Biết mình nhờ sự phán xét
“Trong đời mình, nếu con người muốn được làm cho thanh sạch và có được những đổi thay trong tâm tính của mình, nếu họ muốn sống trọn vẹn một cuộc đời có ý nghĩa, và thực hiện bổn phận của mình như một tạo vật, thì họ phải chấp nhận hình phạt và phán xét của Đức Chúa Trời, và không được phép rời xa sự sửa dạy và đánh đập của Đức Chúa Trời, để họ có thể giải phóng bản thân khỏi sự thao túng và ảnh hưởng của Sa-tan và sống trong sự sáng của Đức Chúa Trời. Phải biết rằng hình phạt và phán xét của Đức Chúa Trời là sự sáng, là sự sáng của sự cứu rỗi con người, và rằng chẳng có phước lành, ân điển hay sự bảo vệ nào tốt hơn cho họ”.
Trích từ “Hình phạt và sự phán xét của Đức Chúa Trời là ánh sáng của sự cứu rỗi của con người” trong Theo Chiên Con và hát những bài ca mới
Mỗi lần hát bài thánh ca này, tôi đều nghĩ về một trải nghiệm thời tôi mới có đức tin. Lúc đó, lời Đức Chúa Trời: “Hình phạt và phán xét của Đức Chúa Trời là sự sáng, là sự sáng của sự cứu rỗi con người, và chẳng có phước lành, ân điển hay sự bảo vệ nào tốt hơn cho họ”, tôi vẫn chưa hiểu rõ được. Tôi cảm thấy trải qua sự phán xét và hình phạt hẳn đau đớn lắm, vậy tại sao Đức Chúa Trời nói rằng đó là sự bảo vệ và phước lành cho con người? Rồi sau đó, tôi đã thật sự trải nghiệm sự phán xét của lời Đức Chúa Trời, đã được tỉa sửa và xử lý, rồi tôi đã thật sự hiểu được chuyện này và cảm nhận được lời Ngài thực tế đến thế nào.
Tôi nhớ lại vào cuối tháng 6 năm 2015, tôi được bầu làm người rao giảng cho năm hội thánh khác nhau. Mới đầu, mỗi khi hội họp với các lãnh đạo và chấp sự từ các hội thánh đó, tôi cứ bồn chồn, lo rằng hiểu biết của tôi về lẽ thật quá nông cạn, sẽ không giúp ích được cho người khác. Nên trước mỗi buổi họp, tôi cố hết sức chuẩn bị, với ưu tư trọng trách thật sự, nghiêm túc xem xét nên thảo luận phần lời nào của Đức Chúa Trời, Sau khi thông công về lời Đức Chúa Trời, tôi hỏi xem mọi người có khó khăn gì. Tôi lo họ sẽ nêu lên những vấn đề mà tôi chưa gặp và tôi sẽ không biết giải đáp thế nào, nên tôi cầu nguyện xin Đức Chúa Trời dẫn dắt tôi làm người trung thực và chỉ thông công những gì tôi hiểu. Nếu không hiểu điều gì, tôi sẽ nói thẳng là tôi không có thấu suốt về chuyện đó, rồi tôi sẽ cầu nguyện và tìm kiếm thêm. Sau khi thực hành như thế một thời gian, tôi dần nắm bắt được một vài nguyên tắc trong công tác của hội thánh và biết thêm nhiều điều về công việc. Tôi cảm thấy còn nhiều động lực hơn thời gian đầu và làm việc rất lâu giờ. Tôi không thấy ngại khi hội họp với các lãnh đạo hội thánh nữa, cũng như có một số ý tưởng để giải quyết các vấn đề. Thỉnh thoảng, khi nghe các anh chị em bảo là tôi còn quá trẻ, tin Đức Chúa Trời chưa lâu mà đã đầy đức tin và có thể chịu khổ, trả giá, bảo rằng tôi mưu cầu lẽ thật, thì tôi thật sự thấy hài lòng về bản thân. Không lâu sau, tôi đã chủ trì một vài lần bầu cử trong hội thánh. Mọi lãnh đạo và người làm công ở các hội thánh tôi phụ trách đều lần lượt được chọn. Thấy chuyện như thế, tôi cảm thấy mình đã làm tốt công tác, chẳng trách tôi được chọn làm người rao giảng! Vì tôi có tố chất tốt và là nhân tài trong hội thánh mà.
Rồi vào cuối tháng 8 năm 2015, ngay khi tôi cảm thấy mình đang làm tốt bổn phận, một cấp trên bảo tôi rằng tôi còn trẻ, nhân tính còn non nớt, thiếu kinh nghiệm sống, không thể giải quyết khó khăn thực tế của các anh chị em, nên chiếu theo nguyên tắc, tôi không hợp làm người rao giảng, và tôi nên bắt đầu rèn luyện làm lãnh đạo hội thánh. Tôi chẳng dám nói gì, nhưng trong lòng bàng hoàng lắm. Tôi cảm thấy dù kinh nghiệm sống của tôi có hạn chế, nhưng từ khi làm người rao giảng, tôi đã tiến bộ nhanh, đã học được một số nguyên tắc trong công tác hội thánh. Gần đây, tôi còn tự mình xử lý một vài cuộc bầu cử hội thánh, và những người khác bảo tôi biết mưu cầu lẽ thật. Tôi cảm thấy nếu điều chỉnh bổn phận của tôi thì thật không công bằng. Còn nữa, hiểu biết và tố chất của tôi đâu có tệ, trong số mọi người từng làm cùng tôi, tôi là người học hỏi và phản ứng nhanh nhất, nên tiềm năng phát triển của tôi là tốt nhất. Ngoài ra, trong số ít ỏi những người rao giảng, chỉ có tôi là không có vướng bận gia đình. Tôi toàn tâm tin Đức Chúa Trời và có thể chịu khổ, trả giá trong bổn phận, vậy tại sao lại điều chuyển tôi?
Suốt mấy ngày, tôi chỉ nghĩ đến mỗi chuyện này, trong lòng cứ mãi không yên. Tôi đã đến trước Đức Chúa Trời và cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời, con đã bị điều chuyển bổn phận. Con cần rút ra bài học gì từ chuyện này? Con không thấy được vấn đề của mình, xin Ngài dẫn dắt con”. Sau đó, tôi đã đọc một đoạn lời Đức Chúa: “Khi đương đầu với những vấn đề trong đời thực, thì ngươi nên biết và hiểu về thẩm quyền của Đức Chúa Trời và quyền tối thượng của Ngài như thế nào? Khi ngươi phải đối mặt với những vấn đề này và không biết cách để hiểu, xử lý, và trải nghiệm chúng, thì ngươi nên có thái độ nào để thể hiện ý định đầu phục, ước muốn đầu phục, và hiện thực về sự đầu phục của ngươi đối với quyền tối thượng và sự an bài của Đức Chúa Trời? Trước hết, ngươi phải học cách chờ đợi; sau đó ngươi phải học cách mưu cầu; rồi ngươi phải học cách đầu phục. ‘Chờ đợi’ có nghĩa là chờ thời điểm của Đức Chúa Trời, chờ đợi những con người, sự vật và sự việc mà Ngài đã sắp đặt cho ngươi, chờ đợi ý muốn của Ngài dần dần tỏ lộ chính nó cho ngươi. ‘Mưu cầu’ có nghĩa là quan sát và hiểu được ý định sâu sắc của Đức Chúa Trời đối với ngươi qua những con người, sự vật và sự việc mà Ngài đã sắp đặt, hiểu lẽ thật qua chúng, hiểu những gì con người phải hoàn thành và những cách họ phải làm theo, hiểu kết quả nào Đức Chúa Trời muốn đạt được trong loài người và thành tựu nào Ngài muốn có được trong họ. Tất nhiên ‘Đầu phục’ nói đến việc chấp nhận những con người, sự vật và sự việc mà Đức Chúa Trời đã bố trí, chấp nhận quyền tối thượng của Ngài và, qua đó, bắt đầu biết đến Đấng Tạo Hóa điều khiển số phận con người như thế nào, Ngài ban cho con người đời sống của Ngài như thế nào, Ngài làm công tác của lẽ thật trong con người như thế nào” (Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất III, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Tôi còn nhận ra rằng khi bị điều chuyển bổn phận, dù tôi không hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời hay nhận ra bài học tôi cần, thì ít ra tôi phải có thái độ vâng phục, chờ đợi và tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời. Nếu tôi cứ cáu kỉnh suốt, thì không chỉ làm khó những người khác, mà còn là phản nghịch Đức Chúa Trời. Sau đó, tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời, sẵn sàng vâng phục và làm hết sức mình trong cương vị lãnh đạo.
Rồi một tháng sau, chị Từ cộng sự của tôi bảo tôi rằng các hội thánh đang bầu chọn một người rao giảng, và lãnh đạo cấp trên đã đề cử các ứng viên. Nghe chị ấy nói thế, tôi chẳng thể nào bình tâm nổi. Tôi liền hỏi lại: “Gì cơ? Chị ấy đề cử ứng viên rồi sao? Nguyên tắc bầu chọn nói rõ rằng không ai được đề cử ứng viên, đấy là việc làm của Sa-tan, của con rồng lớn sắc đỏ. Làm thế là vi phạm nguyên tắc”. Cộng sự của tôi liền trả lời: “Tôi nghe nói như thế, nhưng không biết có thật không. Đừng loan truyền chuyện này nhé”. Khi chị ấy nói thế, ngoài miệng thì tôi đồng ý, nhưng trong lòng cứ nghĩ mãi về nó. Không có lửa làm sao có khói, nếu lãnh đạo cấp trên không làm thế, sao có ai lại vô cớ bịa ra chuyện này? Hẳn chị ấy đã làm chuyện đó và bị phát giác, vì thế người ta mới đồn đại về nó. Tôi từng làm người rao giảng, chị ta điều chuyển tôi khỏi chức vụ đó, giờ lại chỉ định ứng viên. Chị ta đang hành động không có nguyên tắc. Vậy là tôi đã nói chuyện này với một lãnh đạo ở hội thánh khác, là chị Lâm. Một thời gian sau, chị Lâm bảo tôi rằng chị ấy đã hiểu ra vấn đề khi dự cuộc họp đồng sự. Lãnh đạo cấp trên đã chọn người cho cuộc bầu cử từ những lãnh đạo hội thánh có chút nổi trội. Đấy không phải là chỉ định ứng viên. Lãnh đạo cấp trên còn nói rằng khi vô cớ loan truyền tin đồn đó là tôi đang gây nhiễu loạn công tác hội thánh. Nghe vậy, tôi thấy quá bất bình, cảm thấy mình làm gì có động cơ như thế. Tôi chỉ nói qua cho chị Lâm những gì mình biết thôi mà. Giờ lãnh đạo cấp trên bảo tôi có động cơ, mổ xẻ tôi trước mặt mọi người, làm sao tôi dám gặp ai đây? Càng nghĩ, tôi càng thấy bất bình, không thể kìm được nước mắt. Tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời hết lần này đến lần khác, xin Ngài dẫn dắt tôi hiểu ra bài học. Tôi vô cùng khủng hoảng và khổ sở suốt mấy ngày, làm gì cũng như người vô hồn. Rồi trong một buổi hội họp, tôi đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời trong “Lời cảnh báo cho những ai không thực hành lẽ thật” đã cho tôi hiểu được đôi chút về mình. Lời Đức Chúa Trời phán: “Những người trong số các anh chị em luôn luôn tuôn ra điều tiêu cực của mình là những tên tay sai của Sa-tan và họ làm nhiễu loạn hội thánh. Những người như thế một ngày nào đó phải bị trục xuất và loại bỏ. Trong niềm tin của họ vào Đức Chúa Trời, nếu con người không có một tấm lòng tôn kính Đức Chúa Trời, nếu họ không có một tấm lòng vâng phục Đức Chúa Trời, thì không những họ sẽ không thể thực hiện bất kỳ công việc gì cho Ngài, mà ngược lại sẽ trở thành những kẻ làm nhiễu loạn công tác của Ngài và những kẻ chống đối Ngài. … Những người thực sự tin vào Đức Chúa Trời luôn luôn có Ngài trong lòng, và họ luôn luôn mang trong mình một tấm lòng tôn kính Đức Chúa Trời, một tấm lòng yêu mến Đức Chúa Trời. Những ai tin vào Đức Chúa Trời nên làm mọi việc cẩn trọng và khôn khéo, và tất cả những gì họ làm nên phù hợp với những yêu cầu của Đức Chúa Trời và có thể làm thỏa lòng Ngài. Họ không nên cứng đầu, làm bất cứ điều gì mình muốn; điều đó không hợp với sự đúng đắn thánh thiện. Con người không được chạy lồng lộn, nơi nào cũng vẫy lá cờ của Đức Chúa Trời trong khi vênh váo và bịp bợm khắp mọi nơi; đây là loại hành vi phản nghịch nhất. Quốc có quốc pháp và gia có gia quy – và chẳng phải điều đó thậm chí còn hơn thế nữa trong nhà của Đức Chúa Trời sao? Chẳng phải các tiêu chuẩn thậm chí còn nghiêm ngặt hơn sao? Chẳng phải thậm chí còn có nhiều sắc lệnh quản trị hơn sao? Con người tự do làm những gì họ muốn, nhưng các sắc lệnh quản trị của Đức Chúa Trời không thể bị thay đổi một cách tùy tiện. Đức Chúa Trời là một Đức Chúa Trời không dung thứ cho những sự xúc phạm từ con người; Ngài là một Đức Chúa Trời xử tử con người. Chẳng phải con người thực sự đã biết điều này rồi sao?” (“Lời xuất hiện trong xác thịt”). Những lời của Đức Chúa Trời về “tay sai của Sa-tan” và “làm nhiễu loạn hội thánh” thật quá thấm thía và khiến tôi sợ hãi. Theo lời Đức Chúa Trời, việc bảo chị Lâm rằng lãnh đạo cấp trên chỉ định ứng viên mà không thật sự hiểu được hoàn cảnh thực sự, chính là tùy tiện loan truyền và gieo rắc bất hòa. Chị Từ đã cảnh báo tôi rất rõ rằng đây chỉ là chuyện chị ấy nghe được, chưa rõ đúng hay không, thế mà tôi cứ đi kể với chị Lâm về chuyện đó. Tôi muốn có thêm người nghĩ rằng lãnh đạo cấp trên không làm việc theo nguyên tắc, rằng với việc quan trọng như bầu cử, chị ấy lại đi chỉ định ứng viên, làm chuyện lén lút, để cho mọi người có thành kiến với chị ấy. Làm như thế chính là phá hoại lãnh đạo cấp trên, hành xử như tay sai của Sa-tan, gây nhiễu loạn công tác của hội thánh. Sau đó, tôi đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời khác. “Những kẻ thuộc về Sa-tan sẽ về với Sa-tan, còn những ai thuộc về Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ đi tìm kiếm lẽ thật; điều này được quyết định bởi bản tính của họ. Hãy để tất cả những kẻ theo Sa-tan đều bị diệt vong! Sẽ không tỏ ra sự thương xót nào cho những kẻ như thế. Hãy để những ai tìm kiếm lẽ thật được chu cấp, và họ có thể vui hưởng lời Đức Chúa Trời một cách thỏa lòng. Đức Chúa Trời là Đấng công chính; Ngài sẽ không thiên vị với bất kỳ ai. Nếu ngươi là một con quỷ, thì ngươi không có khả năng thực hành lẽ thật; còn nếu ngươi là người tìm kiếm lẽ thật, thì chắc chắn rằng ngươi sẽ không bị Sa-tan bắt giữ. Điều này là chắc chắn” (Lời cảnh báo cho những ai không thực hành lẽ thật, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Đọc những lời “Hãy để tất cả những kẻ theo Sa-tan đều bị diệt vong” của Đức Chúa Trời, tôi bắt đầu run lên sợ hãi. Nếu tôi không ăn năn mà cứ làm việc theo ý thích tùy tiện của mình, làm tay sai của Sa-tan, thì cuối cùng tôi sẽ bị Đức Chúa Trời vạch trần và loại bỏ. Và tôi suy ngẫm câu này: “Những kẻ thuộc về Sa-tan sẽ về với Sa-tan, còn những ai thuộc về Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ đi tìm kiếm lẽ thật”. Nếu tôi không thể tìm kiếm lẽ thật để xử lý những vi phạm và biết mình, tôi vẫn không được Đức Chúa Trời thương xót sao? Rồi tôi mới tự nhủ tại sao tôi lại phản ứng gay gắt thế khi chị Từ bảo tôi là lãnh đạo cấp trên chỉ định ứng viên. Trước đó vài tháng, khi bị điều chuyển bổn phận, tôi đã rất buồn bực và có thành kiến với lãnh đạo rồi. Nên khi nghe ai đó nói lãnh đạo chỉ định ứng viên, tôi cảm thấy chắc chắn chị ấy không làm theo nguyên tắc, nên đã đem chuyện đó đi kể với chị Lâm, muốn chị ấy về phe mình và cũng mang thành kiến với lãnh đạo. Tôi đã chủ tâm xét đoán lãnh đạo cấp trên, và trong đó còn có ý báo thù. Đó là động cơ tà ác, đáng khinh! Khi thấy mặt xấu xa này của mình, tôi đầy hối hận. Nếu lãnh đạo không mổ xẻ thực chất hành động của tôi ngay lập tức để cho mọi người thấy được động cơ thật sự của tôi, thì khi tin giả này lan truyền đến các anh chị em, họ sẽ có thành kiến với lãnh đạo cấp trên, và không thể cộng tác tốt với chị ấy. Như thế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến công tác của hội thánh. Sau đó, tôi vội đến trước Đức Chúa Trời để cầu nguyện và ăn năn. Tôi thưa với Ngài: “Lạy Đức Chúa Trời, con đã làm tay sai của Sa-tan, gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác nhà Đức Chúa Trời Con không muốn tiếp tục nói và hành động bằng sự bại hoại, con muốn hiểu những vi phạm và việc ác của mình, muốn thật sự ăn năn. Xin Ngài dẫn dắt con”.
Suốt thời gian đó, tôi đã cầu nguyện và tìm kiếm trước Đức Chúa Trời. Tại sao khi bị điều chuyển bổn phận tôi lại chống đối như thế, thậm chí đến mức độ tôi làm việc cho Sa-tan, gây bất đồng giữa các anh chị em, xét đoán lãnh đạo cấp trên? Một hôm nọ, trong lúc tĩnh nguyện, tôi đọc được những lời này của Đức Chúa Trời: “Những ai tự tôn vinh mình trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời là những kẻ thấp hèn nhất, trong khi những ai nghĩ mình thấp hèn thì là những người đáng được kính trọng nhất. Và những ai nghĩ rằng mình biết công tác của Đức Chúa Trời và, hơn nữa, có khả năng rao truyền công tác của Đức Chúa Trời cho những người khác với sự phô trương quá ầm ĩ ngay cả khi họ nhìn thẳng vào Ngài – đây là những kẻ ngu dốt nhất. Những người như thế không có lời chứng về Đức Chúa Trời, kiêu ngạo và đầy tự phụ” (Tất cả những ai không biết Đức Chúa Trời đều là những người chống đối Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Ta khuyên tất cả các ngươi đừng nghĩ rằng bản thân mình quý hơn vàng. Nếu những người khác có thể chấp nhận sự phán xét của Đức Chúa Trời, thì tại sao ngươi không thể? Ngươi đứng cao hơn người khác bao nhiêu? Nếu những người khác có thể cúi đầu trước lẽ thật, thì tại sao ngươi không thể như vậy?” (Đấng Christ thực hiện công tác phán xét bằng lẽ thật, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Những lời phán xét và phơi bày của Đức Chúa Trời xuyên thấu tâm can tôi. Tôi chính là loại người kiêu ngạo và tự phụ đó. Tôi đã làm người rao giảng và học được vài nguyên tắc, nên tôi cảm thấy mình có tố chất tốt và học hỏi nhanh, thấy tôi là nhân tài trong hội thánh và nên được bồi dưỡng. Nghe các anh chị em khen ngợi tôi có thể chịu khổ, trả giá trong bổn phận, biết tìm kiếm lẽ thật khi còn trẻ thế này, tôi bắt đầu đề cao bản thân. Tôi tự cho mình là người mưu cầu lẽ thật. Lãnh đạo cấp trên đã thông công với tôi về nguyên tắc, nói rằng vào thời điểm đó, hoàn cảnh thực tế của tôi không phù hợp để làm người rao giảng, nhưng tôi không thể chấp nhận, tôi còn cảm thấy việc bị điều chuyển bổn phận là do lãnh đạo cấp trên cố làm khó tôi, và chị ấy chẳng làm theo nguyên tắc. Tôi quá đề cao bản thân, nghĩ mình vĩ đại, mà chẳng hề thấy được tầm vóc thật sự của mình. Tôi còn hoàn toàn tin chắc rằng tôi quá phù hợp để làm người rao giảng, nhưng thực tế thì tôi mới tin chưa lâu và không có nhiều kinh nghiệm thực tế. Gặp phải những vấn đề thực tế, chẳng hạn như các lãnh đạo hội thánh không cộng tác tốt, tôi chẳng có kinh nghiệm thực tế để giúp họ. Hai tháng sau khi bị điều chuyển bổn phận, tôi vẫn buồn bực vì chuyện đó, chẳng hề chấp nhận nó chút nào. Tôi còn cố ngầm xét đoán hành động của lãnh đạo cấp trên là trái nguyên tắc. Tôi kiêu ngạo đến mức không còn lý trí. Tôi không thể dùng lẽ thật giải quyết các vấn đề thực tế và không biết cách trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời. Còn nữa, khi gặp vấn đề, tôi chẳng thật sự vâng phục hay rút ra bài học. Những chuyện đó là đủ để cho thấy tôi chẳng có nhiều kinh nghiệm thực tế, chẳng hiểu lẽ thật, và chẳng biết gì về sự bại hoại tôi biểu lộ. Như thế làm sao tôi giải quyết được những vấn đề thực tế trong các hội thánh đó chứ? Khi lãnh đạo cấp trên điều chuyển bổn phận của tôi, chị ấy đã nói là tôi không có nhiều trải nghiệm thực tế và không thể giải quyết vấn đề thực tế. Nếu không nhờ hiện thực phơi bày, tôi chẳng bao giờ thấy ra mình kiêu ngạo đến thế nào.
Sau đó, tôi đã đọc được đoạn này trong lời Đức Chúa Trời. “Ngày nay, Đức Chúa Trời phán xét các ngươi, trừng phạt các ngươi, và kết án các ngươi, nhưng ngươi phải biết rằng mục đích của việc kết án ngươi là để ngươi biết được chính mình. Ngài kết án, rủa sả, phán xét và hành phạt để ngươi có thể biết được chính mình, để tâm tính của ngươi có thể thay đổi, và hơn thế nữa, để ngươi có thể biết được giá trị của mình, và thấy rằng tất cả hành động của Đức Chúa Trời đều công chính và phù hợp với tâm tính của Ngài và những yêu cầu trong công tác của Ngài, rằng Ngài làm việc phù hợp với kế hoạch cứu rỗi nhân loại của Ngài, và rằng Ngài là Đức Chúa Trời công chính, Đấng yêu thương, cứu rỗi, phán xét, và hành phạt con người” (Ngươi nên đặt các phước lành về địa vị sang một bên và hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời để mang sự cứu rỗi đến cho con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Tôi quá xúc động sau khi nghe lời Ngài. Tôi bị điều chuyển bổn phận là vì Đức Chúa Trời yêu thương và che chở tôi. Nếu không nhờ thế, tôi vẫn không biết mình kiêu ngạo đến mức nào. Lãnh đạo cấp trên vạch trần tôi, Đức Chúa Trời phán xét nghiêm khắc và phơi bày tôi, đã khiến tôi vô cùng đau đớn, nhưng lại khiến tôi nhìn ra sự kiêu ngạo và thiếu tôn kính Đức Chúa Trời của mình, thấy được tôi làm tay sai cho Sa-tan vì địa vị và lợi ích riêng, gây nhiễu loạn công tác của hội thánh. Đức Chúa Trời đã kịp thời chặn đứng con đường tà ác này, cho tôi hiểu được đôi chút về mình.
Sau đó, tôi dốc hết sức trong cương vị lãnh đạo hội thánh. Chị Từ cộng sự của tôi, ngoài lo bổn phận, còn phải chăm sóc gia đình. Tôi chẳng có những trách nhiệm gia đình như thế, nên thời gian của tôi thư thả hơn. Khi các anh chị em gặp khó khăn, tôi thường đi thông công và giải quyết hơn. Mới đầu, tôi thông cảm và bỏ qua cho chị Từ, nhưng sau một thời gian, tôi bắt đầu cảm thấy mình tận tụy hơn chị ấy. Nhiều lúc, tôi thấy khi nhà chị ấy có chuyện, chị ấy chẳng theo dõi hay xử lý sự vụ của hội thánh thức thời, nên tôi hơi khinh thị chị ấy. Tôi thấy chị ấy dành quá nhiều tình cảm cho gia đình, và dần dà nó cản trở công tác của hội thánh. Nhiều lúc tôi thông công với chị Từ, nhưng thấy chị ấy có vẻ hơi hoang mang, là tôi nói giọng khinh thị và coi thường chị ấy. Chị Từ thấy mình bị tôi kìm hãm, sợ rằng nếu lỡ làm sai gì thì sẽ bị tôi gắt gỏng. Vì tôi chẳng hiểu nhiều về tâm tính kiêu ngạo của mình, nên chẳng bao lâu, các vấn đề cũ của tôi lại trỗi dậy.
Sau đó, chị Từ được ứng cử làm người rao giảng và cuối cùng được chọn. Khi biết chuyện, tôi khó lòng chấp nhận nổi. Tôi nghĩ mình còn không được ứng cử vì tuổi đời còn trẻ, nhưng sao tôi không bằng chị Từ được chứ? Tôi có tố chất tốt hơn, làm việc năng nổ hơn, và không vướng bận chuyện gia đình. Còn nữa, gần đây tôi đã bị tỉa sửa và xử lý, đã gặp thất bại và được phơi bày, từ đó tôi đã biết mình hơn. Tôi vẫn còn thể hiện đôi chút kiêu ngạo, nhưng tôi đã thay đổi kha khá rồi. Giờ chị Từ được bầu làm người rao giảng, chịu trách nhiệm cho công tác của vài hội thánh, còn tôi chỉ phụ trách một hội thánh, thế nghĩa là tôi yếu kém sao? Tôi còn quá trẻ, chẳng phải cứ làm lãnh đạo hội thánh là lãng phí tài năng của tôi sao? Với tố chất của mình, tôi thật sự chỉ đảm đương được một hội thánh hay sao? Tôi không thể đóng vai trò quan trọng trong nhà Đức Chúa Trời sao? Tại sao lãnh đạo cấp trên không thấy sự tiến bộ và thay đổi của tôi? Một người rao giảng, chị Trương, cũng đã tỉa sửa và xử lý tôi trong vài buổi hội họp liên tiếp. Chị ấy nói: “Trước đây, khi tiếp xúc với chị, tôi thấy chị có nhân tính thật sự tốt. Tôi ngạc nhiên khi thấy giờ chị lại kiêu ngạo và tự phụ như thế. Có được chút tố chất là chị coi thường người khác, liên tục khiến họ bị kìm hãm. Chị lúc nào cũng nhăn nhó với người khác. Giờ tôi thấy chị chẳng có nhân tính tốt”. Nghe chị ấy nói thế, tôi đau đớn vô cùng. Tại sao chị ấy phải nói về vấn đề của tôi trong mọi buổi hội họp? Tại sao chị ấy gay gắt với tôi như thế? Tôi chỉ thể hiện đôi chút bại hoại, có hơi kiêu ngạo, nhưng có cần nói với tôi như thế không? Khi thật sự không chịu nổi nữa, tôi chạy vào phòng vệ sinh mà khóc không để ai thấy. Tôi cảm thấy như bị đâm thấu tâm can. Ngày nào tôi cũng kêu cầu nguyện Đức Chúa Trời khi cầu nguyện, xin Ngài dẫn dắt tôi hiểu ra bài học.
Trong thời gian đó, tôi đọc nhiều lời Đức Chúa Trời về sự phán xét và phơi bày. Trong đó có một đoạn thật sự để lại ấn tượng sâu sắc trong tôi. Lời Đức Chúa Trời phán: “Tốt nhất là các ngươi dành nhiều nỗ lực hơn cho lẽ thật của việc nhận biết bản thân. Tại sao các ngươi chưa được ân huệ của Đức Chúa Trời? Tại sao tâm tính của các ngươi lại đáng ghê tởm đối với Ngài? Tại sao điều các ngươi nói lại khiến Ngài căm ghét? Ngay khi các ngươi chứng tỏ được một chút lòng trung thành, các ngươi tự ca ngợi mình, và các ngươi đòi phần thưởng cho một sự đóng góp nhỏ bé; các ngươi coi thường người khác khi các ngươi thể hiện sự vâng phục đôi chút, và trở nên khinh thường Đức Chúa Trời khi hoàn thành nhiệm vụ vụn vặt nào đó. Để đón tiếp Đức Chúa Trời, các ngươi đòi tiền, quà, và những lời ca tụng. Các ngươi đau lòng khi quyên góp một hai xu; khi các ngươi quyên góp mười xu, các ngươi muốn có phúc lành và được đối đãi khác biệt. Thật chướng tai gai mắt khi nói hoặc nghe về nhân tính như của các ngươi. Có bất cứ điều gì đáng khen ngợi trong những lời nói và việc làm của các ngươi không? Những ai thực hiện bổn phận của mình và những ai không thực hiện; những ai dẫn dắt và những ai theo sau; những ai đón tiếp Đức Chúa Trời và những ai không đón tiếp; những ai bố thí và những ai không bố thí; những ai rao giảng và những ai đón nhận lời; và những điều tương tự: tất cả những người như thế đều tự ca ngợi họ. Các ngươi không thấy điều này nực cười ư? Hoàn toàn biết rõ rằng mình tin vào Đức Chúa Trời, ấy vậy mà các ngươi không thể tương hợp với Đức Chúa Trời. Hoàn toàn biết rõ rằng các ngươi không có giá trị, các ngươi vẫn khoa trương như thế. Các ngươi không cảm thấy lý trí của mình đã bị hư hỏng đến mức các ngươi không còn tự chủ nữa sao? Với ý thức như thế này, các ngươi làm sao thích hợp để tiếp xúc với Đức Chúa Trời? Các ngươi không sợ cho mình ở tình cảnh này sao? Tâm tính của các ngươi đã bị hư hỏng đến mức không thể tương hợp với Đức Chúa Trời. Như vậy, đức tin của các ngươi không nực cười sao? Đức tin của các ngươi không phi lý sao? Ngươi sẽ tiếp cận tương lai của ngươi như thế nào? Ngươi sẽ chọn con đường nào để đi?” (Những ai không tương hợp với Đấng Christ thì hẳn là những kẻ chống đối của Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời đã phơi bày chính xác tình trạng của tôi. Sau khi học được vài nguyên tắc trong bổn phận, tôi cảm thấy mình có tố chất cao, thấy mình là nhân tài. Khi có vài hy sinh và trả giá đôi chút, tôi lại đề cao mình, và cảm thấy tôi biết mưu cầu lẽ thật. Khi cộng tác với chị Từ trong bổn phận, tôi làm nhiều việc hơn chị ấy một chút mà đã cảm thấy mình mưu cầu hơn chị ấy, giỏi hơn chị ấy. Thấy chị Từ bị việc nhà cản trở, tôi chẳng thông cảm cho chị ấy, mà lại đánh giá thấp và xem thường chị ấy, hay nhìn chị ấy bằng ánh mắt khinh miệt. Tôi chẳng hề yêu thương chị ấy gì cả, lại còn luôn kìm hãm chị ấy. Chuyện đó thể hiện hoàn toàn một tâm tính kiêu ngạo, khiến Đức Chúa Trời ghê tởm. Dù cho chị Từ vướng bận chuyện gia đình, nhưng chị ấy có nhân tính tốt và thực hiện bổn phận ổn định. Còn nữa, chị ấy thông công rất thực tế và có thể giải quyết khó khăn của người khác. Như trong những lúc bận rộn việc làm nông, có người đi muộn hoặc không dự họp điều đặn. Tôi thì thông công với họ rằng đây là thời điểm quan trọng để mưu cầu lẽ thật, họ cứ bận rộn với đời sống xác thịt như thế thì chẳng thu hoạch được gì đâu, còn nói rằng kẻ ngốc sẽ chỉ diệt thân khi tham hưởng an nhàn. Tôi thông công những lời sáo rỗng cao ngất đó, và ai cũng gật đầu đồng ý, nhưng sau đó, họ vẫn cứ bận rộn việc làm nông và đi hội họp muộn. Nhưng chị Từ có những vướng bận gia đình, nên chị ấy có thể hiểu được những chật vật đời thực của họ. Chị lấy kinh nghiệm mà thông công với anh chị em để giúp đỡ họ. Họ lắng nghe và cảm thấy nó rất thực tế, rồi họ thường trở lại hội họp điều đặn. Cả hai chúng tôi đều thông công với các anh chị em, tôi thì chẳng thể giải quyết vấn đề thực tế của họ, nhưng chị Từ có thể có kết quả thực tế khi thông công. Từ chuyện này, có thể thấy rằng chị ấy thật sự có trải nghiệm thực tế.
Sau đó, tôi đọc được một đoạn Đức Chúa Trời khác đã giúp tôi hiểu ra thực tế là gì. Lời Đức Chúa Trời phán: “Giữ vững lời Đức Chúa Trời và có thể giải thích lời Ngài một cách không lúng túng không có nghĩa là ngươi sở hữu hiện thực; mọi thứ không đơn giản như ngươi tưởng tượng. Việc ngươi có sở hữu hiện thực hay không không căn cứ vào những gì ngươi nói, mà căn cứ vào những gì ngươi sống thể hiện ra. Chỉ khi lời Đức Chúa Trời trở thành sự sống của ngươi và sự thể hiện tự nhiên của ngươi, thì mới có thể nói rằng ngươi sở hữu hiện thực, và chỉ khi đó ngươi mới được tính là đã đạt được hiểu biết thực sự và vóc giạc thực tế. Ngươi phải có khả năng chịu được sự soi xét lâu dài, và ngươi phải có khả năng sống thể hiện ra hình tượng giống như Đức Chúa Trời yêu cầu. Đây không được chỉ đơn thuần là sự thể hiện; nó phải tuôn ra từ ngươi một cách tự nhiên. Chỉ khi đó, ngươi mới thực sự sở hữu hiện thực, và chỉ khi đó ngươi mới có được sự sống. … Khốn thay những kẻ kiêu căng và ngạo mạn, và khốn thay những kẻ không hiểu chính mình; những người như vậy chỉ giỏi nói, nhưng lại kém nhất khi biến lời nói thành hành động. Khi có dấu hiệu nhỏ nhất của rắc rối, những người này bắt đầu nghi ngờ, và ý nghĩ bỏ cuộc len lỏi vào tâm trí họ. Họ không sở hữu chút hiện thực nào; họ chỉ có lý thuyết đặt trên tôn giáo, không có một chút hiện thực nào mà Đức Chúa Trời yêu cầu. Ta ghê tởm nhất những kẻ chỉ nói lý thuyết mà không sở hữu hiện thực. Họ ầm ĩ nhất khi thực hiện công việc của mình, nhưng ngay khi đối mặt với hiện thực, họ sụp đổ. Chẳng phải điều đó cho thấy những người này không sở hữu chút hiện thực nào hay sao? Cho dù sóng gió dữ dội đến đâu, nếu ngươi vẫn có thể đứng vững mà không cho phép một chút mảy may nghi ngờ len lỏi vào tâm trí, và có thể đứng vững và không chối bỏ, và thậm chí ngay cả khi chẳng còn lại ai khác, thì ngươi sẽ được xem là thực sự hiểu và đích xác sở hữu hiện thực. Nếu gió chiều nào, ngươi ngả theo chiều ấy – nếu ngươi chạy theo số đông, và học nói theo lời kẻ khác như vẹt – thì cho dù ngươi hùng hồn đến đâu, cũng không chứng tỏ rằng ngươi sở hữu hiện thực. Chính vì lẽ đó, Ta đề nghị ngươi không nên vội gào lên những lời sáo rỗng. Ngươi có biết Đức Chúa Trời sắp làm gì không? Đừng cư xử như một Phi-e-rơ khác, kẻo chuốc hổ thẹn cho bản thân và không thể ngẩng cao đầu; điều đó sẽ chẳng tốt cho ai cả. Hầu hết mọi người không có vóc giạc thực sự. Mặc dù Đức Chúa Trời đã thực hiện rất nhiều công việc, nhưng Ngài chưa đem hiện thực đến cho mọi người; nói chính xác hơn, Ngài chưa bao giờ đích thân hành phạt ai. Một số người đã bị vạch trần qua những sự thử luyện như thế, với bàn tay tội lỗi của họ vươn ra ngày càng xa hơn, tưởng rằng có thể dễ dàng thắng được Đức Chúa Trời, rằng họ có thể làm bất kỳ điều gì họ muốn. Bởi họ không thể chịu đựng được ngay cả loại sự thử luyện này, thì những sự thử luyện lớn hơn là điều không thể đối với họ, việc sở hữu hiện thực cũng vậy. Chẳng phải là họ đang cố lừa dối Đức Chúa Trời sao? Sở hữu hiện thực không phải là việc có thể giả vờ, hiện thực cũng không phải là thứ ngươi có thể đạt được bằng cách biết nó. Điều đó phụ thuộc vào vóc giạc thực tế của ngươi, cũng như việc ngươi có chống chịu được mọi sự thử luyện hay không. Ngươi có hiểu không?” (Chỉ có đưa lẽ thật vào thực hành mới là sở hữu hiện thực, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời rất rõ ràng. Việc người ta có sở hữu thực tế của lẽ thật hay không đâu dựa vào lời họ nói, mà dựa vào việc họ có thực hành lẽ thật, có làm chứng cho Đức Chúa Trời trong điều họ sống thể hiện ra hay không. Nếu chỉ hiểu giáo điều và nghĩ rằng mình sở hữu thực tế của lẽ thật, thì chính là kiêu ngạo và chẳng biết mình. Tôi thường cảm thấy mình đầy đức tin, tôi xử lý công tác của hội thánh kịp thời, đầy nhiệt huyết trong bổn phận và có vẻ có thể vâng phục Đức Chúa Trời, nhưng sau khi chị Từ được bầu làm người rao giảng, tôi đã bị rối loạn. Tôi cảm thấy mình tốt hơn chị ấy, giỏi hơn chị ấy, sao lại không được chọn? Lòng tôi nảy sinh oán trách, cảm thấy thật bất công. Theo những gì tôi thể hiện, tôi chẳng thật sự biết mình, cũng không thể vâng phục hoàn cảnh Đức Chúa Trời sắp đặt. Tôi chẳng có thực tế của lẽ thật chút nào. Tôi chỉ có chút nhiệt huyết trong bổn phận, nói được những thứ giáo điều, mà tưởng nhầm chúng là vóc giạc thật của mình, nhưng thật ra, tôi chẳng hiểu được những khó khăn thực tế của các anh chị em, không thể giải quyết vấn đề thực tế của họ. Cho tôi làm lãnh đạo hội thánh chính là cho tôi cơ hội, nhưng tôi chẳng biết mình chút nào mà cứ muốn tranh giành vị trí người rao giảng. Tôi kiêu ngạo đến mức không còn lý trí. Tôi muốn được Đức Chúa Trời đặc biệt xem trọng, nhưng đó là điều không thể. Đức Chúa Trời chẳng thích người nào cuồng vọng và không có lý trí. Thấy mình có tâm tính kiêu ngạo và không có thay đổi gì, lại có hành vi khiến Đức Chúa Trời ghê tởm, nên tôi thấy hối hận lắm. Tôi cảm thấy mình đã quá tê liệt và không biết mình. Nếu không được chị Trương xử lý, hẳn tôi vẫn không thấy được vấn đề của mình. Tôi cảm thấy vô cùng đội ơn Đức Chúa Trời vì đã sắp đặt hoàn cảnh này cho tôi.
Sau đó, tôi đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời khác giúp tôi hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời. Lời Đức Chúa Trời phán: “Khi ngươi chịu một chút thúc ép hoặc khó khăn, thì điều đó tốt cho các ngươi; nếu các ngươi được ban cho một thời điểm thuận lợi thì các ngươi sẽ bị hư hoại, và vậy thì làm sao các ngươi có thể được bảo vệ? Hôm nay, vì các ngươi bị hành phạt, phán xét, và rủa sả nên các ngươi được bảo vệ. Vì các ngươi đã chịu khổ nhiều nên các ngươi được bảo vệ. Nếu không, các ngươi đã rơi vào tình trạng suy đồi từ lâu. Điều này không phải là cố tình làm cho mọi thứ trở nên khó khăn cho các ngươi – bản tính của con người khó mà thay đổi, và phải như thế thì tâm tính của họ mới thay đổi được. Hôm nay, các ngươi thậm chí cũng không sở hữu được lương tâm hay lý trí mà Phao-lô đã sở hữu, ngay cả sự tự biết mình của ông các ngươi cũng không có. Các ngươi luôn phải chịu áp lực, và các ngươi luôn phải chịu hành phạt và phán xét để thức tỉnh linh hồn mình. Hình phạt và phán xét là điều tốt nhất cho sự sống của các ngươi. Và khi cần thiết, cũng phải có hình phạt trong những sự thật xảy đến trên các ngươi; chỉ khi đó các ngươi sẽ tuân phục hoàn toàn. Bản tính của các ngươi là nếu không có hình phạt và rủa sả, các ngươi sẽ không sẵn lòng cúi đầu, không sẵn lòng tuân phục. Không có sự thật trước mắt các ngươi, thì sẽ không có tác dụng gì. Tính cách các ngươi quá thấp hèn và vô giá trị! Không có hình phạt và phán xét, các ngươi sẽ khó bị chinh phục, và sự không công chính và bất tuân của các ngươi khó bị chế ngự. Bản chất cũ của các ngươi đã bám rễ quá sâu. Nếu các ngươi được đặt trên ngai, các ngươi sẽ không biết gì về chiều cao của thiên đàng và chiều sâu của trái đất, càng không biết mình hướng về đâu. Các ngươi thậm chí còn không biết mình đã đến từ đâu, thế thì làm sao biết được Chúa của sự sáng tạo? Không có hình phạt và rủa sả đúng thời điểm của ngày hôm nay, ngày cuối cùng của các ngươi hẳn đã đến từ lâu. Đó là chưa kể đến số phận của các ngươi – chẳng phải điều đó còn nguy cấp hơn sao? Không có hình phạt và phán xét kịp thời này, ai biết được các ngươi sẽ kiêu ngạo đến mức nào, hoặc ngươi sẽ trở nên suy đồi như thế nào. Hình phạt và phán xét này đã đưa các ngươi tới ngày hôm nay, và chúng đã duy trì sự tồn tại của các ngươi. Nếu các ngươi vẫn được ‘giáo dục’ theo phương pháp tương tự như của ‘cha’ các ngươi, ai biết được các ngươi sẽ bước vào cõi nào! Các ngươi hoàn toàn không có khả năng kiểm soát và suy ngẫm về chính mình. Đối với những người như các ngươi, nếu các ngươi chỉ đi theo và tuân theo mà không gây ra bất kỳ sự can thiệp hay gián đoạn nào, thì các mục tiêu của Ta sẽ đạt được. Chẳng phải các ngươi nên làm tốt hơn trong việc chấp nhận hình phạt và phán xét của ngày hôm nay sao? Ngươi có những sự lựa chọn nào khác không?” (Sự thực hành (6), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Khi đọc lời Đức Chúa Trời, từng cảnh một cứ hiện lên trong tâm trí tôi, từ lúc tôi làm người rao giảng cho đến khi bị điều chuyển bổn phận, tôi có thể thật sự cảm thấy sự phán xét và tỉa sửa của Đức Chúa Trời chính là sự bảo vệ Ngài dành cho tôi. Tôi đã quá kiêu ngạo và không nhận ra được, hơn nữa, lòng tôi quá ngoan cố và phản nghịch. Nếu không có những sự thật xuất hiện hết lần này đến lần khác như thế, thì chẳng biết tôi đã kiêu ngạo đến mức nào. Tôi còn cảm nhận được tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho con người thực tế đến thế nào. Hết lần này đến lần khác, Đức Chúa Trời sắp đặt hoàn cảnh để cảnh báo và giúp tôi phản tỉnh bản thân. Lời Ngài dẫn dắt tôi, phán xét và phơi bày sự phản nghịch và bại hoại của tôi, khiến tôi biết mình và ăn năn với Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời mang nặng trách nhiệm với sự sống của con người. Ngài quá khả ái, quá xứng đáng để ta kính mến. Ý nghĩa thật sự của những lời này: “Hình phạt và phán xét của Đức Chúa Trời là sự sáng, là sự sáng của sự cứu rỗi con người, và chẳng có phước lành, ân điển hay sự bảo vệ nào tốt hơn cho họ”, là điều mà tôi đã bắt đầu hiểu được đôi chút. Nếu người ta muốn làm tinh sạch và thay đổi tâm tính, thì phải có sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời. Tôi đã cầu nguyện xin vâng phục Đức Chúa Trời, sẵn sàng thật sự để tâm trong bổn phận hiện tại, và dù không bao giờ được đề bạt, tôi vẫn sẵn sàng vâng phục sự an bài của Đức Chúa Trời.
Sau một thời gian, tôi nhận được thư của lãnh đạo cấp trên bảo rằng tôi được đề bạt và sẽ thực hiện bổn phận ở một nơi khác. Tôi chẳng tưởng tượng lại được như thế. Lúc đó, tôi vô cùng đội ơn Đức Chúa Trời, cảm thấy Ngài thật đáng mến biết bao! Thực tế là Đức Chúa Trời không cố để tôi kẹt ở đây và không thể làm bổn phận khác, nhưng tôi đã quá hồ đồ và mâu thuẫn về mọi chuyện, nên tôi cần được Đức Chúa Trời sắp đặt cho như thế để làm tinh sạch và thay đổi tôi. Tôi cũng thật sự trải nghiệm được ý định thiết tha nhất của Đức Chúa Trời nhằm cứu rỗi tôi. Tạ ơn Đức Chúa Trời!
Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?