ông, bởi vì ông biết rằng mọi thứ được kiểm soát bởi tay Đức Chúa Trời, và rằng việc con người lo lắng là một dấu hiệu của sự ngốc nghếch, ngu dốt, và vô lý, là dấu hiệu của sự hoài nghi đối với sự thực rằng Đức Chúa Trời tể trị vạn vật trên đời, và không kính sợ Đức Chúa Trời. Nhận thức của Gióp chính là điều Đức Chúa Trời muốn(Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời II, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Từ lời Đức Chúa Trời tôi nhận ra Gióp tin rằng mọi vật và mọi việc đều do Đức Chúa Trời tể trị. Bất kể là phước hay họa, mọi thứ ông có được đều đến từ Đức Chúa Trời. Khi ông đối mặt với thử luyện, tất cả tài sản và con cái của ông đều bị tước đi, người ông thì nổi đầy mụn nhọt, nhưng ông vẫn không oán trách nửa lời, mà còn ca ngợi danh Đức Chúa Trời rằng: “Ðức Giê-hô-va đã ban cho, Ðức Giê-hô-va lại cất đi; đáng ngợi khen danh Ðức Giê-hô-va!” (Gióp 1:21). Trong đức tin của Gióp không có sự giao dịch hay đòi hỏi nào. Ông ca ngợi quyền năng của Đức Chúa Trời vì ông tin vào quyền tối thượng của Ngài. Ông tin rằng mọi việc Đức Chúa Trời làm đều là tốt lành. Tính cách con người Gióp là trung thực và thiện lương, khiến tôi cảm thấy thật xấu hổ. So sánh bản thân với Gióp, tôi kém xa rất nhiều! Gióp chỉ nghe nói về Đức Chúa Trời chứ không được chăm tưới hay cung dưỡng bởi lời Đức Chúa Trời, nhưng khi đối mặt với thử luyện, ông không oán trách Đức Chúa Trời. Dù được phước hay gặp họa, ông đều có thể tiếp nhận từ Đức Chúa Trời và thuận phục. So sánh với bản thân, tôi ăn uống rất nhiều lời Đức Chúa Trời, nhưng không biết đền đáp tình yêu của Ngài. Khi nhận được ân điển và phước lành thì tôi tin vào quyền năng và thẩm quyền của Ngài. Còn khi vợ tôi bị bệnh qua đời, tôi liền nghi ngờ quyền năng và thẩm quyền của Đức Chúa Trời, không thuận phục Đức Chúa Trời, còn lý luận với Ngài, trong lòng không có chỗ dành cho Ngài và không tin vào sự tể trị hay sắp đặt của Ngài. Tôi ca ngợi thẩm quyền và quyền năng của Đức Chúa Trời dựa theo đánh giá của bản thân về những phước lành và tai họa mà tôi gặp phải. Tôi không thể thuận phục sự tể trị và an bài của Đức Chúa Trời một cách vô điều kiện. Khi gặp phải khó khăn, tôi lý luận với Đức Chúa Trời, thậm chí chống đối và ăn vạ. So với Gióp, tôi không hề có chút nhân tính hay lý trí nào, bị Đức Chúa Trời ghê tởm, khinh ghét. Tôi không muốn khiến Ngài đau lòng nữa. Sau này bất kể Đức Chúa Trời sắp đặt hoàn cảnh nào, dù tôi được phước hay gặp họa, tôi cũng sẽ noi gương Gióp, không được mặc cả với Đức Chúa Trời, mà phải thuận phục sự tể trị và sắp đặt của Ngài. Ngay cả khi cuối cùng không đạt được lẽ thật và bị đào thải, tôi cũng sẽ không oán than. Sau một thời gian, tôi không còn ở trong tình trạng nguy hiểm và đã có thể hội họp trở lại, cùng ăn uống lời Đức Chúa Trời với các anh chị em và sống đời sống hội thánh. Hội thánh cũng sắp xếp bổn phận cho tôi, hiện tại tôi rất hạnh phúc.

Cái chết của vợ đã phơi bày rất nhiều sự phản nghịch trong tôi. Sự phán xét và mặc khải của lời Đức Chúa Trời giúp tôi nhìn thấy sự hèn hạ của mình khi mưu cầu phước lành trong đức tin, nhờ vậy tôi đã có thể ngừng mưu cầu con đường sai lầm đó. Đồng thời, tôi cũng hiểu được rằng vợ tôi chết là bởi vì số kiếp của cô ấy đã tận. Đối mặt một cách đúng đắn sẽ giúp tôi trút bỏ nỗi đau. Hiện tại, điều tôi cần làm là chuyên tâm mưu cầu lẽ thật và đạt được sự thay đổi về tâm tính. Dù được phước hay gặp họa, tôi cũng nên lắng nghe lời Đức Chúa Trời, thuận phục sự tể trị và sắp đặt của Ngài.

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Cái họa gây ra bởi sự khoe khang

Bởi Nhã Ngu, Tây Ban Nha Vài năm về trước, tôi đang thực hiện bổn phận chăm tưới với một số anh chị em cùng độ tuổi của mình. Họ rất nhiệt...

Leave a Reply

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger