Con đường rao truyền phúc âm đầy chông gai

11/07/2023

Bởi An Tâm, Myanmar

Tôi đến từ Myanmar. Năm 2019, tôi đã tiếp nhận công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Nhờ đọc lời Đức Chúa Trời tôi hiểu được rằng Đức Chúa Trời thực hiện công tác phán xét vào thời kỳ sau rốt để hoàn toàn cứu rỗi con người khỏi ảnh hưởng của Sa-tan, đưa chúng ta đến một đích đến tốt đẹp. Tôi vô cùng cảm tạ sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Vì hiện tại thảm họa ngày càng gia tăng, nhiều người mong mỏi sự xuất hiện của Đức Chúa Trời vẫn chưa nghe thấy tiếng Ngài, chưa tiếp nhận sự cứu rỗi thời kỳ sau rốt của Ngài, nên trong lòng tôi thấy lo lắng và có cảm giác khẩn cấp. Tôi đã cầu nguyện, xin Đức Chúa Trời dẫn dắt tôi rao truyền phúc âm thời kỳ sau rốt của Ngài tới nhiều người hơn.

Đầu tháng 7 năm 2022, tôi đi cùng mấy anh chị em đến một thôn để rao truyền phúc âm. Trước đây, một người anh em vì rao giảng ở đó đã bị trình báo và bị bắt, nên mỗi lần trưởng thôn đi họp trên tỉnh về lại bảo dân làng không được theo tin Đức Chúa Trời. Nếu phát hiện ai tin Đức Chúa Trời, họ sẽ bị phạt rất nhiều tiền hoặc thậm chí bị bắt. Thế nên không có một ai dám nghe chúng tôi rao giảng phúc âm. Họ bảo chúng tôi phải báo với trưởng thôn trước, nếu trưởng thôn đồng ý thì họ mới chịu nghe giảng. Tôi là người ngoài thôn. Những anh chị em cùng rao truyền phúc âm với tôi đều đến từ những thôn lân cận và không ai quen trưởng thôn. Người trong thôn cũng không chịu dẫn chúng tôi đến gặp ông ấy. Đối diện những khó khăn này, tôi không biết làm cách nào để giải quyết, và chúng tôi có nguy cơ bị trình báo, bị bắt bất cứ lúc nào. Tôi bèn cầu nguyện, xin Đức Chúa Trời dẫn dắt chỉ đường. Trong một buổi hội họp, chúng tôi đọc một đoạn lời Đức Chúa Trời: “Ngươi phải có đức tin rằng mọi sự đều trong tay Đức Chúa Trời, và rằng con người đơn thuần hợp tác với Ngài. Nếu lòng ngươi chân thành, Đức Chúa Trời sẽ thấy, và Ngài sẽ mở ra mọi con đường cho ngươi, khiến những nỗi khó khăn không còn khó khăn. Đây là đức tin mà ngươi phải có. Do vậy, ngươi không cần lo lắng về bất kỳ điều gì trong khi thực hiện bổn phận của mình, miễn sao ngươi dùng toàn bộ sức mạnh của mình và để tâm mình vào đó. Đức Chúa Trời sẽ không làm khó ngươi hay buộc ngươi làm những điều ngươi không có khả năng(Khi tin Đức Chúa Trời, điều quan trọng nhất là thực hành và trải nghiệm lời Ngài, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời Đức Chúa Trời đã cho tôi đức tin và sức mạnh. Cho dù việc chia sẻ phúc âm cực khổ thế nào, hay bị chính phủ đàn áp, cản trở ra sao, tôi có gặp được trưởng thôn không, hay là bị trình báo và bị bắt, đều hoàn toàn nằm trong tay Đức Chúa Trời. Mở rộng phúc âm là chỉ thị của Đức Chúa Trời, là việc Ngài mong muốn hoàn thành. Kể cả chính phủ có đàn áp, trưởng thôn có cản trở, họ cũng không ngăn cản được sự mở rộng phúc âm vương quốc của Đức Chúa Trời. Họ không thể ngăn cản chiên Đức Chúa Trời trở về với Ngài. Chỉ cần chúng tôi toàn tâm toàn lực trong công tác, tôi biết Đức Chúa Trời sẽ chỉ đường, mở một con đường cho chúng tôi. Khi hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời, chúng tôi đã có thêm tự tin chia sẻ phúc âm. Thì ra một người anh em ở thôn kế bên có quan hệ với trưởng thôn. Anh ấy bảo chúng tôi là qua hôm sau sẽ dẫn chúng tôi đến gặp trưởng thôn. Tối đó chúng tôi quay lại thôn và rao giảng phúc âm cho một số người trong thôn có nhân tính tốt. Khi chúng tôi đang thông công thì phó thôn và thủ quỹ bất ngờ xuất hiện, họ ngồi nghe được một lát thì ra về. Một người dân nói, “Họ đến điều tra xem có phải các chị rao giảng phúc âm không đấy. Chúng tôi không nghe nữa đâu. Hãy nói chuyện với trưởng thôn đã, nếu ông ấy đồng ý thì chúng tôi mới nghe”. Chúng tôi không còn cách nào đành phải ra về. Về nhà, tôi cảm thấy khá thất vọng. Phó thôn biết chúng tôi đang chia sẻ phúc âm. Nếu ông ta cản trở, dân làng sẽ không chịu tìm hiểu con đường thật. Hơn nữa, trước đó anh kia bị bắt cũng là do bị thủ quỹ trình báo. Sợ bản thân cũng bị bắt, tôi không muốn đi gặp trưởng thôn nói chuyện. Người phụ trách biết tình trạng của tôi và đã thông công với tôi, “Gặp phải hoàn cảnh như thế, chúng ta không được chùn bước. Chúng ta phải tận dụng cơ hội đó để chia sẻ phúc âm với họ. Chỉ cần chúng ta hoàn thành trách nhiệm, thì họ có tiếp nhận phúc âm hay không, chúng ta cũng không thẹn với lòng”. Ngay sau đó, tôi nhớ đến một đoạn lời Đức Chúa Trời đọc được trước đây. “Trong việc truyền bá Phúc Âm, ngươi phải hoàn thành trách nhiệm của mình và đối xử một cách nghiêm túc với tất cả những người mà ngươi truyền bá. Đức Chúa Trời cứu rỗi con người ở phạm vi hết sức có thể, và ngươi phải lưu tâm đến ý muốn của Đức Chúa Trời, ngươi không được bất cẩn bỏ qua bất kỳ ai đang tìm kiếm và xem xét con đường thật. … Miễn là họ sẵn lòng xem xét con đường thật và có khả năng tìm kiếm lẽ thật, thì ngươi nên làm tất cả những gì có thể để đọc thêm lời Đức Chúa Trời cho họ và thông công thêm về lẽ thật với họ, đồng thời chứng thực cho công tác của Đức Chúa Trời và giải quyết những quan niệm và thắc mắc của họ, để ngươi có thể thu phục họ và đưa họ đến trước Đức Chúa Trời. Đây là điều phù hợp với các nguyên tắc truyền bá Phúc Âm. Vậy họ có thể được thu phục như thế nào? Nếu, trong quá trình tiếp xúc với họ, ngươi biết chắc rằng người này có tố chất tốt và nhân tính tốt, ngươi phải làm mọi cách có thể để hoàn thành trách nhiệm của mình; ngươi phải trả một cái giá nhất định, và sử dụng những cách thức và phương tiện nhất định, không quan trọng ngươi sử dụng những cách thức và phương tiện nào, miễn sao là nhằm để thu phục họ. Tóm lại, để thu phục họ, ngươi phải hoàn thành trách nhiệm của mình, dùng tình yêu thương, và làm mọi thứ trong khả năng của mình. Ngươi phải thông công về tất cả những lẽ thật mà ngươi hiểu và làm tất cả những gì ngươi nên làm. Ngay cả khi không thu phục được người này, ngươi vẫn sẽ có lương tâm trong sáng. Đây là làm tất cả những gì ngươi có thể và phải làm(Truyền bá Phúc Âm là bổn phận mà mọi tín đồ đều phải thực hiện, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Khi rao giảng, chúng ta phải hoàn thành trách nhiệm để không thẹn với lòng. Chỉ cần người đó phù hợp với nguyên tắc rao truyền phúc âm, chúng ta phải dốc hết sức mình, chia sẻ phúc âm với họ bằng bằng mọi cách có thể. Dân làng có ý muốn tìm hiểu con đường thật. Chỉ vì sự đàn áp của chính phủ mà họ sợ bị phạt hoặc bị bắt nên mới không chịu lắng nghe. Tôi phải hoàn thành trách nhiệm và thông công lời Đức Chúa Trời nhiều hơn, giải quyết vấn đề và khó khăn của họ. Nếu trưởng thôn là người tốt sẵn sàng lắng nghe lời Đức Chúa Trời, tôi nên thử mọi cách để rao giảng cho ông ấy. Như thế mới đúng là hoàn thành trách nhiệm. Nhưng nếu tôi không chia sẻ phúc âm vì sợ bị trình báo và bị bắt, thì tôi sẽ mắc nợ Đức Chúa Trời. Khi hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời, tôi đã có thêm tự tin để nói chuyện với trưởng thôn, và rao giảng phúc âm cho dân làng.

Qua hôm sau, người anh em đó dẫn tôi đến nhà trưởng thôn. Phó thôn và thủ quỹ cũng ở đó. Chúng tôi đã thông công về ba giai đoạn công tác để cứu rỗi nhân loại của Đức Chúa Trời, rằng hiện chúng ta đang ở thời kỳ sau rốt, và Đức Chúa Trời Toàn Năng chính là Đấng Cứu Thế giá lâm. Ngài đang bày tỏ lẽ thật và thực hiện công tác phán xét để làm tinh sạch và cứu rỗi con người. Chúng ta phải tiếp nhận sự phán xét và làm tinh sạch của Ngài để được Đức Chúa Trời bảo vệ qua thảm họa, bước vào vương quốc của Ngài. Trưởng thôn rất thích thú và sẵn lòng tìm hiểu. Nhưng cả phó thôn và thủ quỹ đều tỏ thái độ không vui. Họ bảo rằng, “Chúng tôi nghe theo chính phủ. Họ không cho phép tín ngưỡng tôn giáo, nên chúng tôi không được tin. Nếu không chúng tôi sẽ bị bắt”. Thấy họ có thái độ cứng rắn như vậy, tôi cầu nguyện Đức Chúa Trời, giao phó họ cho Đức Chúa Trời và xin Ngài dẫn dắt. Sau đó tôi đọc cho họ nghe một đoạn lời Đức Chúa Trời Toàn Năng. “Có thể đất nước của ngươi hiện đang phồn thịnh, nhưng nếu ngươi để cho người dân của mình lạc khỏi Đức Chúa Trời, thì đất nước sẽ nhận ra mình ngày càng mất đi các phước lành của Đức Chúa Trời. Nền văn minh của đất nước ngươi sẽ ngày càng bị giẫm đạp dưới chân, và chẳng bao lâu sau, dân chúng sẽ nổi dậy chống lại Đức Chúa Trời và rủa sả Thiên đàng. Và vì vậy, vận mệnh của một đất nước sẽ bị suy tàn mà con người chẳng hay biết. Đức Chúa Trời sẽ dấy lên những cường quốc để đối phó với những quốc gia đã bị Đức Chúa Trời rủa sả, và thậm chí có thể quét sạch chúng khỏi bề mặt trái đất. Sự thăng trầm của một quốc gia hoặc dân tộc dựa trên việc liệu những kẻ cai trị đất nước có thờ phượng Đức Chúa Trời hay không, và liệu họ có dẫn dắt người dân của mình trở nên gần gũi hơn với Đức Chúa Trời và thờ phượng Ngài hay không(Phụ lục 2: Đức Chúa Trời tể trị số phận của cả nhân loại, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Đọc lời Đức Chúa Trời xong, tôi thông công với họ, “Hiện tại chính phủ cấm tin Đức Chúa Trời, thậm chí chống đối Ngài. Các vị lại nghe theo họ và không dám tin. Ai mới thực sự có thể cứu rỗi con người – là Đức Chúa Trời hay chính phủ? Đại dịch đang trở nên ngày càng nghiêm trọng hơn. Dù là bần cùng hay phú quý, mạnh mẽ hay yếu đuối, con người cũng chẳng là gì trước thảm họa. Không một con người nào có thể cứu chúng ta khỏi quyền lực của Sa-tan, hay bảo vệ chúng ta khỏi thảm họa. Chỉ Đức Chúa Trời mới cứu rỗi được chúng ta! Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt vào thời kỳ sau rốt, bày tỏ lẽ thật và công tác để cứu rỗi con người. Đây là cơ hội duy nhất một lần trong đời. Các vị là người lo quản lý thôn này. Vận mệnh dân làng đều phụ thuộc vào cách các vị dẫn dắt họ. Nếu các vị không dẫn dắt họ thờ phượng Đức Chúa Trời, thay vào đó chống đối Ngài, thì làng này sẽ bị rủa xả, vận mệnh của mọi người sẽ bị hủy hoại bởi các vị”. Nghe vậy, trưởng thôn nói, “Tôi tin vận mệnh của con người nằm trong tay Đức Chúa Trời, và tôi muốn dẫn dắt dân làng tin vào Đức Chúa Trời”. Thủ quỹ nói, “Tôi biết có đức tin là tốt, nhưng chúng tôi sẽ bị chính phủ bắt nếu không làm theo ý họ. Chúng tôi cũng đành bó tay”. Chúng tôi đọc cho họ nghe một đoạn lời Đức Chúa Trời nữa. “Chúng ta tin tưởng rằng không quốc gia hoặc thế lực nào có thể ngăn cản những gì Đức Chúa Trời muốn đạt được. Những ai cản trở công tác của Đức Chúa Trời, chống lại lời Đức Chúa Trời, gây nhiễu loạn và làm hỏng kế hoạch của Đức Chúa Trời cuối cùng sẽ bị Ngài trừng phạt. Kẻ nào nổi dậy chống lại công tác của Đức Chúa Trời sẽ bị đày xuống địa ngục; bất kỳ quốc gia nào chống lại công tác của Đức Chúa Trời đều sẽ bị hủy diệt; bất kỳ dân tộc nào nổi dậy chống đối công tác của Đức Chúa Trời đều sẽ bị xóa sổ khỏi trái đất này và sẽ không còn tồn tại. Ta thúc giục người dân của mọi dân tộc, mọi quốc gia, và thậm chí mọi ngành nghề hãy lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời, hãy nhìn công tác của Đức Chúa Trời và hãy chú ý đến số phận của nhân loại, để làm cho Đức Chúa Trời thành Đấng thánh khiết nhất, đáng tôn kính nhất, cao cả nhất, và là đối tượng thờ phượng duy nhất giữa loài người, và để cho toàn thể nhân loại được sống dưới phước lành của Đức Chúa Trời, cũng như dòng dõi của Áp-ra-ham đã sống dưới lời hứa của Đức Giê-hô-va, cũng như A-đam và Ê-va, những người Đức Chúa Trời tạo dựng nên đầu tiên, đã sống trong vườn Ê-đen(Phụ lục 2: Đức Chúa Trời tể trị số phận của cả nhân loại, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Tôi thông công, “Tâm tính của Đức Chúa Trời không dung thứ sự xúc phạm của con người. Ngài sẽ trừng phạt tất cả những ai chống lại công tác của Ngài. Đó là tâm tính công chính của Đức Chúa Trời, không ai có thể thoát được. Thảm họa đang không ngừng gia tăng. Đó là lời nhắc nhở và cảnh báo của Đức Chúa Trời với nhân loại, cũng như một sự trừng phạt. Chẳng hạn như trận động đất Vấn Xuyên ở Trung Quốc – người dân ở đó không thờ phượng Đức Chúa Trời. Các anh chị em đã chia sẻ phúc âm với họ, nhưng họ không tiếp nhận, lại còn nhục mạ các anh chị em và phỉ báng Đức Chúa Trời. Khi động đất xảy ra, họ đều khóc lóc và nghiến răng, nhưng hối hận cũng đã quá muộn. Miền Nam Ngõa Bang ở Myanmar cũng chống lại công tác của Đức Chúa Trời. Chính phủ thường xuyên bắt bớ các tín hữu, cấm cản tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Tháng 6 vừa rồi có một đợt lũ xảy ra và rất nhiều nhà cửa bị cuốn trôi. Đại họa vẫn chưa đến với chúng ta, nên Đức Chúa Trời vẫn đang cho chúng ta cơ hội ăn năn. Nếu thảm họa đến, có hối hận cũng đã muộn rồi. Đắc tội với người khác cũng chẳng sao, nhưng hậu quả của việc chống đối Đức Chúa Trời sẽ rất nặng nề. Trước đây, chúng ta đều làm đủ mọi chuyện chống đối Đức Chúa Trời, nhưng chỉ cần ăn năn với Đức Chúa Trời, và dẫn dắt dân làng tìm hiểu con đường thật và hướng về Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời sẽ nhân từ và tha thứ cho chúng ta”. Sau mối thông công của tôi, thái độ của thủ quỹ có vẻ bớt căng thẳng một chút. Trưởng thôn và những người khác đồng ý để chúng tôi chia sẻ phúc âm với dân làng. Sáng hôm sau, chúng tôi tập hợp dân làng và làm chứng với họ về công tác của Đức Chúa Trời thời kỳ sau rốt. Sau hơn 10 ngày thông công, hơn 40 người trong thôn, bao gồm cả trưởng thôn và phó thôn, đều đã tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Họ khao khát lời Đức Chúa Trời, tích cực tham gia hội họp, lại còn chủ động rủ thêm nhiều người đến nghe giảng. Sau đó, nhờ sự đồng tâm hợp lực của các anh chị em, nhiều dân làng trong các thôn xóm ở Myanmar đã tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng.

Trước đây, tôi đã bị trình báo vài lần vì rao truyền phúc âm. Đa số người ở quê tôi biết tôi tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng, và cảnh sát truy tìm tôi khắp nơi. Vì tôi không có ở nhà, nên họ đến nhà bố mẹ tôi, họ bắt và nhốt người mẹ ngoại đạo của tôi. Khi biết chuyện, tôi rất tức giận. Đức tin của tôi đúng đắn và hợp lẽ, chia sẻ phúc âm cũng là một điều chính nghĩa. Chính phủ truy lùng tôi khắp nơi vì đức tin của tôi, và họ nói sẽ không thả mẹ tôi ra nếu chưa bắt được tôi. Công bằng ở đâu, công lý ở đâu? Người thân của tôi không hiểu tôi, nói rằng vì đức tin của tôi mà mẹ tôi bị bắt. Họ gọi cho tôi và kết tội tôi là vô lương tâm. Anh trai và chị gái của tôi còn bảo tôi nên tự thú. Tôi rất đau khổ, và rất sợ mẹ tôi sẽ phải chịu đau đớn. Tôi tiếp tục chia sẻ phúc âm, nhưng không còn tích cực như trước. Trong đau khổ, tôi cầu nguyện Đức Chúa Trời, “Lạy Đức Chúa Trời, vóc giạc của con quá nhỏ. Thấy cảnh mẹ con bị bắt và người thân không hiểu con – lòng con đau đớn lắm. Xin Ngài cho con đức tin để con có thể đứng vững”. Cầu nguyện xong tôi đọc lời Đức Chúa Trời. “Không có lấy một người trong các ngươi nhận được sự bảo vệ của luật pháp – thay vào đó, các ngươi bị luật pháp trừng trị. Thậm chí còn khó khăn hơn nữa là mọi người không hiểu các ngươi: dù là họ hàng, cha mẹ, bạn bè, hay đồng nghiệp của các ngươi, không một ai trong số đó hiểu các ngươi cả. Khi các ngươi bị Đức Chúa Trời ‘bỏ rơi’, các ngươi không thể nào tiếp tục sống trên đất, nhưng ngay cả như vậy, mọi người cũng không thể chịu được việc phải xa Đức Chúa Trời, đó là ý nghĩa của sự chinh phục con người của Đức Chúa Trời, và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời(Công tác của Đức Chúa Trời có đơn giản như con người tưởng tượng không? Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời thưc sự khiến tôi xúc động. Là tín hữu, chia sẻ phúc âm và chọn con đường đúng đắn trong đời là điều chính nghĩa nhất trên thế gian này. Nhưng ở các quốc gia chống lại Đức Chúa Trời, các tín hữu chẳng những không có sự bảo vệ hợp pháp, mà họ còn bị lên án và bắt bớ, cả người thân cũng bị liên lụy. Chính phủ nói những kẻ buôn ma túy và giết người có thể được tha tội; chỉ có tín hữu là không được tha. Hơn nữa, một khi tín hữu bị bắt, họ sẽ bị phạt, bị tống giam, hoặc bị giao cho một cơ quan chính quyền để làm khổ sai. Các tín hữu không được đối xử như một con người. Đây đúng là một quốc gia tăm tối và tà ác. Đây là thành Sô-đôm thời hiện đại, chống đối Đức Chúa Trời. Là một tín hữu, đi theo Đức Chúa Trời thời nay đồng nghĩa với bị bách hại, nhưng tôi hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời dùng những khó khăn đó để hoàn thiện đức tin của tôi, đồng thời cho tôi đạt được sự phân định về thực chất tà ác chống đối Đức Chúa Trời của chính phủ để tôi có thể cự tuyệt và từ bỏ Sa-tan, thực tâm hướng về Đức Chúa Trời. Tôi không còn cảm thấy tiêu cực khi hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời, và sẵn sàng dựa cậy Đức Chúa Trời, tiếp tục chia sẻ phúc âm.

Tôi tập hợp các tín hữu mới và thông công về lời Đức Chúa Trời với họ để giúp họ hiểu công tác của Đức Chúa Trời và ý muốn của Ngài. Chúng tôi cùng nghe một bài thánh ca lời Đức Chúa Trời, “Thời gian đã mất sẽ không bao giờ quay lại”. “Hãy thức tỉnh, các anh em! Hãy thức tỉnh, các chị em! Ngày của Ta sẽ không bị trì hoãn; thời gian là sự sống, và giành lại thời gian là cứu rỗi sự sống! Thời gian không còn xa! Nếu các ngươi trượt kỳ thi tuyển sinh đại học, các ngươi có thể học và thi lại bao nhiêu lần tùy thích. Tuy nhiên, ngày của Ta sẽ không bị trì hoãn thêm nữa. Nhớ nhé! Nhớ nhé! Ta thúc giục các ngươi bằng những lời tốt đẹp này. Sự kết thúc của thế giới mở ra trước mắt các ngươi, và những đại họa nhanh chóng đến gần. Cái nào quan trọng hơn: cuộc sống các ngươi, hay giấc ngủ các ngươi, đồ ăn thức uống và quần áo của các ngươi? Đã đến lúc các ngươi phải cân nhắc những điều này” (Theo Chiên Con và hát những bài ca mới). Nghe xong bài thánh ca, tôi thông công, “Có người nói họ sẽ tin một khi những thế lực Sa-tan sụp đổ, và không còn đàn áp nữa, nhưng lúc đó, công tác cứu rỗi nhân loại của Đức Chúa Trời sẽ kết thúc, và chúng ta sẽ hoàn toàn mất cơ hội được Đức Chúa Trời cứu rỗi. Nếu chúng ta bị chính phủ kìm hãm và nếu họ cấm thì không dám tin Đức Chúa Trời, vậy liệu chính phủ có cứu được chúng ta không? Không thể, chắc chắn là như thế. Chỉ Đức Chúa Trời mới cứu rỗi chúng ta. Nếu chúng ta nghe họ mà không tin, thì sẽ đánh mất sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời vào thời kỳ sau rốt. Khi công tác của Đức Chúa Trời kết thúc, chúng ta sẽ bị hủy diệt cùng với chính phủ. Chúng ta đã chịu đau khổ từ sự bức bách và bắt bớ của chính phủ vì đức tin của mình, nhưng sự đau khổ này có giá trị. Chúng ta phải trả giá nếu muốn nhận được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời cai quản mọi sự, nên việc chúng ta bị bắt hay không đều nằm trong tay Ngài. Nếu chúng ta bị bắt, là do Đức Chúa Trời cho phép như vậy. Chúng ta nên quy phục Ngài và rút ra bài học”. Sau đó tôi đọc thêm lời Đức Chúa Trời Toàn Năng. “Những người mà Đức Chúa Trời gọi là ‘người đắc thắng’ là những người vẫn có thể đứng ra làm chứng và duy trì sự tin tưởng, tận tâm của họ với Đức Chúa Trời khi ở dưới sự ảnh hưởng của Sa-tan và đồng thời bị vây hãm bởi Sa-tan, nghĩa là, khi họ thấy chính mình giữa những thế lực của bóng tối. Nếu ngươi vẫn có thể giữ một lòng thuần khiết trước Đức Chúa Trời và duy trì tình yêu đích thực của ngươi đối với Đức Chúa Trời bất kể thế nào, thì ngươi đang đứng ra làm chứng trước Đức Chúa Trời, và đây là điều Đức Chúa Trời nói về ‘người đắc thắng’(Ngươi nên duy trì sự tận tâm của mình với Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Giờ ngươi nên hiểu lý do Đức Chúa Trời không tiêu diệt Sa-tan trong thời kỳ Ngài cứu rỗi con người là để con người có thể thấy rõ Sa-tan đã làm họ bại hoại ra sao và nó đã làm họ bại hoại đến mức nào, cũng như cách Đức Chúa Trời làm tinh sạch và cứu rỗi họ. Cuối cùng, khi con người đã hiểu được lẽ thật và thấy rõ được bộ mặt ghê tởm của Sa-tan, thấy được tội lỗi khủng khiếp của việc Sa-tan làm họ bại hoại, thì Đức Chúa Trời sẽ tiêu diệt Sa-tan, cho họ thấy sự công chính của Ngài(Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Tôi tiếp tục thông công, “Đức Chúa Trời cho phép sự đàn áp và bắt bớ của chính phủ là để thử xem chúng ta có thực sự tin vào Đức Chúa Trời, có đức tin hay không. Qua sự đàn áp và hoạn nạn này, nếu chúng ta giữ được đức tin với Ngài, và không tiêu cực rút lui, không phản bội Ngài, mà thay vào đó tiếp tục đi theo Ngài, hội họp và chia sẻ phúc âm, thì như thế sẽ có chứng ngôn, Sa-tan sẽ bị hạ nhục và thất bại. Sự đau khổ đó rất có giá trị. Vậy tại sao Đức Chúa Trời không hủy diệt Sa-tan ngay đi? Là để dùng Sa-tan như một cách để hoàn thiện nhóm những người đắc thắng đồng thời để chúng ta biết phân biệt thiện ác. Chúng ta có thể thấy công tác của Đức Chúa Trời cứu rỗi con người như thế nào, và cách mà Sa-tan làm bại hoại và hãm hại con người. Rồi một ngày, khi Đức Chúa Trời hủy diệt Sa-tan, chúng ta sẽ thấy Đức Chúa Trời công chính như thế nào. Nếu Đức Chúa Trời trực tiếp hủy diệt Sa-tan, chúng ta sẽ bị Sa-tan mê hoặc, không phân định được nó, sẽ không căm ghét và từ bỏ nó. Giống như những chế độ Sa-tan chống lại Đức Chúa Trời đó – chúng rất giỏi ngụy trang và mê hoặc. Chúng tỏ ra bề ngoài tử tế chỉ là để mọi người sùng bái chúng. Đức Chúa Trời Toàn Năng đã xuất hiện và đang công tác vào thời kỳ sau rốt để cứu rỗi nhân loại. Ngài đã phơi bày thực chất ma quỷ chống đối Đức Chúa Trời của những chế độ đó. Chúng chối bỏ và lên án Đức Chúa Trời Toàn Năng, bắt bớ, phạt tiền, bỏ tù và tống giam những người tin vào Ngài. Chúng cũng không khác gì quỷ Sa-tan, bắt con người sùng bái, không cho họ tin và đi theo Đức Chúa Trời. Cuối cùng chúng sẽ bị giáng xuống địa ngục và bị trừng phạt cùng với nó”. Sau thông công đó, những người mới đã có sự phân định và đức tin, tất cả đều tích cực tham gia hội họp. Tôi rất phấn khởi.

Sau đó, các tín hữu mới đã đưa thêm thân nhân và bạn bè đến nghe giảng. Chỉ sau mấy ngày, hơn 80 người ở làng đó đã tiếp nhận công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Tôi đã thấy sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời được tôi thực hiện dựa trên thủ đoạn của Sa-tan. Sa-tan giở mọi thủ đoạn để ngăn cản công tác phúc âm, khiến chúng tôi nản lòng và tiêu cực, nhưng lời Đức Chúa Trời đã cho chúng tôi đức tin và sức mạnh. Chúng tôi dốc hết sức lực chia sẻ phúc âm, và đã thấy được sự dẫn dắt và phước lành của Đức Chúa Trời. Tôi vô cùng cảm tạ Đức Chúa Trời. Tôi đã thấy con người không thể ngăn cản những gì Đức Chúa Trời muốn hoàn thành, và càng chia sẻ phúc âm tôi càng có thêm đức tin.

Tháng 9 năm 2022, một tín hữu mới đã đưa chúng tôi đến thôn của bố mẹ chị ấy để rao giảng phúc âm, ở đó có hơn 40 người đang muốn tìm hiểu con đường thật. Tôi rất phấn khởi và bắt đầu chia sẻ chứng ngôn về công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời với họ. Rồi tôi nhận được tin báo chính quyền trong vùng đã cho trưng ảnh tôi ở cuộc họp và nói tôi bị truy nã, và bảo mọi người trình báo nếu thấy tôi rao giảng phúc âm. Cảnh sát còn dựng rào chắn chặn xe để truy tìm tôi. Tôi nghĩ, cảnh sát truy tìm tôi khắp nơi như vậy, nếu lỡ như có một ngày họ bắt được tôi, có thể họ sẽ giết tôi mất. Tôi có nên chia sẻ phúc âm nữa không? Nếu tôi dừng lại thì dân làng đang tìm hiểu công tác của Đức Chúa Trời dang dở biết phải làm sao? Họ sẽ không thể nghe tiếng Đức Chúa Trời và tiếp nhận công tác mới của Ngài. Tôi sẽ không hoàn thành trách nhiệm của mình. Sau đó, vì lo cho sự an toàn của tôi mà các anh chị em muốn tôi chuyển đi. Tôi cũng rất sợ nên đã rời đi. Sau đó tôi cảm thấy rất tội lỗi. Tôi muốn quay lại và tiếp tục rao giảng phúc âm với dân làng. Nên tôi đã cầu nguyện Đức Chúa Trời, “Lạy Đức Chúa Trời, cảnh sát đang truy tìm con khắp nơi, con sợ lắm. Nhưng con biết việc con bị bắt hay không đều nằm trong tay Ngài. Con muốn phó thác mọi sự cho Ngài. Xin hãy dẫn dắt con để con có đức tin hầu tiếp tục rao giảng và làm chứng cho Ngài”. Sau đó tôi đọc một đoạn lời Đức Chúa Trời. “Ngươi có ý thức được trọng trách mình mang trên vai, có ý thức được việc mình được ủy nhiệm và trách nhiệm của ngươi không? Ý thức về sứ mạng lịch sử của ngươi đâu rồi? Ngươi sẽ là chủ nhân trong thời đại kế tiếp một cách tương xứng như thế nào? Ngươi có ý thức rõ về vai trò làm chủ không? Ngươi giải thích thế nào về chủ nhân của vạn vật? Có thật đấy là chủ nhân của mọi sinh vật sống và của mọi thứ vật chất trên đời này không? Ngươi có kế hoạch gì cho sự tiến triển trong giai đoạn tiếp theo của công tác? Bao nhiêu người đang chờ đợi ngươi làm người chăn dắt của họ? Nhiệm vụ của ngươi có nặng nề không? Họ là những người tội nghiệp, đáng thương, mù quáng, và hoang mang, đang kêu gào trong bóng tối rằng: ‘Con đường ở đâu?’ Họ mới trông ngóng ánh sáng làm sao, ánh sáng mà bất thần lao xuống như một ngôi sao băng và xua tan các thế lực của bóng tối đã chế ngự con người biết bao năm. Ai có thể biết hết mức độ mà họ khắc khoải hy vọng đến thế nào, họ ngày đêm mong ngóng điều này đến thế nào? Thậm chí vào ngày sự sáng lóe qua, những người chịu đau khổ ghê gớm này vẫn bị cầm tù trong ngục tối, chẳng có hy vọng được phóng thích; khi nào họ mới hết khóc than? Thật bất hạnh ghê gớm cho những linh hồn yếu đuối chưa từng được ban cho sự nghỉ ngơi này, và từ lâu họ đã bị giam chặt trong tình trạng này bởi những gông cùm tàn nhẫn và lịch sử bất động. Ai đã nghe tiếng kêu gào của họ? Ai đã chứng kiến tình trạng thảm thương của họ? Ngươi có bao giờ thoáng nghĩ lòng Đức Chúa Trời lo lắng và đau buồn đến thế nào không? Làm sao Ngài có thể chịu nổi khi thấy nhân loại vô tội do chính tay Ngài tạo dựng lại phải chịu sự dằn vặt như vậy? Xét cho cùng, loài người là những nạn nhân đã bị đầu độc. Và mặc dù con người đã sống sót đến ngày nay, nhưng có ai biết được rằng nhân loại từ lâu nay đã bị kẻ ác đầu độc không? Ngươi đã quên mất rằng ngươi là một trong số những nạn nhân sao? Chẳng lẽ ngươi không sẵn lòng đấu tranh, vì tình yêu của ngươi dành cho Đức Chúa Trời, để cứu rỗi những người sống sót này sao? Chẳng lẽ ngươi không sẵn lòng dốc hết mọi sức lực để đền đáp Đức Chúa Trời, Đấng yêu thương nhân loại như máu thịt của chính Ngài sao? Sau tất cả những gì xảy ra, thì ngươi diễn giải việc được Đức Chúa Trời dùng đến để sống cuộc đời phi thường như thế nào? Ngươi có thật sự có quyết tâm và tự tin để sống một cuộc đời đầy ý nghĩa của một người ngoan đạo, hầu việc Đức Chúa Trời không?(Ngươi nên chú tâm đến sứ mạng tương lai của ngươi như thế nào? Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời khích lệ tôi rất nhiều, nhưng cũng khiến tôi thấy tội lỗi. Rất nhiều người vẫn chưa tiếp nhận sự cứu rỗi thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời, và sống dưới quyền lực của Sa-tan. Họ rất bất lực và đau khổ. Đức Chúa Trời thương xót họ và thấy cấp bách cho họ. Có người làm lụng quanh năm suốt tháng để kiếm tiền, sống cuộc sống cực khổ, mệt mỏi, có người thấy trống rỗng và đau khổ trong lòng kể cả khi đã có tiền. Họ không biết giá trị của đời người và không tìm thấy phương hướng. Có người muốn tìm kiếm con đường thật, nhưng lại quá sợ sệt vì sự đàn áp và bắt bớ của chính phủ. Vậy nghĩa là chúng tôi cần thông công lời Đức Chúa Trời với họ, làm chứng cho công tác của Đức Chúa Trời, dùng lời Đức Chúa Trời để giải quyết vấn đề của họ, để họ thấy được lẽ thật, ánh sáng và hy vọng trong lời Đức Chúa Trời, và tiếp nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Hơn nữa, thảm họa đang trở nên nghiêm trọng hơn, nhiều người vẫn chưa nghe tiếng Đức Chúa Trời. Họ không có nơi để hướng về trong thảm họa. Chia sẻ phúc âm với những người này là trách nhiệm của tôi. Đức Chúa Trời không muốn bất cứ ai Ngài muốn cứu rỗi gặp nạn trong thảm họa. Nếu tôi ngừng rao truyền phúc âm vì an toàn bản thân thì chính là từ bỏ bổn phận. Như thế tôi sẽ mắc nợ Đức Chúa Trời rất nhiều và không đáng được gọi là một phần của nhà Ngài. Tôi nhớ mình đã từng giống như những dân làng đó, sống dưới sự khống chế của Sa-tan mà không có mục tiêu hay hy vọng. Đức Chúa Trời đã thôi thúc anh chị em chia sẻ phúc âm với tôi hết lần này đến lần khác, đến khi tôi nghe được tiếng Đức Chúa Trời và nhận được sự cứu rỗi thời kỳ sau rốt của Ngài. Đó là tình yêu và sự bao dung của Đức Chúa Trời dành cho tôi. Tôi phải quan tâm ý muốn của Đức Chúa Trời, làm hết khả năng để làm chứng cho công tác của Đức Chúa Trời và đền đáp tình yêu của Ngài. Hôm sau, tôi lên đường trở về thôn đó để tiếp tục chia sẻ phúc âm. Nhưng mấy hôm sau, người mới đã đưa chúng tôi đến đó có việc gấp nên phải rời đi. Tôi khá lo lắng. Không có người địa phương bảo vệ, liệu tôi có bị bắt không? Nhưng nếu tôi ngừng chia sẻ phúc âm, thì những người đang tìm hiểu con đường thật sẽ bị trì hoàn việc tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Mấy ngày qua, vì muốn tìm kiếm và tìm hiểu mà họ đã lén trốn lên đồi để nghe chúng tôi rao giảng Lòng họ đầy khao khát. Nếu tôi chạy trốn vì sợ bị bắt, không chịu tiếp tục rao giảng, tôi sẽ mắc nợ họ, cũng như làm Đức Chúa Trời đau lòng. Nên tôi đã gặp từng người đang tìm hiểu con đường thật và đọc cho họ nghe lời Đức Chúa Trời Toàn Năng. Cuối cùng, tất cả đều tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Sau đó, họ đưa những người khác tới nghe giảng. Ngày càng nhiều người tiếp nhận công tác mới của Đức Chúa Trời khi nghe những lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Thấy được sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời, tôi cảm thấy vô cùng đội ơn Ngài. Dân quân thôn thường xuyên tuần tra buổi tối, vì vậy chúng tôi khó hội họp. Nên tôi đã thông công lời Đức Chúa Trời với các tín hữu mới để giúp họ nhìn thấu thủ đoạn của Sa-tan và biết cách hội họp bí mật. Hiểu được điều đó, họ không còn bị chính phủ gây ảnh hưởng nữa. Họ lén trốn lên đồi hoặc nấp trong ruộng rau để hội họp vào ban đêm. Thấy như thế, tôi càng có thêm động lực để rao giảng.

Tôi nhớ có lần, có một chị bảo tôi rằng có mấy người mà tôi rao giảng đã bị chính phủ bắt vì nghe giảng. Người nhà ngoại đạo của họ tới nhà tìm tôi, nói rằng họ sẽ giết tôi. Chị ấy bảo tôi phải cẩn thận. Tôi rất sợ. Nếu lúc đó tôi ở nhà, ai mà biết họ sẽ làm gì với tôi. Nếu tôi tiếp tục rao truyền phúc âm ở đó rồi chẳng may bị họ tóm được, chắc chắn họ sẽ không dễ dàng tha cho tôi. Tôi mới nghĩ đến chuyện rời khỏi đó và không chia sẻ phúc âm ở nơi đó nữa. Nhưng nghĩ đến chuyện ra đi làm tôi thấy rất buồn. Rồi tôi nhớ tới những lời này từ Đức Chúa Trời: “Ngươi biết rằng muôn vật trong môi trường quanh ngươi được ở đó là bởi sự cho phép của Ta, tất cả đều được Ta lên kế hoạch. Hãy nhìn cho rõ và làm thỏa lòng Ta trong môi trường mà Ta đã ban cho ngươi. Đừng lo sợ, Đức Chúa Trời Toàn Năng vạn quân chắc chắn sẽ ở bên ngươi; Ngài đứng sau các ngươi và Ngài là cái khiên của các ngươi(Những lời của Đấng Christ buổi ban đầu – Chương 26, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Có thể thấy từ lời Đức Chúa Trời rằng tôi gặp hoàn cảnh này là do sự cho phép của Đức Chúa Trời. Vì tôi đang chia sẻ phúc âm, làm chứng về công tác của Đức Chúa Trời, Sa-tan chắc chắc sẽ không ngừng cản trở tôi, dùng nhiều thủ đoạn để làm nhiễu loạn tâm trí tôi, khiến cho tôi sợ hãi mà ngừng rao truyền phúc âm. Đó là dụng ý hiểm ác của Sa-tan. Nếu tôi vì sợ hãi mà ngừng rao truyền phúc âm để giữ lấy tính mạng, chẳng phải tôi đang mắc mưu Sa-tan sao? Việc tôi có bị bắt hay không, có bị hại chết hay không, tất cả đều nằm trong tay Đức Chúa Trời. Gióp đã chịu nhiều đau khổ khi Sa-tan thử thách ông. Ông mất hết con cái, của cải, khắp người nổi đầy nhọt độc. Nhưng Đức Chúa Trời không cho phép Sa-tan lấy mạng Gióp. Sa-tan không dám trái lời Đức Chúa Trời – nó không dám làm hại tính mạng của Gióp. Còn bây giờ, nếu Đức Chúa Trời không cho những người đó hãm hại tôi thì họ không thể làm gì tôi được. Sự sống của tôi nằm trong tay Đức Chúa Trời – họ không thể quyết định chuyện sinh tử của tôi. Nếu tôi bị bắt thì ẩn sau đó là ý tốt của Đức Chúa Trời, và tôi nên quy phục. Tôi tự nhủ, vì tình hình ở thôn này đang diễn biến xấu nên tôi có thể tới thôn khác rao giảng. Sẽ không sao nếu tôi khôn khéo một chút và chú ý an toàn. Đức Chúa Jêsus phán: “Khi nào người ta bắt bớ các ngươi trong thành nầy, thì hãy trốn qua thành kia(Ma-thi-ơ 10:23). Sau đó tôi đọc thêm nhiều lời Đức Chúa Trời Toàn Năng. “Nếu ngươi thừa nhận mình là một loài thọ tạo, thì ngươi phải tự chuẩn bị để chịu khổ và phải trả giá vì việc làm tròn trách nhiệm truyền bá Phúc Âm và vì việc thực hiện tốt bổn phận của mình. Cái giá có thể là phải chịu sự đau đớn hoặc khó khăn nào đó về thể chất, hay chịu sự bức hại của con rồng lớn sắc đỏ hoặc sự hiểu lầm của người phàm, cũng như những khổ cực mà người ta phải trải qua khi rao truyền Phúc Âm: bị bán đứng, bị đánh đập và mắng mỏ, bị lên án – thậm chí bị tấn công và nguy hiểm đến tính mạng. Có thể rằng, trong quá trình truyền bá Phúc Âm, ngươi sẽ chết trước khi công tác của Đức Chúa Trời được hoàn tất, cũng như ngươi sẽ không sống để nhìn thấy ngày vinh hiển của Đức Chúa Trời. Ngươi phải chuẩn bị cho điều này. Điều này không có nghĩa làm cho các ngươi sợ hãi; nó là một sự thật. … Các môn đồ đó của Đức Chúa Jêsus đã chết như thế nào? Trong số các môn đồ, có những người bị ném đá, bị kéo lê phía sau một con ngựa, bị đóng đinh lộn ngược xuống, bị ngũ mã phanh thây – mọi kiểu chết chóc đã xảy đến với họ. Lý do cho cái chết của họ là gì? Họ đã bị xử tử đúng luật vì tội lỗi của họ phải không? Không. Họ đã bị kết án, đánh đập, chửi rủa và bị kết án tử hình vì họ truyền bá Phúc Âm của Chúa và bị mọi người của thế gian chối bỏ – đó là cách họ tử vì đạo. … Bất kể những cách thức họ chết và ra đi như thế nào đi nữa, hay nó đã xảy ra làm sao, thì đó cũng không phải là cách Đức Chúa Trời định đoạt kết cục cuối cùng cho những cuộc đời đó, những loài thọ tạo đó. Đây là một điều ngươi phải thấy rõ. Trái lại, họ đã sử dụng một cách chính xác những cách thức đó để lên án thế gian này và chứng thực cho những việc làm của Đức Chúa Trời. Những loài thọ tạo này đã sử dụng mạng sống quý giá nhất của họ – họ đã sử dụng khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời để chứng thực cho những việc làm của Đức Chúa Trời, để chứng thực cho quyền năng vĩ đại của Đức Chúa Trời và tuyên bố cho Sa-tan và thế gian rằng những việc làm của Đức Chúa Trời là đúng, rằng Đức Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời, rằng Ngài là Chúa và là xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời; thậm chí đến giây phút cuối cùng của cuộc đời họ, họ không bao giờ chối bỏ danh của Đức Chúa Jêsus. Đây chẳng phải là một hình thức phán xét thế gian này sao? Họ đã dùng mạng sống của mình để tuyên bố với thế gian, để xác nhận với loài người rằng Đức Chúa Jêsus là Chúa, rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, rằng Ngài là xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời, rằng công tác cứu chuộc mà Ngài đã thực hiện cho cả nhân loại cho phép nhân loại tiếp tục sống – thực tế này đời đời không bao giờ thay đổi. Những người đã tử vì đạo vì rao truyền Phúc Âm của Đức Chúa Jêsus, họ đã thực hiện bổn phận của mình đến mức độ nào? Đã đến mức tối đa chưa? Mức tối đa được biểu lộ như thế nào? (Họ đã dâng mạng sống của mình.) Đúng vậy, họ đã trả giá bằng mạng sống của mình. Gia đình, của cải và những thứ vật chất của cuộc đời này đều là những thứ bên ngoài; điều duy nhất mang tính nội tại đối với bản thân là sự sống. Đối với mỗi người sống, thì sự sống là thứ đáng trân trọng nhất, là thứ quý giá nhất và, thật tình cờ, những người này đã có thể dâng tài sản quý giá nhất của họ – sự sống – như một sự xác nhận và lời chứng cho tình yêu của Đức Chúa Trời đối với nhân loại. Cho đến ngày họ chết, họ không chối bỏ danh của Đức Chúa Trời, họ cũng không chối bỏ công tác của Đức Chúa Trời, và họ đã sử dụng khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời mình để chứng thực cho sự hiện hữu của sự thật này – chẳng phải đây là dạng chứng ngôn cao cả nhất sao? Đây là cách thực hiện bổn phận tốt nhất; đây là ý nghĩa của việc làm tròn trách nhiệm của một người. Khi Sa-tan đe dọa và uy hiếp họ, và cuối cùng, ngay cả khi nó khiến họ phải trả giá bằng mạng sống của mình, thì họ vẫn không từ bỏ trách nhiệm của mình. Đây là ý nghĩa của việc thực hiện bổn phận đến mức tối đa. Ý của Ta qua điều này là gì? Có phải Ta có ý là muốn các ngươi sử dụng cùng một phương pháp để chứng thực về Đức Chúa Trời và để truyền bá Phúc Âm không? Ngươi không nhất thiết phải làm như thế, nhưng ngươi phải hiểu rằng đây là trách nhiệm của ngươi, rằng nếu Đức Chúa Trời cần ngươi, thì ngươi nên chấp nhận như một nghĩa vụ đạo đức(Truyền bá Phúc Âm là bổn phận mà mọi tín đồ đều phải thực hiện, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời Đức Chúa Trời đã giúp tôi nhận ra khi các môn đồ của Đức Chúa Jêsus nỗ lực rao truyền phúc âm, họ đã bị thế nhân lên án, giam hãm, và chịu đủ mọi sự bách hại. Nhiều người đã tử vì đạo. Nhưng dù gặp phải kết cục thế nào, họ vẫn có thể từ bỏ mạng sống quý giá, không bao giờ chối bỏ Đức Chúa Trời cho dù phải chết. Họ làm chứng cho Đức Chúa Trời và tôn vinh Ngài bằng cả mạng sống. Đó là những chứng ngôn cao quý nhất và là cách tốt nhất để thực hiện bổn phận. Còn tôi, bị chính phủ truy đuổi và những kẻ ác đe dọa, tôi tham sống sợ chết và muốn trốn khỏi thôn, ngừng rao giảng và chăm tưới người mới. Chứng ngôn của tôi ở đâu? Tôi phản tỉnh: Tại sao tôi sợ hãi khi gặp phải tình huống sinh tử như vậy? Là vì tôi quá coi trọng mạng sống, không hiểu chuyện sinh tử. Kỳ thực Đức Chúa Trời đã định trước chuyện sinh tử của chúng ta. Được chết vì Đức Chúa Trời, tuy xác thịt có thể chết nhưng đó không phải là chết. Không có nghĩa bạn sẽ không có kết cục và đích đến tốt đẹp. Đức Chúa Jêsus phán: “Vì ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai vì cớ ta mà mất sự sống mình thì sẽ được lại(Ma-thi-ơ 16:25). Nếu tôi không thực hiện bổn phận mà phản bội Đức Chúa Trời vì tham sống sợ chết, xác thịt của tôi có thể không đau đớn, nhưng Đức Chúa Trời sẽ ghê tởm mà loại bỏ tôi, và linh hồn của tôi sẽ bị trừng phạt. Nếu tôi có thể hy sinh tính mạng để làm chứng cho Đức Chúa Trời và thà chết còn hơn phản bội Ngài, thì có thể hạ nhục Sa-tan và đó là điều ý nghĩa nhất. Nhận ra điều này, tôi không còn sợ cho tính mạng của mình nữa mà hạ quyết tâm: Chỉ cần không bị giam cầm, chỉ cần còn hơi thở, tôi vẫn sẽ tiếp tục rao truyền phúc âm và làm chứng cho Đức Chúa Trời để hạ nhục Sa-tan. Sau đó tôi tiếp tục rao giảng. Không lâu sau, đa số dân trong thôn đã tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng.

Chúng tôi tới một thôn khác để rao truyền phúc âm. Ban đầu có hơn một chục người gia nhập, nhưng rồi chính quyền xã phát hiện chúng tôi đang rao giảng cho một cặp vợ chồng. Chủ tịch xã, phó chủ tịch xã, thủ quỹ cùng một số dân quân – hơn một chục người – xông vào và bảo chúng tôi phải đi với họ. Lúc đó tôi rất lo lắng. Họ định bắt tôi và tống tôi vào tù sao? Chính phủ đã truy bắt tôi lâu nay. Họ đã nói tên chúng tôi cho từng nhà, bắt phải trình báo nếu phát hiện tôi đang rao giảng. Nếu phát hiện ra tôi, họ sẽ không dễ dàng cho qua đâu. Tôi lại nghĩ đến chuyện các tín hữu mới sẽ bị ảnh hưởng – thế thì biết làm sao? Tôi không ngừng cầu nguyện, cầu xin Đức Chúa Trời cho tôi đức tin để đứng vững làm chứng. Không lâu sau, hai anh chị khác đã tới thôn đó để rao giảng cùng chúng tôi cũng bị bắt. Họ bắt tất cả chúng tôi tới trước chính quyền xã và tịch thu điện thoại. Rồi chủ tịch xã bắt đầu tra hỏi chúng tôi: “Các người là ai? Các người đến đây để rao giảng phúc âm phải không?” Chúng tôi không trả lời. Thế là họ nhốt chúng tôi vào phòng tối và cử năm đến sáu dân quân canh chừng. Trong lòng tôi cứ lo sợ họ sẽ nhận ra tôi. Nếu họ chuyển tôi về quê nhà, chắc chắn tôi sẽ bị tống giam, bị tra tấn và làm nhục. Lãnh đạo chính quyền địa phương nói, nếu bắt được tôi họ sẽ cắt tóc tôi, đeo bảng lên cổ và lôi tôi đi bêu rếu khắp nơi. Tôi cầu nguyện Đức Chúa Trời, “Lạy Đức Chúa Trời, con nguyện quy phục chuyện bị bắt, nhưng vóc giạc của con còn nhỏ. Xin cho con đức tin và xin Ngài dõi theo con để con đứng vững”. Cầu nguyện xong tôi nhớ đến một đoạn phim làm chứng đã từng xem. Một số anh chị em bị cảnh sát Trung Cộng đánh chết trong tù, dù chết, họ cũng không chối bỏ hay phản bội Đức Chúa Trời. Nhiều anh chị em đã bị tra tấn dã man, bị giam hãm và cầm tù, nhưng nhờ cầu nguyện và cậy dựa Đức Chúa Trời, họ càng có thêm đức tin chân thật qua lời Đức Chúa Trời. Họ thề có chết cũng không phản bội Đức Chúa Trời, cho dù có bị tù chung thân. Họ đã làm chứng kiên cường và vang dội. Tôi thấy càng được khích lệ. Tôi nhớ đến lời Đức Chúa Trời. “Đức tin và tình yêu mạnh mẽ nhất là điều chúng ta cần phải có trong giai đoạn công tác này. Chúng ta có thể vấp ngã từ sự sơ suất nhỏ nhất, bởi giai đoạn công tác này khác với tất cả các giai đoạn trước đây: Điều mà Đức Chúa Trời đang hoàn thiện là đức tin của nhân loại, điều vừa vô hình vừa không chạm được. Điều Đức Chúa Trời làm là chuyển đổi lời thành đức tin, thành tình yêu và thành sự sống. Con người phải trải qua hàng trăm sự tinh luyện, đến khi có đức tin mạnh hơn Gióp. Họ phải chịu đựng sự đau khổ và mọi kiểu hành hạ không thể tin được mà không bao giờ rời xa Đức Chúa Trời. Khi họ vâng phục cho đến chết và có đức tin mạnh mẽ nơi Đức Chúa Trời, thì khi ấy giai đoạn công tác này của Đức Chúa Trời hoàn thành(Con đường… (8), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời cho tôi thấy rằng công tác của Ngài vào thời kỳ sau rốt là dùng lời để hoàn thiện đức tin và tình yêu của chúng ta, để chúng ta có thể thực hành và trải nghiệm lời Ngài qua sự đàn áp và gian khổ, để lời Ngài trở thành sự sống của chúng ta. Tôi nhớ lại lúc bị chính phủ đàn áp và truy bắt. Khi tôi khiếp đảm và sợ hãi, chính nhờ lời Đức Chúa Trời đã dẫn dắt, cho tôi đức tin để tiếp tục rao giảng. Giờ tôi đã hiểu ra mình phải có đức tin để đứng vững. Cho dù có bị cầm tù hay bị làm nhục, hoặc thậm chí phải chết, tôi vẫn nguyện quy phục. Rồi tôi nhớ đến một bài thánh ca hội thánh có tên “Chứng ngôn của sự sống”. “Một ngày nào đó tôi có thể bị bắt và bách hại vì làm chứng cho Đức Chúa Trời, sự chịu đựng này là vì sự công chính, trong lòng mình tôi hiểu. Nếu cuộc đời tôi vụt qua trong nháy mắt, Tôi sẽ vẫn cảm thấy tự hào vì có thể theo Đấng Christ và làm chứng cho Ngài trong cuộc đời này. Nếu tôi không thể nhìn thấy sự trọng đại của việc lan rộng Phúc m vương quốc, tôi sẽ vẫn dâng những nguyện ước tốt đẹp nhất. Nếu tôi không thể nhìn thấy ngày vương quốc thành hiện thực nhưng tôi có thể làm Sa-tan hổ thẹn hôm nay, thì lòng tôi sẽ được đầy trànniềm vui và sự bình an. … Lời Đức Chúa Trời truyền đi khắp thế gian, sự sáng đã xuất hiện giữa con người. Vương quốc của Đấng Christ khởi lên và được thiết lập trong nghịch cảnh. Bóng tối sắp qua đi, bình minh công chính đã đến. Thời gian và thực tế đã làm chứng cho Đức Chúa Trời” (Theo Chiên Con và hát những bài ca mới). Bài thánh ca này khích lệ tôi rất nhiều. Tôi hiểu rằng nếu bị bắt vì rao truyền phúc âm thì đó sẽ là bị bách hại vì sự công chính. Bây giờ tôi bị bắt, có thể sẽ phải vào tù, không thể rao giảng được nữa. Nhưng dù bị bắt và bị bách hại, tôi vẫn có cơ hội làm chứng cho Đức Chúa Trời và hạ nhục Sa-tan. Tôi cảm thấy rất tự hào. Nghĩ vậy tôi càng có thêm đức tin. Sáng sớm hôm đó, họ lại tra hỏi chúng tôi. Thấy không moi được thông tin gì nữa, họ phạt chúng tôi 3000 Kyat rồi thả chúng tôi ra. Họ còn cảnh cáo chúng tôi không được rao giảng nữa, và nói nhiều lời phỉ báng Đức Chúa Trời.

Tôi càng căm ghét lũ ma quỷ đó hơn, và sau khi được trả tự do, tôi vẫn tiếp tục rao truyền phúc âm. Một hôm, một anh gọi cho tôi và nói, “Cán bộ xã biết chị là người ngoài đến đây để rao giảng phúc âm. Họ bắt giam tôi và hai người mới nữa để ép chúng tôi bán đứng chị. Nhưng chúng tôi không khai nên họ phạt chúng tôi rồi thả ra. Họ còn nói nếu bắt được chị rao giảng lần nữa sẽ hãm hiếp chị tại chỗ. Họ đang truy tìm chị khắp nơi, mau trốn đi…”. Nghe anh ấy nói thế, tôi thật sự không tin nổi vào tai mình. Nghe nói nếu bắt được tôi đang rao giảng thì họ sẽ hãm hiếp tôi, khiến tôi rất tức giận. Bọn chúng đúng là ác quỷ, không có nhân tính! Tôi chỉ là một tín hữu chia sẻ phúc âm, nhưng chúng lại căm ghét đến vậy. Chúng không cho chúng tôi có đức tin, muốn bắt bớ, bách hại và phạt chúng tôi, thậm chí hãm hiếp và làm nhục tôi. Chúng là lũ ma quỷ chống lại Đức Chúa Trời. Tôi căm hận và không muốn thấy mặt chúng. Chúng càng cản trở và đàn áp tôi, tôi càng muốn rao giảng và làm chứng.

Rồi vào tháng 10, chúng tôi tới một thôn khác để rao truyền phúc âm. Các anh chị em đã từng đến đây rao giảng rồi, nhưng mục sư của họ tung tin thất thiệt để ngăn cản tín hữu tìm hiểu con đường thật và chính phủ bắt đầu truy bắt các tín hữu. Dân làng bị tin đồn mê hoặc cộng thêm sợ bị bắt nên không dám tìm hiểu con đường thật. Chúng tôi rất khó rao truyền phúc âm. Tôi cầu nguyện, cầu xin Đức Chúa Trời dẫn dắt. Sau đó, tôi tìm được bốn người có hiểu biết khá tốt về lẽ thật và thông công với họ con đường thật là gì, con đường giả là gì, và cách Đức Chúa Trời dùng sự đàn áp và quấy phá của Sa-tan vào thời kỳ sau rốt để vạch trần và hoàn thiện con người, để tách lúa mì ra khỏi cỏ dại, tách nữ đồng trinh khôn ra khỏi những nữ đồng trinh dại. Những nữ đồng trinh dại nghe lời con người và Sa-tan. Họ không tìm kiếm và tìm hiểu khi nghe tin Chúa đã đến và phán những lời, nên họ không thể nghênh tiếp chú rể. Chỉ những ai cố gắng nghe tiếng Đức Chúa Trời, kiên định trong đức tin để đi theo Đức Chúa Trời mới là nữ đồng trinh khôn. Chỉ họ mới có thể nghênh tiếp Chúa và dự tiệc cưới cùng Ngài. Nghe tôi thông công xong, bốn người họ đều muốn tiếp tục tìm hiểu. Mấy hôm sau, tôi bắt đầu tổ chức hội họp cho họ, thông công về lời Đức Chúa Trời. Một người nói bảo tôi rằng: “Tôi đã từng nghe lời mục sư và trưởng thôn. Họ nói không được nghe những lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng nên tôi đã không nghe. Tôi suýt bỏ lỡ cơ hội nghênh tiếp sự tái lâm của Chúa. Bây giờ, tôi không nghe con người nữa. Tôi sẽ nghe lời Đức Chúa Trời”. Một người khác nói, “Đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng, tôi tin chắc rằng Ngài chính là Đức Chúa Jêsus tái lâm. Dù người khác có cản trở thế nào, tôi cũng vẫn tiếp nhận Đức Chúa Trời Toàn Năng”. Tôi rất vui khi nghe họ nói những lời đó. Sau đó, họ đưa một số người thân đến nghe giảng, và không lâu sau, hơn 20 người đã tiếp nhận công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Việc các tín hữu mới có thể tìm kiếm con đường thật và đứng vững trước những tin đồn khiến tôi rất cảm động. Đều là nhờ sự dẫn dắt của lời Đức Chúa Trời. Cuối cùng mẹ tôi cũng được thả vào tháng 12. Bà ấy đã phải lao động khổ sai hàng ngày trong mấy tháng trời bị giam giữ. Nhân viên chính phủ nói họ nhất định sẽ bắt tôi và đưa tôi đi. Tôi nhớ lại trước lúc mẹ tôi được thả, cảnh sát thường cầm súng và dùi cui đến nhà để tìm bắt tôi, nói rằng tôi không về nhà thì họ sẽ không thả bà ra. Nhưng bây giờ, chưa bắt được tôi mà họ đã thả mẹ tôi ra rồi. Tôi thực sự đã trải nghiệm rằng Đức Chúa Trời cai quản mọi sự, và việc tôi bị bắt hay không nằm trong tay Ngài. Tôi không còn bị kìm hãm – tôi vẫn tiếp tục rao giảng và làm chứng cho Đức Chúa Trời.

Trên con đường này, tôi đã gặp nhiều khó khăn trong khi rao giảng phúc âm, tiêu cực có và yếu đuối cũng có. Nhưng lần nào lời Đức Chúa Trời cũng dẫn dắt tôi, cho tôi đứng vững trước tiêu cực và yếu đuối, cho tôi đức tin để tiếp tục rao giảng và làm chứng cho Đức Chúa Trời. Tôi thực sự đã trải nghiệm rằng Đức Chúa Trời đang dùng những khó khăn này để hoàn thiện đức tin của tôi. Tôi tạ ơn Đức Chúa Trời. Tôi muốn hoàn thành trách nhiệm của mình, chia sẻ phúc âm thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời đến nhiều người hơn, và đền đáp tình yêu của Đức Chúa Trời.

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Câu chuyện của Angel

Bởi An Kỳ, Myanmar Vào tháng 8 năm 2020, tôi gặp được chị Diệp Hương trên Facebook. Chị ấy bảo tôi rằng Đức Chúa Jêsus đã tái lâm, Ngài...

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger