Việc thực hiện bổn phận của tôi đã trở thành sự đổi chác như thế nào

30/01/2022

Bởi Thái Nạp, Trung Quốc

Vào tháng Tư năm 2017, tôi bị cao huyết áp, nên lãnh đạo cho tôi tạm dừng bổn phận để về nhà tịnh dưỡng. Tôi thật sự rất buồn và nghĩ, “Đức Chúa Trời sắp kết thúc công tác của Ngài, nên hiện giờ là thời điểm then chốt để thực hiện bổn phận và chuẩn bị việc thiện cho mình. Không có bổn phận để làm, mình có thể có được đích đến và kết cục tốt đẹp không? Bao nhiêu năm làm việc chăm chỉ, trả giá, sẽ là con số không sao? Mình đã đóng cửa phòng khám để làm bổn phận toàn thời gian. Chồng mình thì đã cố, nhưng không thể ngăn mình đi theo Đức Chúa Trời. Giờ mình đã ly dị, không có gia đình. Đảng Cộng sản Trung Quốc thì đang theo dõi, luôn dò hỏi bố mẹ mình về hành tung của mình. Mình còn chẳng thể đến nhà bố mẹ, mình thật sự chẳng biết đi đâu cả”. Có một người chị em đã cưu mang tôi. Chị ấy thông công với tôi về ý muốn của Đức Chúa Trời, nói rằng tôi nên vâng phục, nhưng tôi thật sự ghen tỵ khi thấy chị ấy cứ luôn bận rộn làm bổn phận. Tôi chẳng thể thực hiện bổn phận vì sức khỏe kém. Đức Chúa Trời đang dùng bệnh tình của tôi để tước đi bổn phận, phơi bày và loại bỏ tôi sao? Điều này khiến tôi bủn rủn cả người, tôi cảm thấy thật khốn khổ và tuyệt vọng. Sự hiểu lầm và oán trách Đức Chúa Trời còn lộ ra ngoài mặt. Tôi đã từ bỏ tất cả và chịu khổ quá nhiều mà không oán than một lời. Sao cuối cùng tôi lại không được thực hiện bổn phận chứ? Từ đó trở đi, tôi không thể thật sự tiếp thu lời Đức Chúa Trời và chẳng biết thưa gì với Đức Chúa Trời khi cầu nguyện. Tôi chán ăn, lại còn mất ngủ. Tôi chìm trong bóng tối như thế đến độ tôi còn tính ra ngoài tìm việc làm. Thấy tôi như vậy, người chị em đó đã xử lý tôi, nói rằng, “Chị không thật sự đọc lời Đức Chúa Trời và còn tính chuyện kiếm tiền. Chị đã thành con người khác mất rồi. Chị chẳng còn tìm kiếm lẽ thật nữa”. Những lời này với tôi thật quá khó nghe, và tôi đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời, “Lạy Đức Chúa Trời, con chẳng biết làm sao để trải nghiệm tình huống này, con chẳng biết con đường tương lai của con sẽ ra sao. Con đang sống trong bóng tối và con khổ sở lắm. Xin hãy soi sáng con và hướng dẫn con để con hiểu được ý muốn của Ngài”.

Những ngày sau đó, tôi tiếp tục cầu nguyện và tìm kiếm rất nhiều. Một sáng nọ, tôi bỗng nhớ đến một câu trong lời Đức Chúa Trời: “Ngươi có gương mặt của một người có thể có được các phước lành không?(Có một tâm tính không thay đổi là thù nghịch với Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Tôi liền mở máy tính để tìm đọc những đoạn lời đó. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Sau vài nghìn năm bại hoại, con người bị tê liệt và đần độn; họ đã trở thành một con quỷ chống đối Đức Chúa Trời, đến mức sự dấy loạn cùng Đức Chúa Trời của con người đã được ghi lại trong những cuốn sách lịch sử, và thậm chí chính con người cũng không thể kể hết về hành vi dấy loạn của mình – bởi vì con người đã bị Sa-tan làm cho bại hoại sâu sắc, và đã bị Sa-tan làm cho lầm đường lạc lối đến nỗi không biết làm sao. Ngay cả ngày nay, con người vẫn còn phản bội Đức Chúa Trời: Khi con người nhìn thấy Đức Chúa Trời, họ phản bội Ngài, và khi họ không thể nhìn thấy Đức Chúa Trời, họ cũng phản bội Ngài như thế. Thậm chí có những người, sau khi chứng kiến những sự rủa sả của Đức Chúa Trời và cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời, vẫn phản bội Ngài. Và vì thế, Ta phán rằng ý thức của con người đã đánh mất chức năng ban đầu của nó, và rằng lương tâm của con người cũng đã đánh mất chức năng ban đầu của nó. Con người mà Ta nhìn thấy là một con thú đội lốt người, họ là con rắn độc, và cho dù họ có cố gắng tỏ ra đáng thương trước mắt Ta thế nào đi nữa, Ta cũng sẽ không bao giờ thương xót họ, bởi vì con người không nắm được sự khác biệt giữa trắng và đen, sự khác biệt giữa lẽ thật và không phải lẽ thật. Ý thức của con người quá tê liệt, nhưng họ vẫn ao ước có được các phước lành; nhân tính của họ quá đê hèn, nhưng họ vẫn ao ước sở hữu quyền tối thượng của một vị vua. Với ý thức như thế, họ có thể làm vua của ai? Với nhân tính như thế, làm sao họ có thể ngồi trên ngai vàng? Con người thực sự không biết xấu hổ! Họ thật là những kẻ đê tiện tự phụ! Đối với những ai trong các ngươi ao ước có được các phước lành, Ta đề nghị các ngươi trước tiên hãy tìm một cái gương và nhìn vào hình ảnh phản chiếu xấu xa của chính các ngươi – ngươi có những gì cần để làm một vị vua không? Ngươi có gương mặt của một người có thể có được các phước lành không? Chưa có chút thay đổi nào trong tâm tính của ngươi và ngươi chưa đưa được bất kỳ lẽ thật nào vào thực hành, nhưng ngươi vẫn ao ước có một ngày mai tuyệt vời. Ngươi đang ảo tưởng!(Có một tâm tính không thay đổi là thù nghịch với Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Một người tin vào Đức Chúa Trời để nhận được phước lành – đây chẳng phải là điều tồn tại trong lòng mỗi người sao? … Nếu không có động cơ nhận được phước lành này, các ngươi sẽ cảm thấy thế nào? Các ngươi sẽ thực hiện bổn phận của mình với thái độ ra sao? Nếu động cơ này bị loại bỏ, hoặc nếu bản thân con người ngừng mong muốn điều này và từ bỏ nó, thì nhiều người trong số họ sẽ thực hiện bổn phận của mình mà không có sinh lực gì cả và cảm thấy rằng chẳng nghĩa lý gì phải tin vào Đức Chúa Trời. Linh hồn của họ sẽ như thể đã bị lấy đi. Điều này nằm sâu thẳm trong lòng họ. Có lẽ, khi thực hiện bổn phận hoặc sống đời sống hội thánh, họ cảm thấy rằng việc nhận được phước lành không còn tạo động lực trong họ nữa. Nhưng Đức Chúa Trời không tin như vậy. Mọi người nhìn vào bề nổi của họ và cảm thấy hài lòng về bản thân, và nghĩ rằng họ đã thay đổi. Họ nghĩ rằng họ đã đi từ giai đoạn đam mê sang giai đoạn mưu cầu lẽ thật trong việc thực hiện bổn phận của họ, rằng họ không còn dựa vào đam mê hay sự thúc đẩy nhất thời để thực hiện bổn phận nữa, mà có thể mưu cầu lẽ thật và phấn đấu thực hiện bổn phận theo tiêu chuẩn khi họ thực hiện nó, và rằng họ thường xuyên tự làm tinh sạch bản thân, để họ sẽ đi đến thỏa mãn ý muốn của Đức Chúa Trời và trở nên khá tốt với tư cách là loài thọ tạo, và rằng họ cũng có khả năng vâng phục phần nào. Nhưng khi điều gì đó phát sinh liên quan trực tiếp tới đích đến và kết cục của họ, thì bộ mặt thật của con người hoàn toàn được phơi bày trong cách cư xử của họ(“Sáu dấu chỉ của sự phát triển trong đời sống” trong Ghi chép về những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời phán xét của Đức Chúa Trời khiến tôi không biết trốn vào đâu cả. Trước đó, theo lý thuyết, tôi biết rằng theo đạo không phải chỉ là để nhận phước lành nhưng tôi đã không thật sự biết mình. Hoàn cảnh này thật sự phơi bày động cơ mưu cầu phước lành của tôi. Trong những năm qua, tôi đã từ bỏ tất cả, đóng cửa phòng khám và thực hiện bổn phận trong hội thánh, chịu nhiều đau khổ, dù chuyện gì xảy ra đi nữa. Tôi tưởng khi thực hiện những hy sinh này trong đức tin, chắc chắn tôi sẽ được Đức Chúa Trời tuyên dương và ban phước, và có một đích đến tốt, thế nên tôi thật sự có động lực bổn phận. Giờ tôi không thể thực hiện bổn phận vì sức khỏe kém, nên tôi nghĩ mình đã mất đích đến và ước mơ được có được phước lành của tôi đã tan tành. Tôi quá chán nản đến mức chẳng làm được gì. Tôi không chỉ hối tiếc vì đã từ bỏ mọi sự, mà còn trách Đức Chúa Trời, trả treo với Ngài và chống lại Ngài. Tôi xem sự hy sinh của mình là vốn liếng để đổi lấy phước lành của Đức Chúa Trời, nghĩ rằng miễn tôi chịu đau khổ và đóng góp công sức thì Đức Chúa Trời đã nợ tôi một đích đến và kết cục tốt đẹp. Không có được điều đó, tôi phàn nàn oán trách Đức Chúa Trời. Thì ra động cơ để được ban phước đã ẩn sau sự tiêu cực của chị. Chuyện này làm tôi nhớ lại lời Đức Chúa Trời: “Mục đích đức tin của các ngươi ở Đức Chúa Trời là dùng Ngài để đạt được những mục đích riêng của các ngươi. Chẳng phải điều này hơn nữa chính là thực tế về sự xúc phạm của các ngươi đối với tâm tính của Đức Chúa Trời sao?(Làm thế nào để biết Đức Chúa Trời trên trần gian, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Tâm tính của Đức Chúa Trời tỏa sáng qua lời Ngài. Quan điểm trong đức tin của tôi là thực hiện đổi chác với Đức Chúa Trời, lừa dối Ngài, lợi dụng Ngài để đạt được phước lành mà tôi khao khát. Việc đó xúc phạm đến tâm tính của Ngài. Những đóng góp và hy sinh của Phao-lô đều là để đòi quan miện công chính từ Đức Chúa Trời. Việc này xúc phạm nặng nề đến tâm tính của Đức Chúa Trời và ông đã bị trừng phạt. Còn tôi, sau khi hy sinh được chút ít, tôi đã đòi phần thưởng, quan miện, sự tuyên dương và phước lành, hệt như Phao-lô vậy. Khi tôi không có được điều mình mong đợi, tôi hiểu lầm và oán trách Đức Chúa Trời, thậm chí còn tính chuyện phản bội Ngài. Lý trí và lương tâm tôi ở đâu mất rồi? Một kẻ thuộc bè lũ Sa-tan như tôi đây mà mơ có được phước lành thì thật là cực kỳ vô liêm sỉ! Nếu sức khỏe không ngăn cản tôi thực hiện bổn phận, hẳn không bao giờ tôi thấy được sự mưu cầu sai trái của mình trong đức tin, mà cứ tiếp tục đi con đường sai trái, để rồi kết cục giống hệt như Phao-lô. Chuyện này khiến tôi hơi kinh sợ, và tôi nhận ra rằng Đức Chúa Trời sắp đặt chuyện này là vì tình yêu thương và sự cứu rỗi của Ngài dành cho tôi! Hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời rồi, tôi đầy hối hận và tự trách mình, tôi cầu nguyện với Ngài trong dòng nước mắt, “Lạy Đức Chúa Trời! Con vô cùng cảm tạ sự cứu rỗi của Ngài. Nếu không bị phơi bày như thế này, hẳn con đã chống đối Ngài và rơi vào địa ngục mà chẳng hiểu tại sao. Lạy Đức Chúa Trời, con muốn ăn năn với Ngài và không mưu cầu phước lành nữa. Con chỉ muốn mưu cầu lẽ thật, loại bỏ tâm tính bại hoại của con, và sống trọn giống con người”.

Cầu nguyện xong, tôi đọc thêm lời Đức Chúa Trời: “Giờ Ta sẽ tập trung mô tả cho các ngươi thấy Phi-e-rơ đã biết Ta như thế nào và kết cục cuối cùng của ông ra sao. … Ta đã bắt ông phải chịu vô vàn thử luyện – đương nhiên, những thử luyện này đã khiến ông ta sống dở chết dở – nhưng giữa hàng trăm lần thử luyện này, chưa một lần ông đánh mất đức tin vào Ta hay cảm thấy thất vọng về Ta. Thậm chí khi Ta nói Ta đã bỏ rơi ông, ông vẫn không nhụt chí, mà tiếp tục yêu mến Ta một cách thiết thực và theo các nguyên tắc thực hành trước đây. Ta đã bảo ông rằng Ta sẽ không khen ngợi ông cho dù ông yêu mến Ta, rằng cuối cùng Ta sẽ ném ông ta vào tay Sa-tan. Nhưng giữa những lần thử luyện như vậy, không phải thử luyện đối với xác thịt mà bằng lời nói, ông vẫn cầu nguyện với Ta và nói: ‘Lạy Đức Chúa Trời! Giữa trời đất và vạn vật, có bất kỳ con người nào, vật thọ tạo nào hay sự vật nào mà không nằm trong tay Ngài, Đấng Toàn Năng? Khi Ngài thương xót tôi, lòng tôi hân hoan xiết bao bởi lòng thương xót của Ngài. Khi Ngài phán xét tôi, cho dù tôi có thể không xứng đáng, tôi cảm nhận rõ hơn sự không thể dò lường trong những việc làm của Ngài, bởi vì Ngài đầy rẫy thẩm quyền và sự khôn ngoan. Dù thân xác tôi chịu khổ cực, nhưng tinh thần tôi được an ủi. Làm sao tôi có thể không ngợi ca sự khôn ngoan và những việc làm của Ngài? Thậm chí dù tôi có chết sau khi biết Ngài, làm sao tôi có thể không chết trong hân hoan và hạnh phúc? …’” “Vì lòng trung thành của ông trước Ta và vì phước lành của Ta ban cho ông, ông đã là một tấm gương và một kiểu mẫu cho con người trong hàng ngàn năm. Đây chẳng phải chính là điều các ngươi nên học tập sao?(“Chương 6” của Những lời của Đức Chúa Trời với toàn vũ trụ trong Lời xuất hiện trong xác thịt). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi nhận ra rằng Phi-e-rơ không bị ràng buộc bởi vận mệnh hay đích đến. Kể cả khi Đức Chúa Trời bảo Ngài sẽ không tuyên dương Phi-e-rơ bất chấp lòng yêu kính của ông và cuối cùng sẽ giao ông cho Sa-tan, Phi-e-rơ vẫn theo đuổi việc yêu kính Đức Chúa Trời và quy phục đến tận khi chết. Trong tình yêu thương mà Phi-e-rơ dành cho Đức Chúa Trời, chẳng có sự đổi chác hay uế tạp nào cả, mà chỉ có tình yêu và sự vâng phục đích thực. Tôi đã tìm ra con đường thực hành từ lời Đức Chúa Trời và sẵn sàng tìm cách kính yêu Đức Chúa Trời như Phi-e-rơ, đi con đường tìm sự thay đổi tâm tính. Dù Đức Chúa Trời đối xử thế nào với tôi, hay kết cục và đích đến của tôi có ra sao, tôi vẫn sẽ quy phục sự cai trị và an bài của Đức Chúa Trời và thật sự dâng mình cho Ngài. Tôi không thể thực hiện bổn phận trong hội thánh như trước kia, nhưng tôi đã hưởng sự bồi dưỡng của lời Đức Chúa Trời trong mấy năm qua và đã có chút trải nghiệm, nên tôi có thể viết ra những gì tôi đã học được từ công tác của Đức Chúa Trời để làm chứng cho Ngài. Đây cũng là thực hiện bổn phận của một loài thọ tạo. Tôi bắt đầu thường xuyên tĩnh tâm trước Đức Chúa Trời, suy ngẫm lời Ngài và viết những lời chứng về trải nghiệm. Tôi cảm thấy mình gần gũi với Đức Chúa Trời hơn, và không còn băn khoăn về tương lai và tiền đồ của tôi nữa. Tôi cảm thấy có một cảm giác cực kỳ nhẹ nhõm. Sau khi hồi phục sức khỏe được chút ít, huyết áp của tôi về cơ bản đã bình thường, và tôi trở lại thực hiện bổn phận trong hội thánh.

Tôi tưởng rằng sau trải nghiệm đó, tôi đã có được chút hiểu biết về quan điểm của tôi trong đức tin nơi Đức Chúa Trời và tôi sẽ không còn bị hy vọng được ban phước lành cản trở nữa. Nhưng chẳng mấy chốc, khao khát đó lại trỗi dậy.

Tôi đã được bầu làm lãnh đạo hội thánh. Trong một buổi hội họp, lãnh đạo bảo chúng tôi kiểm tra năng lực thực hiện công tác thực tế của từng nhóm trưởng và nói rằng tuyệt đối không được để người gian xảo hoặc người không tiếp nhận lẽ thật giữ vị trí đó. Tôi cho rằng mình phải lo việc này càng sớm càng tốt, nghĩ rằng dùng sai người có thể gây hại cho công tác của hội thánh và cho các anh chị em. Không chỉ tôi có thể mất bổn phận lãnh đạo, mà đó còn là một sự vi phạm, một việc ác. Một tháng sau đó, tôi đã thực hiện được những sửa đổi cần thiết và thấy rất mừng. Nhưng ngạc nhiên thay, lãnh đạo của chúng tôi sớm phát hiện ra một trong những người tôi chọn lại là người gian xảo. Tôi rất buồn vì chuyện này. Tôi cảm thấy mình đã không làm tốt bổn phận và đã cản trở công tác của hội thánh. Không lâu sau, các anh chị em lại báo cáo rằng một người khác mà tôi chọn lại là người kiêu ngạo. Anh ta bác bỏ mọi đề xuất hợp lý của người khác, còn mắng nhiếc và kìm hãm họ. Họ muốn cách chức anh ta. Thấy vấn đề cứ liên tục nảy sinh, tôi cảm thấy tinh thần suy sụp, tôi thấy thật khốn khổ, và cảm thấy mình có nhận thức nông cạn về lẽ thật, thấy tôi thiếu thực tế lẽ thật. Nếu có chuyện gì không ổn và ảnh hưởng đến công tác của hội thánh, thì đó sẽ là một tội ác ghê gớm. Rồi chẳng phải tương lai, vận mệnh, kết cục và đích đến của tôi sẽ tiêu tùng sao? Tôi cảm thấy mình phải chuyển sang một bổn phận khác ngay lập tức. Một sáng nọ, tôi bắt đầu cảm thấy choáng váng, và thấy huyết áp mình tăng cao hơn mức bình thường. Tôi đã báo chuyện này với lãnh đạo, nghĩ rằng vì sức khỏe của tôi có vấn đề, nên chị ấy đổi tôi sang lo bổn phận khác thì tốt biết mấy. Thế thì tôi sẽ không mang nhiều trách nhiệm nữa. Tôi bình thản nói với người chị em cùng làm với tôi, “Tôi sẵn sàng từ bỏ vị trí này nếu cần, và sau đó, tôi sẽ làm bất kỳ bổn phận nào tôi làm được”. Chị ấy đã xử lý tôi, nói rằng tôi đã thể hiện sự tiêu cực và nên phản tỉnh đi. Tôi chẳng muốn chấp nhận lời chị ấy. Tôi nghĩ mình sẵn sàng vâng phục và làm bất kỳ bổn phận gì có thể. Sao thế mà là tiêu cực được? Nhưng rồi tôi nghĩ ra rằng Đức Chúa Trời đã cho phép chị ấy nói thế, nên tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời xin Ngài dẫn dắt để tôi có thể nhận thức được tình trạng thực của mình.

Sau đó tôi đã đọc được đoạn lời này của Đức Chúa Trời: “Cho dù họ có bị thử luyện thế nào, lòng trung thành của những người có Đức Chúa Trời trong lòng mình vẫn không thay đổi; nhưng đối với những ai không có Đức Chúa Trời trong lòng mình, một khi công tác của Đức Chúa Trời không thuận lợi cho xác thịt của họ, thì họ thay đổi quan điểm của mình về Đức Chúa Trời, và thậm chí còn rời xa Đức Chúa Trời. Đó là những người sẽ không đứng vững vào lúc cuối cùng, những người chỉ tìm kiếm các phước lành của Đức Chúa Trời và không có mong muốn dâng mình cho Đức Chúa Trời và dành trọn bản thân cho Ngài. Tất cả những kẻ hèn hạ như thế đều sẽ bị trục xuất khi công tác của Đức Chúa Trời kết thúc, và chúng không xứng đáng với bất kỳ sự cảm thông nào. Những người vô nhân tính không có khả năng thực sự yêu mến Đức Chúa Trời. Khi tình cảnh an toàn và bảo đảm, hoặc có thể làm lợi, thì họ hoàn toàn vâng lời Đức Chúa Trời, nhưng một khi những gì họ mong muốn bị tổn hại hoặc cuối cùng bị bác bỏ, họ nổi loạn ngay lập tức. Thậm chí chỉ trong một đêm, họ có thể đi từ một người tươi cười, ‘tốt bụng’ đến một tên sát nhân xấu xí và tàn bạo, bất thình lình đối xử với ân nhân của mình ngày hôm qua như là kẻ thù không đội trời chung, mà chẳng có lí do chính đáng gì. Nếu những con quỷ này không bị đuổi ra, những con quỷ này mà sẽ giết hại không chớp mắt, thì chẳng phải chúng sẽ là nguồn gốc của nguy hiểm tiềm ẩn sao?(Công tác của Đức Chúa Trời và sự thực hành của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Những lời phán xét của Đức Chúa Trời như xuyên thấu tâm can tôi. Chẳng phải tôi chính xác là loại người mà Ngài đã phơi bày sao? Tôi hăng hái và làm việc chăm chỉ khi nghĩ rằng bổn phận của mình sẽ đem lại phước lành. Còn khi không được thế, tôi trở mặt và không muốn bổn phận đó nữa. Tôi chỉ nghĩ đến tiền đồ và đích đến của mình. Khi phạm sai lầm, tôi chẳng phản tỉnh và tìm kiếm lẽ thật sau những thất bại của mình, bù đắp cho những thiếu sót của mình và cố gắng làm tốt, mà lại sợ mang trách nhiệm và làm tổn hại tiền đồ của mình. Tôi đã muốn từ bỏ bổn phận này để đổi lấy một bổn phận ít trách nhiệm hơn, dùng bệnh cao huyết áp của tôi để làm cái cớ. Trông bên ngoài thì tôi hành xử có vẻ hợp lý, nhưng ẩn bên trong là những động cơ đáng khinh. Tôi thật quá xảo trá!

Tôi bắt đầu suy ngẫm về căn nguyên thật sự của việc tôi luôn tìm kiếm phước lành trong đức tin. Rồi tôi đọc thấy đoạn này trong lời Đức Chúa Trời: “Tất thảy những kẻ bại hoại đều sống cho chính mình. Người không vì mình, trời tru đất diệt – đây là tổng thể về bản tính của con người. Mọi người tin vào Đức Chúa Trời vì những lợi ích của riêng họ; họ từ bỏ mọi thứ, dâng mình cho Ngài, và trung tín với Ngài, nhưng họ vẫn làm tất thảy những điều này vì chính bản thân mình. Tóm lại, tất thảy đều được thực hiện với mục đích giành được phước lành cho bản thân họ. Trong xã hội, mọi việc đều được thực hiện vì lợi ích cá nhân; việc tin vào Đức Chúa Trời được thực hiện chỉ để giành được phước lành. Con người từ bỏ mọi thứ và có thể chịu đựng nhiều đau khổ là để giành được phước lành: Đây là tất thảy bằng chứng thực nghiệm về bản tính bại hoại của con người(“Sự khác biệt giữa những thay đổi bên ngoài và những thay đổi trong tâm tính” trong Ghi chép về những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Từ đoạn này, tôi đã biết được rằng tôi luôn nghĩ đến bản thân vì tôi đã bị Sa-tan làm bại hoại trầm trọng. “Người không vì mình, trời tru đất diệt”, và “Không có lợi, dậy sớm làm gì”, những quy luật sinh tồn này của Sa-tan đã trở thành bản tính của tôi, khiến tôi ích kỷ, đáng khinh và tư lợi hơn. Làm việc gì, tôi cũng nghĩ về lợi ích cá nhân. Nhìn vào con đường đức tin của mình bao năm qua, ngay từ đầu việc tôi thực hiện bổn phận đã là để được ban phước và ban thưởng, cuối cùng là được vào thiên quốc. Nhiều năm làm việc chăm chỉ và chịu đau khổ của tôi không phải là để thực hiện bổn phận loài thọ tạo hay thực sự dâng mình cho Đức Chúa Trời, mà là để lợi dụng Đức Chúa Trời, dối gạt Ngài, đổi chác với Ngài. Hoàn toàn không phải để yêu thương và làm Đức Chúa Trời hài lòng. Người theo đạo như tôi mà lại như vậy sao? Tôi là kẻ chẳng tin. Đức Chúa Trời đã cất nhắc tôi làm lãnh đạo hội thánh để tôi có thể thực hành, dùng lẽ thật mà giải quyết các vấn đề, học cách phân định và hiểu biết sâu sắc, thế mà tôi chẳng trân trọng cơ hội đó. Tôi đã không bước vào bằng lẽ thật, mà chỉ nghĩ về tiền đồ và vận mệnh của mình. Tôi đã đi trên đường chống đối Đức Chúa Trời. Tôi biết mình phải ăn năn và mưu cầu lẽ thật, không thì chắc chắn cuối cùng sẽ bị diệt vong.

Trong một buổi thờ phượng, tôi đã đọc được những lời này của Đức Chúa Trời: “Lý do duy nhất mà Đức Chúa Trời nhập thể đã đến trong xác thịt là vì nhu cầu của con người bại hoại. Đó là vì nhu cầu của con người, chứ không phải của Đức Chúa Trời, và tất cả những sự hy sinh và đau khổ của Ngài là vì lợi ích của con người, chứ không vì lợi ích của chính Đức Chúa Trời. Không có sự thiệt hơn hoặc phần thưởng nào đối với Đức Chúa Trời; Ngài sẽ không gặt hái vụ mùa nào đó trong tương lai, mà là những thứ mà ban đầu đã thuộc sở hữu của Ngài. Tất cả những gì Ngài làm và hy sinh cho nhân loại không phải là để Ngài có thể nhận được những phần thưởng to lớn, mà hoàn toàn là vì lợi ích của nhân loại(Nhân loại bại hoại càng cần hơn sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời nhập thể, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Khi suy ngẫm về đoạn lời này, tôi đã rất xúc động trước tình yêu của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời tối cao, thánh khiết và đáng kính, đã trở nên xác thịt hai lần hòng cứu rỗi nhân loại bị bại hoại sâu sắc, Ngài đã chịu sỉ nhục và đau đớn cùng cực. Đức Chúa Jêsus đã chịu bị đóng đinh trên thập giá để cứu chuộc nhân loại, trả giá bằng mạng sống của Ngài. Đức Chúa Trời Toàn Năng đã trở nên xác thịt ở Trung Quốc vào thời kỳ sau rốt, bày tỏ các lẽ thật để làm tinh sạch và cứu rỗi nhân loại, chịu sự bách hại và báng bổ của Đảng Cộng sản Trung Quốc và giới tôn giáo. Ngài đã chịu đựng tất cả để công tác giữa chúng ta, để ban lời Ngài cho chúng ta mà chẳng đòi đổi lại gì, chỉ để cứu chúng ta khỏi ảnh hưởng của Sa-tan. Đức Chúa Trời đã trả giá đắt như thế để cứu rỗi nhân loại, mà không màng đến thiệt hơn của Ngài. Ngài không đòi chúng ta phải đền đáp gì, Ngài không đòi phần thưởng gì. Tình yêu thương của Ngài là thật và vị tha. Thực chất của Đức Chúa Trời quá đẹp đẽ và tốt đẹp! Rồi tôi nhìn lại mình, tôi đã nói mình có đức tin và muốn làm Đức Chúa Trời hài lòng, vậy mà tôi chẳng thật tâm hướng về Ngài chút nào. Tôi mượn danh nghĩa làm công tác cho Ngài chỉ để thực hiện đổi chác lấy phước lành, lợi dụng và dối gạt Đức Chúa Trời. Tôi đã thấy mình ích kỷ, xảo trá, ti tiện và đáng hổ thẹn đến thế nào. Tôi đã sống thể hiện ra hình ảnh giống Sa-tan. Một kẻ chống đối Đức Chúa Trời như tôi, một đồng đảng của Sa-tan, dù có hy sinh đến thế nào cũng chẳng bao giờ được Đức Chúa Trời chấp thuận. Tôi cũng đọc được đoạn lời này của Đức Chúa Trời: “Là một loài thọ tạo của Đức Chúa Trời, con người phải cố gắng thực hiện bổn phận của một loài thọ tạo của Đức Chúa Trời, và tìm kiếm tình yêu dành cho Đức Chúa Trời mà không có lựa chọn khác, vì Đức Chúa Trời xứng đáng với tình yêu của con người. Những ai tìm kiếm tình yêu dành cho Đức Chúa Trời không nên tìm kiếm bất kỳ lợi ích cá nhân nào hoặc những điều cá nhân họ ao ước; đây là cách theo đuổi đúng đắn nhất(Thành công hay thất bại phụ thuộc vào con đường mà con người đi, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Tôi nhận ra trong lời Đức Chúa Trời nói rằng loài thọ tạo không nên có đức tin chỉ vì phước lành. Việc mưu cầu tình yêu thương dành cho Đức Chúa Trời và thực hiện tốt bổn phận mới là cuộc sống có ý nghĩa duy nhất. Tôi đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời rằng: “Lạy Đức Chúa Trời, con muốn từ bỏ con đường tà ác và ăn năn với Ngài, không tìm kiếm phước lành nữa. Dù đích đến của con có thế nào, con cũng muốn thực hiện bổn phận cho tốt để đền đáp tình yêu thương của Ngài”. Khi đã chỉnh đốn tình trạng của tôi, huyết áp của tôi cũng ổn định.

Tôi cũng xem vài video đọc lời Đức Chúa Trời. “Không có mối tương quan giữa bổn phận của con người và việc liệu họ được ban phước hay bị rủa sả. Bổn phận là việc con người phải thực hiện; đó là thiên hướng của họ và không nên lệ thuộc vào sự tưởng thưởng, điều kiện hay lý do. Chỉ khi đó mới là thực hiện bổn phận của mình. Được ban phước là khi ai đó được làm cho hoàn thiện và vui hưởng các phước lành của Đức Chúa Trời sau khi trải qua sự phán xét. Bị rủa sả là khi tâm tính của ai đó không thay đổi sau khi họ đã trải qua hình phạt và sự phán xét, đó là khi họ không trải nghiệm việc được làm cho hoàn thiện, mà bị trừng phạt. Nhưng bất kể họ được ban phước hay bị rủa sả, những loài thọ tạo cũng phải thực hiện bổn phận của mình, làm những điều họ cần phải làm, và làm những điều họ có thể làm; thực hành được như vậy chính là điều tối thiểu mà người mưu cầu Đức Chúa Trời nên làm. Ngươi không nên thực hiện bổn phận của mình chỉ để được ban phước, và ngươi không nên từ chối hành động vì sợ bị rủa sả. Để Ta bảo các ngươi điều này: Việc thực hiện bổn phận của con người là những gì họ cần phải làm, và nếu họ không thể thực hiện bổn phận của mình, thì đây là sự phản nghịch của họ. Chính qua quá trình thực hiện bổn phận của mình mà con người dần dần được thay đổi, và chính qua quá trình này mà con người chứng minh được lòng trung thành của họ. Như vậy, ngươi càng có thể thực hiện bổn phận của mình, thì ngươi sẽ càng nhận được nhiều lẽ thật, và sự bày tỏ của ngươi sẽ càng trở nên thật hơn(Sự khác nhau giữa chức vụ của Đức Chúa Trời nhập thể và bổn phận của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Việc liệu con người có thể đạt được sự cứu rỗi hay không không phụ thuộc vào bổn phận nào họ làm tròn, mà phụ thuộc vào việc liệu họ đã hiểu và đạt được lẽ thật hay chưa, và phụ thuộc vào việc liệu họ có thể quy phục sự dàn xếp của Đức Chúa Trời và là một tạo vật đích thực hay không. Đức Chúa Trời là Đấng công chính, và đây là tiêu chuẩn mà Ngài dùng để đo lường cả nhân loại. Tiêu chuẩn này là bất biến, và ngươi phải nhớ điều này. Do đó, đừng nghĩ về việc tìm kiếm con đường nào khác, hay theo đuổi điều viển vông nào đó. Các tiêu chuẩn Đức Chúa Trời đòi hỏi ở tất cả những ai đạt được sự cứu rỗi vĩnh viễn không thay đổi; chúng vẫn như thế cho dù ngươi là ai(“Thái độ mà con người nên có với Đức Chúa Trời” trong Ghi chép về những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Video này đã giúp tôi hiểu ra rằng bổn phận của chúng ta chẳng liên quan gì đến việc cuối cùng ta sẽ được ban phước hay rủa sả. Mấu chốt để được cứu rỗi triệt để là liệu chúng ta có mưu cầu và đạt được lẽ thật hay không, có thay đổi được tâm tính hay không. Tôi làm bổn phận gì, khi nào, tất cả đều được Đức Chúa Trời quyết định, và kết cục cũng như đích đến của tôi lại càng phụ thuộc vào sự cai quản và an bài của Đức Chúa Trời. Việc tôi nên làm là chấp nhận sự sắp đặt của Đức Chúa Trời và tận tụy thực hiện bổn phận. Tôi còn nhận ra rằng tôi đã không có thực tế lẽ thật và quá yếu kém, chính vì thế mà bổn phận đó đã phơi bày các lỗi lầm và thiếu sót của tôi. Tìm kiếm lẽ thật và hiểu ra những nguyên tắc này có thể cải thiện những thiếu sót và giúp tôi phát triển trong đời sống. Thấy được điều này, tôi không còn lo lắng về tiền đồ và vận mệnh của mình, cũng chẳng muốn đổi bổn phận nữa. Tôi làm việc một cách kiên định, tìm kiếm lẽ thật để giải quyết bất kỳ vấn đề nào xuất hiện, từ từ nắm bắt được một vài nguyên tắc và dần bớt phạm sai lầm hơn trong bổn phận. Việc đi theo lời Đức Chúa Trời và không mưu cầu phước lành trong bổn phận thật sự đã giải thoát tôi. Tôi đã được Đức Chúa Trời ban phước và dẫn dắt, nên kết quả ngày một cải thiện.

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Leave a Reply

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger