Tôi sẽ không còn tự ti vì ăn nói vụng về
Ngay từ nhỏ, tôi đã mang tính cách của một người hướng nội, khả năng biểu đạt bản thân rất kém. Tôi không dám nói chuyện khi tiếp xúc với...
Hoan nghênh tất cả những người tìm kiếm sự xuất hiện của Đức Chúa Trời!
Vào đầu tháng 5 năm 2024, tôi đang làm bổn phận vũ đạo trong hội thánh. Một buổi tối nọ, lãnh đạo khu vực báo cho tôi rằng tôi đã được bầu làm lãnh đạo hội thánh. Tôi nghe được tin này thì tim không ngừng đập loạn xạ. Tôi nghĩ thầm: “Sao các anh chị em lại chọn mình làm lãnh đạo chứ? Mình không có thực tế lẽ thật, tố chất cũng kém, thêm vào đó là tâm tính bại hoại nghiêm trọng. Trước đây, mình đã rất nhiều lần thất bại và vấp ngã trong bổn phận. Thế thì sao có thể đảm đương được bổn phận lãnh đạo? Làm bổn phận này chẳng phải là đang chờ bị tỏ lộ và đào thải sao? Nhất là công tác thánh ca và vũ đạo lại quan trọng như vậy, không chừng một ngày nào đó, mình sẽ vì tâm tính bại hoại mà làm ra những chuyện gây nhiễu loạn và gián đoạn, rồi bị lãnh đạo cấp trên tỉa sửa, thậm chí là bị cách chức và xử lý. Vậy chẳng phải mình sẽ thân bại danh liệt, đức tin cũng đi vào đường cùng hay sao?”. Nghĩ đến đây thôi đã khiến lòng tôi nặng trĩu, tôi thậm chí còn nghi ngờ liệu có phải Đức Chúa Trời muốn mượn bổn phận này để đào thải mình không. Sau đó, tôi đến trước Đức Chúa Trời để cầu nguyện và kêu cầu Ngài, xin Ngài giữ cho lòng tôi an tĩnh lại, và giúp tôi có thể hiểu được tâm ý của Ngài. Trong lúc cầu nguyện, tôi ý thức được rằng những con người, sự việc, sự vật mà mình đối mặt mỗi ngày đều là sự tể trị và an bài của Đức Chúa Trời, chứ không phải phát sinh ngẫu nhiên. Tôi có tố chất thế nào và vóc giạc ra sao, Đức Chúa Trời hiểu rất rõ, Ngài cho phép bổn phận này đến với tôi thì chắc chắn có lẽ thật mà tôi nên tìm kiếm và bước vào, thế nên trước tiên, tôi phải tiếp nhận và thuận phục, chứ không nên cự tuyệt hay phản kháng, nếu không thì tôi sẽ thật quá thiếu lý trí. Sau khi cầu nguyện, tôi không còn thoái thác bổn phận lãnh đạo nữa, nhưng trong lòng vẫn thấy như có một tảng đá lớn đè lên, đầy đau khổ và ưu sầu.
Ngày hôm sau, khi tĩnh nguyện, tôi xem được hai video lời chứng trải nghiệm, những lời Đức Chúa Trời được trích dẫn trong đó đã chiếm trọn lòng tôi. Đức Chúa Trời phán: “Có người nghĩ: ‘Bất cứ ai làm lãnh đạo cũng đều ngu muội, vô tri và đang tự chuốc lấy sự hủy diệt cho chính mình, bởi vì làm lãnh đạo thì chắc chắn người ta sẽ bộc lộ sự bại hoại cho Đức Chúa Trời thấy. Nếu họ không làm công việc này thì liệu có bộc lộ sự bại hoại nhiều như vậy không?’. Thật là một ý tưởng hoang đường! Nếu ngươi không làm lãnh đạo, ngươi sẽ không bộc lộ sự bại hoại sao? Không làm lãnh đạo, dù ngươi bộc lộ ít sự bại hoại hơn, thì có nghĩa là ngươi đã đạt được sự cứu rỗi sao? Theo lập luận này, phải chăng tất cả những người không giữ vai trò lãnh đạo đều là những người có thể sống sót và được cứu rỗi? Nói như vậy chẳng phải quá hoang đường sao? Những người giữ vai trò lãnh đạo hướng dẫn dân được Đức Chúa Trời chọn ăn uống lời Đức Chúa Trời và trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời. Yêu cầu và tiêu chuẩn này cao, nên không thể tránh khỏi việc các lãnh đạo sẽ bộc lộ một số tình trạng bại hoại khi mới bắt đầu rèn luyện. Đây là chuyện bình thường và Đức Chúa Trời không định tội. Đức Chúa Trời không những không định tội mà Ngài còn khai sáng, soi sáng và hướng dẫn những người này, cũng như đặt thêm trọng trách lên họ. Miễn sao họ có thể thuận phục sự dẫn dắt và công tác của Đức Chúa Trời thì họ sẽ trưởng thành nhanh hơn trong sự sống so với người thường. Nếu họ là những người mưu cầu lẽ thật thì họ có thể bước vào con đường được Đức Chúa Trời làm cho hoàn thiện. Đây là chuyện được Đức Chúa Trời ban phúc lành nhất. Có người không thấy được điều này, và họ bóp méo sự thật. Theo sự hiểu biết của con người, dù người lãnh đạo có thay đổi đến đâu, Đức Chúa Trời cũng sẽ không quan tâm; Ngài sẽ chỉ xem các lãnh đạo và người làm công bộc lộ sự bại hoại nhiều như thế nào, và chỉ dựa vào chuyện này mà định tội họ. Còn đối với những người không phải là lãnh đạo và người làm công, vì họ ít bộc lộ bại hoại nên dù họ không thay đổi thì Đức Chúa Trời cũng sẽ không định tội họ. Suy nghĩ như thế chẳng phải là hoang đường sao? Chẳng phải đó là báng bổ Đức Chúa Trời sao? Nếu trong lòng ngươi chống đối Đức Chúa Trời nghiêm trọng như vậy thì ngươi có thể được cứu rỗi không? Ngươi không thể được cứu rỗi. Đức Chúa Trời quyết định kết cục của con người chủ yếu dựa trên việc họ có lẽ thật và lời chứng thật hay không, và điều này chủ yếu phụ thuộc vào việc họ có phải là người mưu cầu lẽ thật hay không. Nếu họ quả thật mưu cầu lẽ thật và có thể thực sự hối cải sau khi bị phán xét và hành phạt vì mắc phải vi phạm, thì miễn sao họ không nói những lời hay làm những điều báng bổ Đức Chúa Trời, thì họ chắc chắn sẽ có khả năng đạt được sự cứu rỗi. Theo tưởng tượng của các ngươi, tất cả những tín hữu bình thường theo Đức Chúa Trời đến cùng đều có thể đạt được sự cứu rỗi, còn những người giữ vai trò lãnh đạo đều phải bị đào thải. Nếu được yêu cầu làm lãnh đạo, các ngươi sẽ nghĩ rằng nếu không làm thì không được, nhưng nếu ngươi làm lãnh đạo thì ngươi sẽ vô thức bộc lộ sự bại hoại, và đó giống như tự đưa mình lên đoạn đầu đài vậy. Chẳng phải tất cả những chuyện này là do các ngươi hiểu lầm Đức Chúa Trời sao? Nếu kết cục của con người được xác định dựa trên sự bại hoại mà họ bộc lộ thì không ai có thể được cứu rỗi. Nếu vậy, Đức Chúa Trời thực hiện công tác cứu rỗi còn có ý nghĩa gì nữa? Nếu đúng là như vậy thì sự công chính của Đức Chúa Trời nằm ở đâu? Con người sẽ không thể nhìn thấy tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Vì vậy, các ngươi đều đã hiểu sai ý của Đức Chúa Trời, và điều này cho thấy rằng các ngươi không có nhận thức thực sự về Đức Chúa Trời” (Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời Đức Chúa Trời đã chỉ ra thực trạng của tôi, tôi mới thấy được rằng trong lòng mình ẩn giấu những quan niệm, tưởng tượng và hiểu lầm về Ngài. Tôi cho rằng không làm lãnh đạo trong nhà Đức Chúa Trời thì sẽ ít bộc lộ ra sự bại hoại, và sẽ ít bị lãnh đạo cấp trên tỉa sửa hơn, như vậy thì việc tin Đức Chúa Trời sẽ an toàn, vững chắc hơn, hy vọng được cứu rỗi của tôi cũng sẽ lớn hơn. Còn làm bổn phận lãnh đạo thì liên quan đến nhiều nguyên tắc lẽ thật, trách nhiệm nặng nề hơn, bản thân tôi lại không có thực tế lẽ thật nên khó tránh được việc bộc lộ sự bại hoại, tôi sẽ rất dễ làm ra những chuyện gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của nhà Đức Chúa Trời, rồi bị tỏ lộ và đào thải. Khi thấy Đức Chúa Trời phán rằng những quan niệm này đều là sự hiểu lầm, thậm chí là sự báng bổ của con người đối với Ngài, tôi giật mình và có chút sợ hãi. Tôi không ngờ tính chất của những quan niệm này lại nghiêm trọng đến vậy. Tôi bắt đầu phản tỉnh xem quan điểm này sai lầm ở đâu. Tôi thấy có một số lãnh đạo từng phạm sai lầm, gây nhiễu loạn, gián đoạn nghiêm trọng đến công tác của hội thánh, và đã bị cách chức, thậm chí là thanh trừ hoặc khai trừ. Thế nên tôi cho rằng việc làm lãnh đạo quá nguy hiểm, một khi phạm sai lầm là sẽ bị cách chức hoặc đào thải. Nhưng tôi chưa bao giờ tìm kiếm nguyên tắc của nhà Đức Chúa Trời trong việc cách chức nhân sự. Trên thực tế, việc nhà Đức Chúa Trời cách chức và thay thế lãnh đạo không hề dựa trên hành vi hay biểu hiện nhất thời của họ trong một sự việc, mà là dựa vào sự mưu cầu nhất quán và con đường mà họ đi. Tôi nghĩ đến một lãnh đạo và hai người phụ trách trong hội thánh đã bị cách chức trước đây. Bề ngoài thì có vẻ như họ bị cách chức do không làm tốt một hạng mục công tác nào đó, vi phạm nguyên tắc, làm gián đoạn và chậm trễ công tác, nhưng trên thực tế, đó là vì họ thường không chú trọng việc mưu cầu lẽ thật, không tìm kiếm nguyên tắc trong bổn phận, tùy ý làm càn trong một thời gian dài, gây nhiễu loạn và gián đoạn cho công tác của hội thánh mà không biết hối cải, thế nên mới bị cách chức. Tôi chưa hề tìm hiểu nguyên nhân cho thất bại của họ. Tôi thấy họ chỉ phạm lỗi một lần mà bị cách chức, thì trong lòng đã bắt đầu hiểu lầm và đề phòng Đức Chúa Trời. Chẳng phải như vậy là quá lệch lạc hay sao? Hơn nữa, trong quan niệm của mình, tôi cho rằng nếu một người bộc lộ ra sự bại hoại, có những vi phạm, hoặc bị tỏ lộ trong bổn phận rồi bị cách chức, thì có nghĩa là người đó đã bị Đức Chúa Trời định tội đời đời và không còn hy vọng được cứu rỗi. Đây cũng là một nhận thức sai lầm của tôi. Thực ra, khi tôi nghĩ kỹ lại về những trải nghiệm của bản thân mình và của rất nhiều anh chị em, về cách mà chúng tôi đã bộc lộ tâm tính bại hoại, rồi bị tỏ lộ, vạch trần, định tội, hoặc thậm chí là bị cách chức, tôi biết đây đều là quá trình tất yếu để chúng tôi trải nghiệm sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời. Nhưng Đức Chúa Trời không vì thế mà từ bỏ chúng tôi, Ngài vẫn cho chúng tôi cơ hội để hối cải và thay đổi. Ngài còn dùng lời Ngài để khai sáng và dẫn dắt chúng tôi, khiến chúng tôi dần dần thay đổi tư tưởng, quan điểm và thoát khỏi tâm tính bại hoại. Những thu hoạch này đều là nhờ trải nghiệm sự thất bại và việc bị tỏ lộ mới đạt được. Tôi thấy việc bị tỏ lộ trong bổn phận không phải là bị đào thải, mà là cơ hội để con người đạt được lẽ thật. Nhưng bản tính tôi vốn không yêu thích lẽ thật, không muốn chịu khổ, không sẵn lòng tiếp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời, mà chỉ muốn yên ổn làm một tín đồ bình thường. Tôi cho rằng như vậy thì mình sẽ không gặp phải những thất bại lớn hoặc bị tỏ lộ, sẽ không phải chịu đau khổ hay tinh luyện, và có thể được cứu rỗi. Nhưng tôi lại không ý thức được rằng nếu con người không trải qua sự phán xét và hình phạt thì sẽ không thể thoát khỏi tâm tính bại hoại, quan điểm nhìn nhận sự việc, hành động và việc làm của họ đều sẽ đối nghịch với lẽ thật. Vậy thì làm sao họ có thể được cứu rỗi chứ? Tôi nhận ra mình không hiểu lẽ thật, cũng không biết tâm tính công chính của Đức Chúa Trời, mà chỉ sống trong quan niệm và tưởng tượng của bản thân. Quan điểm nhìn nhận sự việc của tôi quá hoang đường và sai lầm. Đức Chúa Trời quy định kết cục của con người không phải dựa trên việc họ bộc lộ bao nhiêu sự bại hoại, hoặc trước đây đã có bao nhiêu vi phạm, mà là xem xét liệu con người có mưu cầu lẽ thật và thực sự hối cải hay không. Nếu sau khi bộc lộ sự bại hoại mà một người có thể mưu cầu lẽ thật và đạt được sự hối cải thực sự, thì Đức Chúa Trời vẫn ban cho người đó cơ hội được cứu rỗi. Nhưng tôi lại lo lắng về những vi phạm trong bổn phận trước đây của mình, và hiện tại, do không hiểu lẽ thật nên tôi vẫn còn bộc lộ rất nhiều sự bại hoại. Vì vậy, tôi sợ nếu mình không cẩn thận trong bổn phận lãnh đạo thì sẽ xảy ra vấn đề, sẽ bị Đức Chúa Trời ghê tởm và đào thải. Tôi đúng là lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử!
Tôi đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời vạch rõ về nỗi sợ gánh trách nhiệm của con người. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Có một vài người sợ gánh trách nhiệm trong khi làm bổn phận. Nếu hội thánh giao cho họ một công tác để làm, trước tiên họ sẽ cân nhắc xem công tác đó có yêu cầu họ phải gánh trách nhiệm hay không, và nếu có, họ sẽ không nhận công tác đó. Điều kiện của họ để làm một bổn phận, thứ nhất, đó phải là một công tác nhàn rỗi; thứ hai, công tác đó không bận rộn hay mệt mỏi; và thứ ba, bất kể làm gì cũng không phải gánh bất kỳ trách nhiệm nào. Dạng bổn phận như vậy, họ mới chịu đảm nhận. Đây là loại người gì? Đây chẳng phải là người láu cá, giả dối sao? Một chút trách nhiệm, họ cũng không muốn gánh vác. Lá cây rơi xuống mà họ sợ bể đầu. Một người như thế này có thể làm bổn phận gì? Họ có thể có ích gì trong nhà Đức Chúa Trời? Công tác của nhà Đức Chúa Trời liên quan đến công tác chiến đấu với Sa-tan, cũng như việc mở rộng phúc âm của vương quốc. Có bổn phận nào không đòi hỏi trách nhiệm chứ? Các ngươi nói xem, làm lãnh đạo thì có trách nhiệm không? Chẳng phải trách nhiệm của họ càng lớn hơn, và chẳng phải họ càng phải chịu trách nhiệm sao? Ngươi rao truyền phúc âm, làm chứng, làm video, v.v., bất kể là công tác nào, chỉ cần có liên quan đến các nguyên tắc lẽ thật thì đều có trách nhiệm. Nếu ngươi làm bổn phận một cách vô nguyên tắc thì sẽ ảnh hưởng đến công tác của nhà Đức Chúa Trời, nếu sợ gánh trách nhiệm thì ngươi không thể làm bất kỳ bổn phận nào. Sợ gánh trách nhiệm khi làm bổn phận là người ta hèn nhát, hay tâm tính của họ có vấn đề? Ngươi phải biết phân định chuyện này. Thực ra đây không phải là vấn đề hèn nhát. Nếu người đó mưu cầu tiền tài hoặc chuyện gì đó có lợi cho mình, thì dũng khí của họ sẽ lớn đến thế nào? Hiểm nguy nào họ cũng dám chịu. Nhưng khi làm việc cho hội thánh, cho nhà Đức Chúa Trời, họ lại không chấp nhận chút hiểm nguy nào. Những người như vậy thật ích kỷ và đê tiện, là kẻ gian xảo nhất. Hễ ai không gánh trách nhiệm trong khi làm bổn phận đều không có chút lòng thành nào với Đức Chúa Trời, lòng trung thành lại càng khỏi nói đến. Dạng người nào dám gánh trách nhiệm? Dạng người nào dám gánh trọng trách nặng nề? Chính là người dẫn đầu và dũng cảm tiến tới vào thời điểm quan trọng nhất trong công tác của nhà Đức Chúa Trời, người không ngại gánh trọng trách nặng nề và không ngại gian nan nguy hiểm khi họ nhìn ra được công tác quan trọng và chính yếu nhất. Đó mới là người trung thành với Đức Chúa Trời, chiến binh tinh nhuệ của Đấng Christ. Có phải tất cả những người sợ gánh vác trách nhiệm trong bổn phận của mình làm như vậy bởi vì họ không hiểu lẽ thật không? Không, đây là vấn đề về nhân tính. Họ không có tinh thần chính nghĩa, không có tinh thần trách nhiệm, họ là những người ích kỷ và đê tiện, không phải là người thật lòng tin Đức Chúa Trời, và họ không tiếp nhận lẽ thật chút nào. Vì những nguyên nhân này mà họ không thể được cứu rỗi” (Mục 8. Họ khiến người khác chỉ thuận phục họ, chứ không thuận phục lẽ thật hay Đức Chúa Trời (Phần 1), Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ). Thấy sự vạch rõ trong lời Đức Chúa Trời, tôi cảm thấy vô cùng đau lòng. Tôi ý thức được rằng việc mình sợ làm lãnh đạo là do bị tâm tính ích kỷ và giả dối chi phối. Tôi đã làm theo nguyên tắc “Chỉ chiếm lợi chứ đừng chịu lỗ”, muốn được Đức Chúa Trời ban phúc nhưng lại không muốn gánh vác rủi ro lớn. Đây thực chất là hành vi của một kẻ tiểu nhân gian xảo và giả dối. Tôi cảm thấy vũ đạo không chỉ phù hợp với sở thích và thú vui cá nhân của mình, mà tôi còn đạt được kết quả trong bổn phận này nữa. Tôi không phải là người phụ trách chính, nên không phải gánh trách nhiệm gì lớn, như vậy, tôi cảm thấy mình có thể yên ổn làm bổn phận trong hội thánh và có hy vọng được cứu rỗi. Sau khi được chọn làm lãnh đạo, tôi cảm thấy mình bị đẩy ra nơi đầu sóng ngọn gió, bất kỳ lúc nào cũng có nguy cơ bị lật thuyền, nên chỉ muốn trốn tránh và từ chối bổn phận này. Trong quan niệm của mình, tôi cho rằng làm một bổn phận không nổi bật và không gánh vác trách nhiệm lớn là lựa chọn an toàn nhất, chỉ cần đi theo đến cùng thì sẽ có hy vọng được cứu rỗi. Nhưng Đức Chúa Trời phán rằng đây là kiểu người sợ gánh trách nhiệm, người như vậy có vấn đề về nhân tính và không thật lòng tin Ngài, chỉ riêng điều này thôi cũng đã không thể được cứu rỗi rồi. Lúc này, tôi mới thấy quan niệm và tưởng tượng của mình trái ngược với lẽ thật. Tôi bắt đầu ngẫm nghĩ, “Tại sao Đức Chúa Trời lại phán rằng người trốn tránh trách nhiệm là người có nhân tính xấu và hoàn toàn không tiếp nhận lẽ thật chứ?”. Khi làm bổn phận của mình trong nhà Đức Chúa Trời, tôi đã luôn làm theo nguyên tắc “Chỉ chiếm lợi chứ đừng chịu lỗ”. Làm bất kỳ việc gì, đối diện với bất kỳ bổn phận nào, trước tiên tôi đều đánh giá xem việc đó có lợi cho mình không, nếu có lợi thì tôi sẽ làm, không có lợi thì tôi không muốn làm. Kể cả khi biết việc đó liên quan đến lợi ích và công tác của nhà Đức Chúa Trời, tôi cũng không sẵn lòng gánh lấy trọng trách. Tôi nào có đồng lòng với Đức Chúa Trời đâu? Đây chẳng phải là một kẻ tiểu nhân ích kỷ và đê tiện hay sao? Hôm nay, Đức Chúa Trời cung ứng miễn phí mọi thứ cho con người, ban không lẽ thật cho con người, chỉ mong con người có thể thực hành lẽ thật và dùng một tấm lòng chân thành để làm tốt bổn phận của loài thọ tạo. Thế nhưng, tôi tin Đức Chúa Trời nhiều năm, đã hưởng thụ rất nhiều sự cung ứng của Ngài mà chưa bao giờ biết báo đáp Ngài. Thay vào đó, tôi thầm đề phòng Ngài, toan tính với Ngài, chỉ suy nghĩ và lo liệu cho tiền đồ, được mất của bản thân. Như vậy thì tôi có chỗ nào là người thật lòng tin Đức Chúa Trời chứ? Chẳng phải tôi là một kẻ chẳng tin ích kỷ và gian xảo sao? Tôi mang theo tâm thế và quan điểm như vậy để tin Đức Chúa Trời, thế thì làm sao Ngài có thể không ghê tởm tôi cho được? Vì thế, tôi cầu nguyện với Ngài: “Lạy Đức Chúa Trời, con thấy mình quá giả dối và tà ác. Con không muốn sống trong quan niệm, tưởng tượng, sự hiểu lầm và ngờ vực của bản thân nữa. Con sẵn lòng dâng tấm lòng mình lên Ngài và dựa vào lương tâm để gánh vác trách nhiệm của mình. Xin Ngài giúp đỡ và dẫn dắt con”.
Tôi lại thấy trong một video lời chứng trải nghiệm khác có trích dẫn hai đoạn lời Đức Chúa Trời, và tôi đã tìm được con đường thực hành. Đức Chúa Trời phán: “Biểu hiện của một người trung thực là gì? Trước tiên, không có sự hoài nghi nào về lời Đức Chúa Trời. Đó là một trong những biểu hiện của người trung thực. Ngoài ra, biểu hiện quan trọng nhất là tìm kiếm và thực hành lẽ thật trong tất thảy mọi sự – đây là điều quan trọng nhất. Ngươi nói rằng ngươi trung thực, nhưng ngươi luôn gạt lời Đức Chúa Trời sang một bên và cứ làm bất cứ điều gì mình muốn. Đó có phải là biểu hiện của một người trung thực không? Ngươi nói: ‘Tuy tố chất của tôi kém, nhưng tôi có một tấm lòng trung thực’. Thế mà khi có bổn phận giao cho mình, ngươi ngại khổ và ngại chịu trách nhiệm nếu mình làm không tốt, nên ngươi viện cớ để trốn tránh bổn phận của mình hoặc đề nghị người khác làm. Đây có phải là biểu hiện của một người trung thực không? Rõ ràng là không. Vậy thì, một người trung thực nên hành xử như thế nào? Họ nên thuận phục sự sắp đặt của Đức Chúa Trời, có lòng trung thành với bổn phận mà họ phải thực hiện và nỗ lực đáp ứng tâm ý của Đức Chúa Trời” (Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Dù tố chất của ngươi cao hay thấp, dù ngươi có hiểu lẽ thật hay không, thì ngươi phải có thái độ này: ‘Nếu công tác này đã được giao cho mình, thì mình phải đối đãi nghiêm túc với nó; mình phải quan tâm đến nó và tận tâm tận lực làm thật tốt. Về việc liệu mình có thể làm tốt một cách tuyệt đối hay không, mình không thể đảm bảo, nhưng thái độ của mình là mình sẽ nỗ lực làm tốt, tuyệt đối không thể qua loa chiếu lệ. Nếu công tác xảy ra vấn đề thì mình phải chịu trách nhiệm, và đảm bảo rằng mình sẽ rút ra bài học và thực hiện tốt bổn phận của mình’. Đây là thái độ đúng” (Chức trách của lãnh đạo và người làm công (8), Lời, Quyển 5 – Chức trách của lãnh đạo và người làm công). Sau khi đọc hai đoạn lời Đức Chúa Trời này, tôi cảm thấy Đức Chúa Trời thực sự dò xét tận đáy lòng con người và quá hiểu nhu cầu của con người rồi. Khi tôi nghe tin mình được chọn làm lãnh đạo, trong đầu tôi lập tức hiện ra hai cái cớ, “Mình có tố chất kém, làm lãnh đạo thì mỗi ngày đều phải đối mặt với nhiều người, sự việc, sự vật và còn phải xử lý rất nhiều vấn đề. Căn bản là mình không xử lý nổi. Hơn nữa, mình không hiểu lẽ thật và không nhìn thấu sự việc, thế thì có tư cách gì để lãnh đạo các anh chị em chứ?”. Lúc đầu, tôi còn cảm thấy mình suy nghĩ như vậy rất hợp lý, và đó là biểu hiện của sự tự biết mình, nhưng sau khi đọc lời Đức Chúa Trời: “Dù tố chất của ngươi cao hay thấp, dù ngươi có hiểu lẽ thật hay không, thì ngươi phải có thái độ này: ‘Nếu công tác này đã được giao cho mình, thì mình phải đối đãi nghiêm túc với nó; mình phải quan tâm đến nó và tận tâm tận lực làm thật tốt. …’ Đây là thái độ đúng”. Đọc xong, tôi lập tức cứng họng. Hai lý do mà tôi cho là hợp lý ấy, trong mắt Đức Chúa Trời đều không phải là lý do, cũng không phải là khó khăn, và càng không thể cản trở tôi tiếp nhận bổn phận của mình. Tôi cảm thấy Đức Chúa Trời dường như đang đối diện với tôi, và lòng kề lòng mà khuyên răn tôi. Đức Chúa Trời không xem xét tôi có tố chất thế nào hay hiểu được bao nhiêu lẽ thật. Ngài chỉ yêu cầu con người phải nghiêm túc, có trách nhiệm đối với bổn phận, và hết lòng hết sức làm tốt bổn phận của mình là đủ. Tôi vô cùng cảm động, cảm thấy bản thân không còn lý do gì để trốn tránh hay từ chối bổn phận nữa. Tuy có thể sẽ có khó khăn trong bổn phận làm lãnh đạo, nhưng tôi sẵn lòng làm một người trung thực theo lời Đức Chúa Trời, tiếp nhận và thuận phục trước đã.
Sau đó, tôi bắt đầu phân công và làm việc với người chị em phối hợp với tôi, tôi chủ yếu phụ trách công tác của nhóm vũ đạo, còn những việc khác như thánh ca, quay chụp và các công tác sự vụ thì do chị ấy phụ trách chính. Lúc đó, một nhóm vũ đạo trong phạm vi phụ trách của tôi đã hai tháng mà chưa làm ra được tiết mục nào. Lúc đầu, tôi cũng có chút lo lắng, sợ mình không đảm đương được công tác. Tôi không ngừng cầu nguyện và kêu cầu Đức Chúa Trời, xin Ngài ban cho tôi đức tin và ý chí thuận phục để có thể đảm đương được bổn phận. Trong lúc cầu nguyện, tôi nghĩ đến hai cụm từ mà mình từng ghi nhớ được khi đọc lời Đức Chúa Trời: Đầu tiên là “tích cực và chủ động”, và cụm từ còn lại là “theo khả năng của mình”. Tôi ý thức được rằng đây là sự khai sáng và dẫn dắt của Đức Chúa Trời, tôi nên dùng thái độ tích cực và chủ động để làm bổn phận. Tôi có tố chất kém, không hiểu lẽ thật, cũng không thể phát hiện và giải quyết được bao nhiêu vấn đề, thế thì tôi càng phải cậy dựa Đức Chúa Trời để tìm kiếm lẽ thật, và trước hết là nên làm hết khả năng trong những việc mà mình có thể nghĩ ra được và làm được. Sau đó, mỗi ngày tôi đều phó thác tình trạng và khó khăn của mình cho Đức Chúa Trời, cũng như chú ý đến tình trạng của các chị em trong nhóm với tinh thần gánh trọng trách. Khi phát hiện vấn đề, tôi sẽ tìm những nguyên tắc liên quan để thông công và cùng bước vào với các chị em, trong quá trình dàn dựng tiết mục tiết mục, nếu mọi người gặp khó khăn, thì tôi sẽ cùng họ thông công tâm ý của Đức Chúa Trời, rồi dựa theo nguyên tắc mà cùng nhau tìm tòi, dò dẫm. Dần dần, tiết mục cũng có tiến triển. Tôi cảm thấy mỗi ngày đều trôi qua rất trọn vẹn và thoải mái. Lòng tôi dần đến gần Đức Chúa Trời hơn, sự hiểu lầm và ngăn cách đối với Ngài giảm đi rất nhiều, cảm giác trong lòng như bị đè nặng bởi tảng đá lớn cũng từ từ biến mất. Nhóm vũ đạo cũng đã ra được một tiết mục trong vòng một tháng, và được đăng tải lên mạng, và còn được lãnh đạo đánh giá tốt. Tôi rất biết ơn Đức Chúa Trời.
Nhưng không ngờ khoảng ba tháng sau, người chị em phối hợp với tôi vì mù quáng nghe theo sự sắp xếp sai lầm của lãnh đạo giả, mà khiến cho công tác thu âm thánh ca bị tạm dừng mấy ngày, làm gián đoạn và cản trở công tác thánh ca một cách nghiêm trọng. Thêm nữa, lãnh đạo cấp trên phát hiện chị ấy có tố chất kém, không làm được công tác thực tế nên đã cách chức và thay thế chị ấy. Khi tôi nghe được chuyện này, tim lại bắt đầu đập loạn xạ, tôi nghĩ: “Thôi xong rồi, người chị em bị cách chức, thì sau này toàn bộ công tác trong hội thánh đều là do mình gánh vác. Tố chất và năng lực công tác của mình đâu có đủ! Hơn nữa, mình từng nghe về những vấn đề xảy ra trong bổn phận của người chị em phối hợp, nhưng cũng không nhìn ra vấn đề của chị ấy. Nếu đổi lại là mình làm thì cũng sẽ khiến công tác chậm trễ giống như vậy thôi, và hôm nay, người bị cách chức sẽ chính là mình. Với tố chất và năng lực nhìn nhận sự việc như vậy, nếu tiếp tục làm bổn phận này thì chẳng phải sớm muộn gì mình cũng bị cách chức sao? Chi bằng mình từ chức càng sớm càng tốt, tranh thủ lúc chưa gây ra việc ác gì lớn thì rút lui toàn vẹn cho rồi”. Nhưng khi nghĩ như vậy, tôi cũng cảm thấy có lỗi, “Mình cứ luôn muốn từ chức, như vậy chính là không thuận phục Đức Chúa Trời, cũng chẳng có lòng trung thành đối với bổn phận! Nếu mình từ chức và từ bỏ bổn phận, thì chẳng phải công tác này sẽ bị chậm trễ sao? Từ chức thì bản thân mình được nhẹ nhõm, nhưng lại là vô trách nhiệm đối với công tác của nhà Đức Chúa Trời”. Nghĩ đến những điều này, tôi không dám từ chức nữa. Tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài bảo vệ lòng tôi, khai sáng, dẫn dắt để tôi hiểu lẽ thật, và có đức tin để trải nghiệm hoàn cảnh này.
Hoàn cảnh mà Đức Chúa Trời an bài rất kỳ diệu. Tối hôm đó, chúng tôi nhận được một bức thư được gửi từ Trung Quốc, nhắc đến việc hiện nay ở trong nước, con rồng lớn sắc đỏ đang điên cuồng bắt bớ những người tin Đức Chúa Trời, các anh chị em chỉ có thể lẩn trốn khắp nơi để làm bổn phận, và thường xuyên phải đổi nhà tiếp đãi, Bức thư còn khích lệ các anh chị em đã ra được nước ngoài phải trân quý cơ hội làm bổn phận hiện tại, và làm tốt bổn phận của mình. Trong thư cũng trích dẫn một đoạn lời Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời phán: “Phước lành không thể đạt được trong ngày một ngày hai; mà phải trả giá rất nhiều. Tức là, các ngươi phải sở hữu một tình yêu đã qua sự tinh luyện, sở hữu một đức tin lớn lao, và các ngươi phải có nhiều lẽ thật mà Đức Chúa Trời yêu cầu các ngươi phải đạt được; ngoài ra, các ngươi phải hướng về công lý mà không sợ hãi hay lảng tránh, và phải có tấm lòng yêu kính Đức Chúa Trời, một tình yêu bất sắt son cho đến chết. Các ngươi phải có quyết tâm, những sự thay đổi phải diễn ra trong tâm tính sự sống của các ngươi, sự hư hoại của các ngươi phải được chữa trị, các ngươi phải chấp thuận tất cả những sự sắp đặt của Đức Chúa Trời mà không ca thán, và phải thuận phục thậm chí cho đến chết. Đây là điều các ngươi cần phải đạt được, đây là mục tiêu cuối cùng trong công tác của Đức Chúa Trời, và là những gì Đức Chúa Trời yêu cầu đối với nhóm người này” (Công tác của Đức Chúa Trời có đơn giản như con người tưởng tượng không? Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Đọc xong bức thư, tôi cảm thấy vô cùng hổ thẹn. Các anh chị em trong nước mạo hiểm cả mạng sống nhưng vẫn giữ vững bổn phận, còn viết thư để khích lệ các anh chị em ở nước ngoài phải làm tốt bổn phận. Còn tôi thì sao? Tôi đã thoát khỏi sự bắt bớ và bức hại của con rồng lớn sắc đỏ, có thể làm bổn phận trong một môi trường an nhàn, vậy mà khi gặp chút khó khăn và áp lực trong bổn phận, tôi đã muốn trốn chạy và từ bỏ. Tôi như vậy chẳng phải là kẻ hèn nhát sao? Khí phách của tôi ở đâu? Lời chứng của tôi ở đâu chứ? Đức Chúa Trời phán rằng, con người tin và đi theo Ngài thì phải trải nghiệm sự tinh luyện, phải có ý chí chịu khổ, càng cần phải mưu cầu lẽ thật, thay đổi tâm tính sự sống, tiếp nhận và thuận phục mọi sự sắp đặt của Đức Chúa Trời. Tôi cảm thấy từng câu từng chữ này đều là yêu cầu mà Đức Chúa Trời đưa ra cho tôi, là những lẽ thật mà tôi nên thực hành cũng như bước vào ngay lúc này, và nếu tôi từ chức thì sẽ chẳng thực hành được bất kỳ lẽ thật nào trong những lẽ thật này. Thế chẳng phải sẽ khiến Đức Chúa Trời thất vọng và ghê tởm sao? Ngày hôm sau, một người trưởng nhóm vũ đạo muốn từ chức vì không thể phối hợp hài hòa với những người khác. Khi thông công với chị ấy, tôi cũng cởi mở chia sẻ về những sự yếu đuối và khó khăn của mình, và qua việc đọc lời Đức Chúa Trời, tôi dần thấy xúc động trong lòng. Tôi nhận ra bổn phận là sự ủy thác của Đức Chúa Trời, là trách nhiệm mà con người không thể thoái thác. Dù có khổ hay khó khăn đến đâu, tôi cũng không thể chối bỏ bổn phận hoặc làm tổn thương lòng của Đức Chúa Trời.
Sau đó, tôi đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời đặc biệt đúng với tình trạng của tôi và giúp tôi rất nhiều. Đức Chúa Trời phán: “Con người phải tiếp cận bổn phận của mình và tiếp cận Đức Chúa Trời bằng tấm lòng trung thực. Nếu làm được vậy, họ sẽ là người kính sợ Đức Chúa Trời. Những người có lòng trung thực thì có loại thái độ nào đối với Đức Chúa Trời? Chí ít, họ có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, lòng thuận phục Đức Chúa Trời trong mọi sự, họ không hỏi về phúc hay họa, không bàn đến điều kiện, và phó mặc bản thân cho sự sắp đặt của Ngài – đây là những người có lòng trung thực. Những người luôn hoài nghi về Đức Chúa Trời, luôn nghiên cứu Ngài, luôn cố giao dịch với Ngài – họ có phải là những người có lòng trung thực không? (Thưa, không.) Điều gì ẩn chứa trong lòng của những người như vậy? Sự giả dối và tà ác; họ luôn nghiên cứu. Và họ nghiên cứu điều gì? (Thưa, nghiên cứu thái độ của Đức Chúa Trời đối với con người.) Họ luôn nghiên cứu thái độ của Đức Chúa Trời đối với con người. Đây là vấn đề gì vậy? Và tại sao họ lại nghiên cứu điều này? Vì nó liên quan đến những lợi ích sống còn của họ. … Những người đặc biệt trân quý tiền đồ, vận mệnh và lợi ích của mình thì luôn nghiên cứu liệu công tác của Đức Chúa Trời có lợi cho tiền đồ, vận mệnh của họ, có cho họ đạt được phước lành không. Cuối cùng, sự nghiên cứu của họ đem lại kết quả gì? Tất cả những gì họ làm là phản nghịch và chống đối Đức Chúa Trời. Ngay cả khi họ có kiên trì thực hiện bổn phận của mình, họ cũng làm một cách rất qua loa chiếu lệ, với tâm trạng tiêu cực; trong thâm tâm, họ không ngừng suy nghĩ về cách giành lợi thế, để không ở về phía thua thiệt. Đó là những động cơ của họ khi thực hiện bổn phận, và ở điểm này, họ đang cố gắng thực hiện đổi chác với Đức Chúa Trời. Đây là tâm tính gì vậy? Đây là sự giả dối, đây là một tâm tính tà ác. Đây không còn là một tâm tính bại hoại thông thường nữa, nó đã leo thang đến mức tà ác. Và khi có loại tâm tính tà ác này trong lòng người, thì đây là một sự đấu tranh chống lại Đức Chúa Trời. Ngươi nên rõ ràng về vấn đề này. Nếu mọi người luôn nghiên cứu Đức Chúa Trời và cố gắng đổi chác khi họ thực hiện bổn phận của mình, thì liệu họ có thể thực hiện một cách đúng đắn không? Tuyệt đối không. Họ không thờ phượng Đức Chúa Trời bằng tâm hồn mình, và với lòng trung thực, họ không có tấm lòng trung thực, họ trông chừng khi thực hiện bổn phận của mình, luôn dè chừng – và kết cục là gì? Đức Chúa Trời không hoạt động trong họ, và họ trở nên ngu độn, họ không hiểu các nguyên tắc lẽ thật, và họ hành động theo những khuynh hướng của riêng mình, và luôn thất bại. Và tại sao họ luôn thất bại? Bởi vì lòng họ quá thiếu minh mẫn, và khi có chuyện xảy ra với họ, họ không phản tỉnh về bản thân mình, hay tìm kiếm lẽ thật để tìm cách giải quyết, và nhất quyết làm việc theo ý mình, theo sự ưa thích của riêng mình – kết quả là họ luôn hỏng việc khi thực hiện bổn phận. Họ không bao giờ nghĩ đến công tác của hội thánh, cũng như lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, họ luôn mưu tính cho lợi ích của riêng mình, họ luôn lên phương án cho lợi ích, thể diện và địa vị của riêng mình, và không chỉ thực hiện bổn phận một cách tồi tệ mà còn làm trì hoãn và ảnh hưởng đến công tác của hội thánh. Chẳng phải đây là đi chệch hướng và lơ là bổn phận của họ sao? Nếu ai đó luôn mưu toan cho những lợi ích và triển vọng của riêng mình khi thực hiện bổn phận, mà không màng đến công tác của hội thánh hay những lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, thì đây không phải là thực hiện bổn phận. Đây là luôn mưu đồ cho bản thân, làm mọi việc vì lợi ích của riêng mình và để được phước lành cho bản thân. Theo cách này, bản chất đằng sau việc thực hiện bổn phận của họ thay đổi. Đó chỉ là đổi chác với Đức Chúa Trời, và muốn sử dụng việc thực hiện bổn phận của mình để đạt được mục đích riêng. Cách làm việc này rất dễ gây gián đoạn công tác của nhà Đức Chúa Trời” (Chỉ có tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật thì mới có thể làm tròn bổn phận của mình, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Đức Chúa Trời phán: “họ không hỏi về phúc hay họa, không bàn đến điều kiện, và phó mặc bản thân cho sự sắp đặt của Ngài – đây là những người có lòng trung thực”. Những lời này lập tức đánh vào lòng tôi. Đức Chúa Trời yêu cầu con người đừng hỏi là phúc hay họa, nhưng tôi lại quá xem trọng việc mình được ban phúc hay là chịu tai họa. Tôi sợ rằng trong thời gian làm bổn phận lãnh đạo, mình sẽ làm ra những việc ác gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác, để lại vết nhơ và những vi phạm, rồi bị Đức Chúa Trời định tội, đào thải, và đến cuối cùng, chẳng những không được cứu rỗi mà ngược lại còn trở thành đối tượng chịu tai họa. Nhất là khi biết được rằng, trong ba người lãnh đạo tiểu khu trước đây thì có hai người vì không tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật trong bổn phận, làm việc theo ý mình, gây nhiễu loạn và gián đoạn nghiêm trọng cho công tác của nhà Đức Chúa Trời mà đã bị cách chức. Giờ thì người chị em phối hợp với tôi cũng bị cách chức, tôi càng cảm thấy nếu người ta không hiểu lẽ thật, không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, thì làm bổn phận lãnh đạo quả thực là được bữa sớm lo bữa tối, rất dễ bị tỏ lộ và đào thải, khó nói trước được kết cục và đích đến sau này sẽ như thế nào. Tôi chỉ muốn giữ lấy tiền đồ và đích đến của mình, nên trước khi phạm phải sai lầm, tôi đề xuất từ chức để có thể rút lui toàn vẹn. Đức Chúa Trời vạch rõ rằng như vậy thực ra là đang dùng tâm tính giả dối và tà ác để đấu với Ngài! Lúc ấy, tôi mới ý thức được rằng việc mình luôn suy tính cho lợi ích và tiền đồ của bản thân, hoàn toàn không suy nghĩ gì cho công tác của hội thánh hay cho lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, thì không phải là đang làm bổn phận, mà là đang cố đấu trí và đối đầu với Đức Chúa Trời. Mang theo quan điểm và tình trạng như vậy để làm bổn phận, thì cho dù tôi không làm lãnh đạo, bên ngoài cũng không phạm sai lầm, nhưng trong lòng tôi lại đang ngầm mưu tính và chống đối Đức Chúa Trời. Như vậy cũng là hành ác, là việc mà Đức Chúa Trời chán ghét và định tội. Đức Chúa Trời đã chỉ cho tôi một con đường rất rõ ràng, chính là làm một người có lòng trung thực, không hỏi là phúc hay là họa, không ra điều kiện mà phó thác theo sự sắp đặt của Đức Chúa Trời. Hiện tại nhà Đức Chúa Trời chưa cách chức hay đào thải tôi, thì tôi phải thuận phục sự tể trị và an bài của Đức Chúa Trời, kiên định giữ vững bổn phận của mình, dốc toàn lực để gánh vác trách nhiệm mà mình nên gánh vác.
Ngày hôm sau, tôi viết một lá thư cho lãnh đạo cấp trên, nhưng tôi không nhắc đến chuyện từ chức, mà chỉ nhìn nhận trách nhiệm mà mình nên gánh trong chuyện công tác thánh ca bị chậm trễ lần này, thẳng thắn thú nhận với lãnh đạo, và nói mình sẵn lòng thuận phục cách xử trí của nhà Đức Chúa Trời. Tôi viết xong bức thư thì trong lòng thấy rất bình tĩnh, thoải mái, sẵn lòng tiếp nhận sự sắp đặt của Đức Chúa Trời. Nếu bị lãnh đạo cấp trên tỉa sửa hay cách chức, thì tôi sẽ bình tĩnh đối mặt và gánh vác trách nhiệm. Nếu không bị cách chức thì tôi sẽ giữ vững bổn phận và làm tròn trách nhiệm của mình. Thật không ngờ, sau khi đọc thư, lãnh đạo cấp trên không cách chức tôi, mà tiếp tục để tôi rèn luyện trong bổn phận. Thông qua việc trải nghiệm chuyện này, tôi cảm thấy mình nhận biết hơn một chút về tâm tính công chính của Đức Chúa Trời, thể nghiệm và lĩnh hội được rằng, Đức Chúa Trời xem trọng việc con người có tấm lòng tiếp nhận lẽ thật hay không, liệu họ có thể đơn thuần, trung thực hướng về Ngài, không suy xét hay tính toán cho lợi ích hay tiền đồ của bản thân, mà suy nghĩ cho công tác của nhà Đức Chúa Trời hay không. Nếu con người có ý định đúng đắn, thì cho dù đôi khi họ có làm vài việc ngu muội, Đức Chúa Trời cũng không ghi nhớ, mà còn ban cho họ cơ hội làm bổn phận và bù đắp cho những thiếu sót của họ. Sau đó một thời gian, hội thánh vẫn chưa bầu được người lãnh đạo mới, nên tôi đã cầu nguyện và cậy dựa Đức Chúa Trời để theo sát công tác của hội thánh. Hễ có vấn đề gì thì tôi sẽ phối hợp với các anh chị em để cùng nhau giải quyết. Tôi phát hiện ra rằng khi mình sẵn lòng chủ động chịu trách nhiệm, lao tâm và suy nghĩ nhiều hơn trong công tác, thì tinh thần gánh trọng trách, tinh thần trách nhiệm đối với công tác của hội thánh, cũng như năng lực nhìn nhận sự việc và năng lực công tác của tôi bất giác đều được nâng cao hơn. Tôi cảm thấy bản thân dường như trở nên thông minh hơn trước, việc phối hợp công tác cũng không khó như tôi tưởng tượng, và tôi biết rằng đây là kết quả đạt được nhờ công tác của Đức Thánh Linh. Tôi thực sự thể nghiệm và lĩnh hội được rằng công tác của Đức Chúa Trời là do chính Ngài bảo vệ, còn con người chỉ phối hợp mà thôi. Đức Chúa Trời không đặt lên cho con người những gánh nặng mà họ không thể mang nổi, và đức tin nơi Đức Chúa Trời trong lòng tôi cũng đã được tăng thêm. Sau đó, hội thánh đã bầu được một người lãnh đạo mới, tôi cùng chị ấy phối hợp với nhau để theo sát công tác của hội thánh.
Qua mấy tháng làm bổn phận lãnh đạo, tôi cảm nhận được sự nhân từ và đáng mến của Đức Chúa Trời, trong lòng tôi cũng đã buông bỏ được phần nào những quan niệm, tưởng tượng, hiểu lầm và sự đề phòng đối với Ngài. Tôi càng thể nghiệm và lĩnh hội được rằng Đức Chúa Trời ban cho tôi cơ hội làm bổn phận lãnh đạo không phải là cố ý làm khó tôi, hay là để tỏ lộ tôi, mà là để thay đổi những quan điểm sai lầm trong đức tin của tôi, làm tinh sạch tâm tính bại hoại của tôi, thúc đẩy tôi phải lao tâm, suy nghĩ nhiều hơn để làm sao bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, để làm sao có lợi cho công tác và các anh chị em. Ngoài ra, châm đối tình trạng của các anh chị em và những khó khăn, vấn đề của họ trong nghiệp vụ, tôi đã tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật, luyện tập dùng lẽ thật để giải quyết vấn đề, và bất giác, kiến thức cũng như vóc giạc của tôi đều có chút tiến bộ. Tôi cảm thấy việc mình luyện tập làm lãnh đạo quả thực là Đức Chúa Trời đang hoàn thiện tôi, đó là tình yêu của Ngài. Nghĩ lại khi mới bắt đầu làm bổn phận này, tôi cảm thấy vô cùng nhút nhát và sợ hãi, còn hiểu lầm rằng Đức Chúa Trời muốn dùng bổn phận này để đào thải tôi. Tôi thực sự đã không phân biệt được phải trái, đúng sai, thật là bất chấp lý lẽ! Giờ thì tôi không còn sợ làm lãnh đạo nữa. Bất kể sau này phải trải nghiệm hay đối mặt với điều gì, tôi sẽ chỉ chú trọng tìm kiếm lẽ thật, thực hành lẽ thật và làm bổn phận mà mình nên làm tròn. Chút thay đổi và bước vào này của tôi đều là kết quả đạt được nhờ sự dẫn dắt của lời Đức Chúa Trời. Tạ ơn Đức Chúa Trời!
Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?
Ngay từ nhỏ, tôi đã mang tính cách của một người hướng nội, khả năng biểu đạt bản thân rất kém. Tôi không dám nói chuyện khi tiếp xúc với...
Bởi Nhất Phi, Trung QuốcỞ Trung Quốc, từ xưa đã có câu: “Nữ nhân vì người mình thích mà điểm trang”. Nhiều phụ nữ, để thể hiện sức quyến rũ...
Bởi Quảng Thuần, Trung Quốc Năm 2020, tôi làm lãnh đạo hội thánh. Thấy các anh chị em viết một số bài chứng ngôn trải nghiệm rất hay, tôi...
Một ngày vào tháng 12 năm ngoái, sau khi kết thúc buổi họp, lãnh đạo của em nói Trần Lâm đã bị tước bổn phận, vì thường bị than phiền về...